← Quay lại trang sách

Chương 9

BA TOONG CỦA JAHNS MỖI LẦN GÕ XUỐNG BẬC THANG kim loại lại phát ra một tiếng rung vang rền. Chẳng bao lâu sau, nó đã trở thành một máy đếm nhịp cho hành trình đi xuống của họ, đánh nhịp cho bản nhạc của cây cầu thang, bấy giờ đông nghịt người, tràn đầy năng lượng nhờ cuộc lau chùi mới diễn ra. Dường như tất cả đều đang đi lên trên, ngoại trừ hai người bọn họ. Họ chen lấn đi ngược dòng người, những cùi chỏ va quẹt nhau, những tiếng “Chào thị trưởng!” kèm theo những cái gật đầu với Marnes. Và Jahns nhìn thấy điều ấy hiển hiện trên gương mặt của họ: ham muốn gọi ông là cảnh sát trưởng, chỉ ghìm lại bởi chút lòng kiêng nể trước lý do kinh khủng dẫn đến cuộc thăng chức mà họ giả định sẽ đến với ông.

“Bà sẵn sàng đi bao nhiêu tầng?” Marnes hỏi.

“Tại sao, ông mệt rồi à?” Jahns liếc nhìn qua vai, nhếch mép cười với ông, thấy bộ ria mép xồm xoàm của ông cũng nhếch lên cười nốt.

“Đi xuống không thành vấn đề đối với tôi. Tôi chỉ không chịu nổi lúc leo lên.”

Bàn tay họ thoáng chạm nhau trên lan can xoắn của cây cầu thang, khi tay Jahns còn ở lại phía sau, còn tay Marnes thì đưa đến trước. Bà muốn bảo với ông rằng mình không hề mệt mỏi chút nào, nhưng đúng là bà chợt cảm thấy mệt mỏi, một cơn kiệt quệ về mặt tâm thần hơn là thể chất. Một cách trẻ con, bà mường tượng ra quãng thời gian mình còn trẻ và hình dung Marnes bế phốc bà lên và đưa bà xuống thang trong vòng tay mình. Bà sẽ được hưởng một sự giải phóng ngọt ngào, cả về sức lực lẫn trách nhiệm, được buông mình vào sức mạnh của người khác, không cần giả vờ mình mạnh mẽ. Đây không phải một ký ức về quá khứ; đây là một tương lai chưa bao giờ xảy ra. Và thậm chí chỉ nghĩ đến điều đó thôi mà Jahns cũng đã thấy tội lỗi rồi. Bà cảm thấy chồng mình bước cạnh mình, hồn ma của ông bất bình trước dòng suy nghĩ của bà...

“Thị trưởng? Bà tính đi bao nhiêu tầng?”

Hai người bọn họ dừng lại và áp sát vào lan can lúc một cậu khuân vác ì ạch bước lên cầu thang. Jahns nhận ra cậu bé ấy, Connor, vẫn còn là thiếu niên nhưng đã có một tấm lưng chắc khỏe và bước đi vững vàng. Cậu ta đỡ trên vai mấy bó đồ buộc vào nhau. Mặt cậu ta nhăn nhó không phải vì kiệt sức hay đau đớn, mà là vì bực bội. Mấy người tự nhiên xuất hiện trên cầu thang của cậu ta là ai thế? Mấy kẻ du khách này này? Jahns cố nghĩ ra một lời khích lệ, một phần thưởng bằng lời nho nhỏ dành tặng những người cáng đáng một công việc mà đầu gối của bà không bao giờ làm nổi, nhưng cậu ta đã được cặp chân trẻ khỏe đưa đi mất, mang đồ ăn và nhu yếu phẩm từ khu dưới sâu lên, chỉ bị hãm lại bởi dòng người trong khắp tháp giống tìm cách leo lên, hòng được ngó qua thế giới bên ngoài rộng rãi và sạch sẽ.

Bà và Marnes dừng lại một lúc lấy hơi giữa cầu thang. Marnes đưa cho bà bi đông của mình, và bà lịch sự nhấp một ngụm trước khi đưa trả lại.

“Hôm nay tôi muốn xuống một nửa,” bà cuối cùng cũng đáp. “Nhưng tôi muốn dừng lại vài điểm trên đường.”

Marnes ực một hơi nước và vặn nắp đóng lại. “Đến thăm nhà cử tri à?”

“Đại loại vậy. Tôi muốn ghé qua khu dưỡng nhi ở tầng hai mươi.”

Mames cười phá lên. “Hôn hít lũ trẻ con ư? Thị trưởng à, sẽ chẳng ai bầu cho bà mất ghế đâu. Đặc biệt là ở cái tuổi của bà.”

Jahns không cười. “Cảm ơn,” bà nói với vẻ đau đớn giả vờ. “Nhưng không, không phải để hôn hít lũ trẻ con.” Bà quay lưng lại và tiếp tục đi; Marnes bám theo sau. “Không phải tôi không tin tưởng ý kiến của ông về cái cô Jules này đâu. Kể từ hồi tôi trở thành thị trưởng đến nay, ông toàn chọn người tử tế.”

“Kể cả...?” Marnes ngắt ngang.

“Đặc biệt là cậu ấy,” Jahns nói, biết ông đang nghĩ gì. “Cậu ấy là một người tử tế, nhưng cậu ấy mang trong lòng một trái tim tan nát. Ngay cả những người tài giỏi nhất cũng sẽ bị nó đánh quỵ.”

Marnes làu bàu đồng ý. “Thế chúng ta sẽ kiểm tra thứ gì tại khu dưỡng nhi vậy? Cái cô Juliette này đâu có sinh ra ở tầng hai mươi, nếu tôi nhớ không nhầm...”

“Không, nhưng bố cô ta giờ đang làm việc ở đó. Bởi vì chúng ta có đi ngang đó, tôi tính là mình cũng nên tìm hiểu ông ta, biết thêm thông tin về con gái ông ta.”

“Hỏi một ông bố để biết tính cách ư?” Marnes bật cười. “Tôi không nghĩ bà sẽ nhận được một lời đáp vô tư đâu.”

“Tôi nghĩ ông sẽ được một phen ngạc nhiên đấy,” Jahns nói. “Tôi đã bảo Alice tìm hiểu đôi chút trong lúc tôi gói ghém đồ đạc. Cô ta đã phát hiện ra một điều thú vị.”

“Sao?”

“Cái cô Juliette này vẫn giữ mọi tem nghỉ phép kiếm được.”

“Đó không phải chuyện hiếm thấy đối với bên Cơ Khí,” Marnes nói. “Họ làm ngoài giờ nhiều lắm.”

“Cô ta không chỉ chẳng đi đâu, cô ta còn không được ai đến thăm nữa.”

“Tôi vẫn không hiểu ý bà là gì.”

Jahns đợi cho một gia đình đi ngang qua. Một thằng bé, chắc sáu hay bảy tuổi gì đó, cưỡi trên vai bố mình, đầu chúi xuống để tránh va vào bậc cầu thang ở trên. Bà mẹ đi đằng sau, một túi hành lý qua đêm vắt trên vai, ôm trong tay đứa bé sơ sinh quấn tã kín mít. Jahns thầm nghĩ rằng đây là một gia đình hoàn hảo. Thay thế những gì họ đã lấy đi. Hai đổi hai. Đúng với mục đích đôi khi thành công của việc quay số.

“Rồi, để tôi nói cho ông nghe ý tôi là gì,” bà bảo với Marnes. “Tôi muốn tìm bố cô gái này, nhìn vào mắt ông ta, và hỏi ông ta tại sao trong gần hai mươi năm kể từ khi cô con gái của ông ta chuyển xuống Cơ Khí, ông ta chưa lần nào ghé thăm hết. Không một lần.”

Bà ngoái lại nhìn Marnes, thấy môi ông trễ xuống bên dưới bộ ria mép. “Và cả tại sao cô ta chưa lần nào lên thăm ông ta nữa,” bà nói thêm.

Lúc họ đi quá các căn hộ tầng trên, xuống dưới tầng mười, dòng người vãn bớt. Cứ mỗi lần bước xuống một bước, Jahns lại thấy hãi sợ cảnh phải lần lại những phân đường đã đi qua khi leo trở lại. Đây là phần dễ, bà tự nhắc nhở mình. Hành trình đi xuống cũng tương tự như gỡ cho thẳng một lò xo thép, đẩy bà xuống. Nó gợi cho Jahns nhớ đến những cơn ác mộng bà từng gặp phải về chết đuối. Mơ như vậy thật ngớ ngẩn, bởi lẽ bà chưa bao giờ nhìn thấy một lượng nước đủ để ngâm mình, đừng nói là đủ để ngập lút đầu không thở được. Nhưng chúng cũng chẳng khác nào mấy giấc mơ rơi xuống từ trên cao thỉnh thoảng vẫn xuất hiện, di sản của một thời đã qua, những mảnh vỡ được đào lên trong tâm trí mỗi người trong lúc ngủ, thì thầm với họ: Chúng ta đáng lẽ đâu phải sống thế này.

Và bởi vậy, hành trình đi xuống, con đường xoắn ốc xuống dần ấy cũng giống như cái cảm giác chết đuối nuốt chửng bà lúc đêm buông. Thật không thể ngăn cản được mà cũng không thể cứu vãn được. Như một khối nặng kéo ghì bà xuống, đồng thời cũng khiến bà biết rằng mình không bao giờ có thể bò trở lên. Tiếp theo họ băng qua khu làm quần áo, vùng đất của những bộ quần yếm đủ màu và xuất xứ những cuộn len của bà. Mùi thuốc nhuộm và các hóa chất khác bốc ra đến chiếu nghỉ. Một cửa sổ trổ vào bức tường gạch thông gió cong cong cho phép nhìn vào một cửa hàng đồ ăn nhỏ ở rìa khu quần áo. Nó đã bị đám đông khoắng sạch, các ngăn kệ trống rỗng sau khi phục vụ nhu cầu quá tải của những khách lữ hành kiệt quệ và lưu lượng người gia tăng hậu lau chùi. Mấy người khuân vác chen chật cứng cầu thang mang theo những món hàng hóa nặng nề, dốc hết sức lực hòng đáp ứng nhu cầu, và Jahns nhận ra một sự thật tệ hại về việc lau chùi ngày hôm qua: truyền thống dã man ấy không chỉ giúp giải tỏa tâm lý, không chỉ mang lại quang cảnh rõ ràng về thế giới bên ngoài: nó còn chống đỡ nền kinh tế của tháp giống. Bất chợt người ta có một cái cớ để du lịch. Một cái cớ để đổi chác. Và khi mọi người rôm rả chuyện trò, gia đình và bạn bè xưa cũ lần đầu tiên gặp lại nhau sau bao nhiêu tháng trời hay thậm chí có thể là bao nhiêu năm trời, một luồng sinh khí mới được truyền vào trong toàn bộ tháp giống. Hệt như một cơ thể già cỗi duỗi chân duỗi tay và nới lỏng cơ khớp, máu chảy đến tứ chi. Một tạo vật lọm khọm lại tràn trề sức sống.

“Thị trưởng!”

Bà quay lại và thấy Marnes đã gần mất dạng trên phần cầu thang phía trên mình. Bà ngừng lại đợi ông đuổi đến nơi, quan sát ông hối hả đưa chân.

“Bình tĩnh nào,” ông nói. “Tôi không thể theo kịp nếu bà đi phăm phăm như thế.”

Jahns xin lỗi. Bà không nhận tốc độ của mình đã thay đổi. Lúc họ bước vào các căn hộ lớp hai, dưới tầng thứ mười sáu, Jahns nhận ra bà đã đặt chân đến vùng lãnh thổ mà gần một năm rồi mình chưa ghé. Ở đây có tiếng những bàn chân trẻ tuổi đuổi nhau trên cầu thang, bị vướng phải những người leo chậm. Trường tiểu học cho những gia đình sống ở một phần ba khu trên cùng nằm ngay phía trên khu dưỡng nhi. Nghe tiếng người người đi lại và những giọng nói vang lên, có thể thấy trường đã được cho nghỉ. Jahns đoán nguyên nhân là bởi họ biết sẽ có rất ít đứa đến trường (các ông bố bà mẹ đưa con cái mình lên ngắm cảnh), kèm theo sẽ có rất nhiều giáo viên muốn làm điều tương tự. Họ băng qua phần chiếu nghỉ dùng làm sân trường, nơi những nét phấn kẻ ô lò cò và bóng bốn ô đã bị những bàn chân qua lại trong ngày xóa nhòa mất, nơi có những đứa trẻ ngồi ôm lấy lan can, đầu gối trầy trụa thò ra ngoài, chân đung đưa dưới phần chiếu nghỉ chìa ra, và nơi những tiếng huýt sáo chọc ghẹo nhau và la ó hớn hở hạ xuống thành tiếng thì thầm bí mật khi người lớn xuất hiện.

“Tôi rất mừng là ta đã gần đến nơi rồi, tôi cần nghỉ một chút,” Marnes nói trong lúc họ đi xuống thêm một tầng thang nữa để đến khu dưỡng nhi. “Tôi hy vọng cái tay này có ở đó để mà gặp chúng ta.”

“Ông ta sẽ có mặt thôi,” Jahns nói. “Alice đã điện cho ông ta từ văn phòng của tôi, thông báo rằng chúng ta đang trên đường đến.”

Họ cắt ngang qua dòng người khi xuống đến chiếu nghỉ tầng dưỡng nhi và nghỉ lấy hơi. Lúc Marnes chuyền bi đông cho bà, Jahns làm một ngụm dài và sau đó kiểm tra lại tóc tai trên bề mặt cong của cái bi đông móp.

“Bà trông ổn mà,” ông nói.

“Có thần thái thị trưởng chứ?”

Ông bật cười. “Còn hơn thế ấy chứ.”

Jahns ngờ rằng cặp mắt nâu già nua của ông có lấp lánh một chút lúc ông nói câu ấy, nhưng chắc đó chỉ là ánh sáng phản chiếu từ bi đông lúc ông đưa lên môi mà thôi.

“Hai mươi tầng trong vòng hơn hai tiếng một chút. Không phải là tốc độ nên đi, nhưng tôi rất mừng là chúng ta đã xuống được xa đến thế này rồi.” Ông chùi ria mép và vòng tay ra sau lưng, tìm cách nhét bi đông vào lại trong ba lô.

“Đây,” Jahns nói. Bà đón lấy bi đông và bỏ vào cái túi lưới ở phía sau ba lô của ông. “Và trong này thì nói năng cứ để phần tôi,” bà nhắc ông. Marnes giơ hai tay lên và ngửa lòng bàn tay ra, như thể ông chưa từng mơ tưởng đến điều gì khác. Ông bước qua chỗ bà và kéo mở một cánh cửa kim loại nặng nề. Trái với mong đợi, bản lề gỉ sét không rít lên như thường lệ. Sự im lặng khiến cho Jahns giật cả mình. Bà đã quen nghe thấy tiếng kẽo cà kẽo kẹt mỗi khi những cánh cửa cũ trên khắp cầu thang mở ra đóng vào. Nếu các nông trại có các loài động vật hoang, lúc nào cũng hiện diện và luôn cất giọng ca hát, thì cầu thang có bài hát của các bản lề cửa ấy. Nhưng những bản lề này đã được bôi trét dầu, bảo quản hết sức kỹ lưỡng. Những bảng hiệu trên tường phòng chờ càng góp phần củng cố cho nhận định ấy. Chúng yêu cầu giữ trật tự bằng chữ in đậm, kèm theo những hình ngón tay giơ lên môi và những cái miệng há ra bị gạch chéo. Khu dưỡng nhi hiển nhiên rất coi trọng sự yên tĩnh của mình.

“Tôi không nhớ có nhiều biển hiệu đến thế lần chót mình đến đây,” Marnes thì thầm.

“Có khi tại hồi đó ông mải gào khóc quá nên chẳng để ý.” Jahns đáp.

Một chị y tá trừng mắt nhìn họ qua cửa sổ kính, và Jahns thọc cùi chỏ vào người Marnes.

“Thị trưởng Jahns đến gặp Peter Nichols,” bà bảo với chị kia.

Chị y tá đằng sau khung cửa sổ không chớp mắt. “Tôi biết bà là ai. Tôi đã bầu cho bà.”

“Ồ, tất nhiên rồi. Ờm, cảm ơn cô.”

“Xin mời hai người qua đây.” Người phụ nữ nhấn vào một nút trên bàn và cánh cửa bên cạnh chị ta khẽ kêu lên ro ro. Marnes đẩy cửa vào, và Jahns theo ông đi qua.

“Xin mời hai người mặc bộ này vào.”

Chị y tá - Margaret, theo thẻ tên viết tay trên cổ áo của chị ta - đưa ra hai tấm áo choàng vải trắng được gấp gọn gàng. Jahns đón lấy cả hai và đưa một chiếc cho Marnes.

“Hai người có thể để túi lại chỗ tôi.”

Không có chuyện từ chối Margaret được. Jahns ngay lập tức cảm thấy rằng mình hiện đã ở trong thế giới của người phụ nữ trẻ hơn mình biết bao nhiêu tuổi này, rằng ngay lúc băng qua cánh cửa ro ro kia, bà đã trở thành bề dưới so với chị ta. Bà đặt cây ba toong dựa vào tường, cởi bỏ ba lô và đặt xuống đất, sau đó khoác áo choàng vào. Marnes thì cứ loay ha loay hoay mãi cho đến khi Margaret qua giúp, giữ lấy tay áo. Ông chật vật choàng nó qua chiếc áo bò và nắm lấy hai đầu sợi đai vải buộc quanh eo như thể chẳng hiểu cơ chế hoạt động của nó ra làm sao. Ông quan sát cách Jahns thắt đai, và cuối cùng cũng xoay xở buộc thành một mớ nhập nhằng để tấm áo choàng tạm có thể ở yên trên người ông.

“Sao?” ông hỏi khi để ý thấy ánh nhìn của Jahns. “Thế nên tôi mới có còng. Ờ thì tôi chưa bao giờ học cách thắt nút, thế có sao đâu?”

“Trong suốt sáu mươi năm liền,” Jahns nói.

Margaret nhấn thêm một nút nữa trên bàn và chỉ về phía cuối hành lang. ”Bác sĩ Nichols đang ở trong khu dưỡng nhi. Tôi sẽ báo cho ông ấy biết hai người đang đến.”

Jahns đi trước. Marnes theo sau, hỏi bà, “Có gì mà khó tin đến vậy cơ chứ?”

“Thực ra thì tôi lại thấy thế thật dễ thương.”

Marnes khịt mũi. “Tả một người tầm tuổi tôi bằng cái từ ấy thì nghe ghê quá.”

Jahns kín đáo mỉm cười. Ra đến cuối hành lang, bà ngừng lại trước một cửa đôi, sau đó mở hé cửa. Đèn trong phòng thắp rất mờ. Bà mở rộng thêm cửa, và họ bước vào một phòng chờ tuềnh toàng nhưng sạch sẽ. Bà nhớ lại một căn phòng tương tự ở khu tầng giữa, nơi bà từng ngồi đợi cùng với một người bạn đang chờ lúc được gặp lại con mình. Một bức tường kính cho phép họ nhìn vào trong một căn phòng chứa vài chiếc cũi và nôi. Jahns đưa tay xuống hông. Bà xoa cái thiết bị cưng cứng, nay đã trở thành vô dụng, được cấy vào từ khi bà mới sinh ra và chưa từng gỡ bỏ, chưa một lần nào. Ngồi trong khu dưỡng nhi như thế này đã gợi cho bà nhớ lại tất cả những gì mình đã đánh mất, tất cả những gì bà đã hy sinh vì công việc. Vì những hồn ma của bà.

Bên trong khu dưỡng nhi quá tối, làm bà không tài nào thấy được có đứa bé sơ sinh nào đang ngọ nguậy trên mỗi chiếc giường nhỏ kia không. Tất nhiên, cứ có ca sinh đẻ nào là bà cũng sẽ nhận được thông báo hết. Trên cương vị thị trưởng, bà luôn ký một bức thư chúc mừng và một tờ giấy khai sinh cho mỗi đứa bé, nhưng tên tuổi chúng sau quá nhiều năm đã lẫn hết vào nhau. Bà hiếm khi nhớ nổi cặp bố mẹ nào đó sống ở tầng nào, đây là đứa đầu hay đứa thứ hai của họ. Thừa nhận điều đó thì đúng là buồn thật, nhưng mấy tờ giấy khai sinh đó đã trở thành một mớ giấy tờ cần xử lý đơn thuần, một nhiệm vụ lặp đi lặp lại.

Cái bóng lờ mờ của một người lớn di chuyển giữa những chiếc cũi nhỏ, miếng kẹp sáng bóng trên tấm bảng kẹp hồ sơ và một cây bút kim loại loang loáng phản chiếu ánh sáng từ phòng quan sát rọi vào. Hình bóng tối tăm kia trông cao ngòng, dáng đi và vóc người cho thấy ông ta đã khá đứng tuổi. Ông ta làm việc từ tốn, viết lách gì đó lúc cúi xuống một chiếc cũi, hai mẩu kim loại lấp loáng cùng chập lại để ghi chép. Sau khi xong xuôi, ông ta bước sang bên kia phòng, băng qua một cánh cửa rộng để đến gặp Marnes và Jahns trong phòng chờ.

Như Jahns thấy, Peter Nichols là một nhân vật hết sức ấn tượng. Cao và gầy, nhưng không có cái kiểu lóng ngóng co duỗi tay chân khi di chuyến giống như Marnes. Kiểu gầy của Peter mang hơi hướng một người hay vận động, tương tự một số người khuân vác Jahns quen, có thể leo hai bậc thang một lúc và nhìn vào thì sẽ ngỡ họ vốn dĩ được thiết kế để sải bước như vậy. Chiều cao của ông ta toát lên vẻ tự tin. Jahns có thể cảm nhận được điều ấy khi nắm lấy bàn tay Peter chìa ra và để cho ông ta mạnh mẽ bắt tay mình.

“Bà đến rồi,” bác sĩ Nichols chỉ nói có thế. Đó là một nhận định lạnh lùng. Chỉ có chút xíu vẻ ngạc nhiên. Ông ta bắt tay Marnes, nhưng mắt đánh trở lại phía Jahns. “Tôi đã giải thích với thư ký của bà rằng tôi sẽ không giúp được gì nhiều. Tôi e là mình chưa gặp lại Juliette kể từ hồi con bé trở thành bóng đeo hai mươi năm trước.”

“À, thực ra thì đó chính là chuyện tôi muốn hỏi ông.” Jahns liếc nhìn băng ghế lót đệm, là nơi bà hình dung các bậc ông bà, cô dì chú bác bồn chồn ngồi đợi trong lúc cặp bố mẹ được hội ngộ đứa con mới sinh của mình. “Chúng ta ngồi xuống được chứ?”

Bác sĩ Nichols gật đầu và vẫy tay mời họ ra ngồi.

“Tôi rất coi trọng mọi quyết định bổ nhiệm mình đưa ra,” Jahns giải thích, ngồi đối diện với ông bác sĩ. “Vào tầm tuổi này rồi, tôi tin phần lớn các thẩm phán và hành pháp viên mình bổ nhiệm sẽ sống thọ hơn tôi, thế nên tôi chọn lựa rất cẩn thận.”

“Nhưng không phải lúc nào cũng thế, đúng không?” Bác sĩ Nichols nghiêng đầu, gương mặt gầy gò và nhẵn nhụi râu ria không để lộ ra bất cứ nét biểu cảm nào hết. “Ý tôi là sống thọ hơn bà ấy.”

Jahns nuốt nước bọt. Marnes cựa người trên băng ghế bên cạnh bà.

“Ông hẳn rất để cao gia đình,” Jahn nói, thay đổi đề tài, nhận ra rằng câu vừa rồi chỉ đơn thuẫn là nhận định, không hề có ác ý. “Bởi vậy nên ông mới đi làm bóng đeo lâu đến thế và chọn một ngành đòi hỏi khắt khe thế này.”

Nichols gật đầu.

“Tại sao ông và Juliette không bao giờ thăm hỏi nhau vậy? Ý tôi là, gần hai mươi năm liền không thăm nhau lần nào hết. Cô ta là đứa con duy nhất của ông mà.”

Nichols hơi quay đầu đi, mắt liếc về phía bức tường. Jahns thoáng phân tâm khi nhìn thấy một bóng người khác di chuyển đằng sau tấm kính, một chị y tá đang đi kiểm tra. Một cửa khác dẫn vào nơi bà đoán là phòng sinh, nơi chắc đang có một bà mẹ mới nằm hồi sức, đợi được trao trả báu vật quý giá nhất trần đời.

“Tôi cũng từng có một cậu con trai nữa,” bác sĩ Nichols nói.

Jahns cảm thấy mình đang thò tay với lấy túi tìm tập hồ sơ, nhưng túi không nằm bên cạnh bà. Bà đã bỏ lỡ mất một chi tiết, một cậu em trai.

“Bà không biết được đâu,” Nichols nói, diễn giải rất chính xác vẻ sững sờ trên mặt thị trưởng Jahns. “Nó không sống nổi. Trên lý thuyết, nó chưa hề được sinh ra. Cuộc quay số chuyển sang cho người khác.”

“Tôi xin lỗi...”

Bà cưỡng lại ý muốn đưa tay ra nắm lấy tay Marnes. Đã mấy thập kỷ rồi hai người bọn họ chưa cố ý chạm vào người nhau, kể cả một cách trong sáng, nhưng không khí buồn bã chợt ập xuống phòng đã cắt đứt quãng thời gian đó.

“Tên nó vốn định là Nicholas, tên của ông tôi. Nó bị sinh non. Sáu lạng tám.”

Chẳng hiểu sao, con số lãnh đạm chuẩn xác ông ta đưa ra nghe còn buồn hơn một tràng cảm xúc tuôn trào.

“Họ đã đặt nội khí quản, đưa nó vào trong lồng ấp, nhưng đã xảy ra... biến chứng.” Bác sĩ Nichols nhìn xuống mu bàn tay. “Hồi ấy Juliette mười ba tuổi. Bà hãy tưởng tượng mà xem, nó cũng phấn khích chẳng kém gì chúng tôi vì sắp sửa có một cậu em trai. Chỉ một năm nữa thôi là con bé sẽ hoàn tất thời kỳ bóng đeo với mẹ nó, là y tá hộ sinh.” Nichols nhìn lên. “Không phải ở trong khu dưỡng nhi này đâu, thưa bà, mà là ở trong khu dưỡng nhi cũ tầng giữa, nơi cả hai chúng tôi từng công tác. Tôi hồi đó vẫn còn là thực tập viên.”

“Thế còn Juliette thì sao?” Thị trưởng Jahns vẫn chưa hiểu mối liên hệ.

“Lồng ấp bị hỏng. Lúc Nicholas...” Ông bác sĩ quay đầu sang bên và đưa bàn tay dở chừng lên mắt, nhưng đã trấn tĩnh lại được. “Tôi xin lỗi. Tôi vẫn cứ gọi thằng bé như thế.”

“Không sao đâu.”

Thị trưởng Jahns đang nắm tay phó cảnh sát Marnes. Bà không chắc bà đã làm vậy lúc nào hay như thế nào. Ông bác sĩ xem chừng không để ý, hay khả năng cao hơn là không quan tâm.

“Tội nghiệp Juliette.” Ông ta lắc đầu. “Con bé trở nên quẫn trí. Mới đầu nó đổ tội cho Rhoda, một y tá hộ sinh đầy kinh nghiệm, dù cô cho được cậu nhóc nhà chúng tôi cơ hội mong manh ấy là đã thần kỳ lắm rồi. Tôi đã giải thích như vậy. Tôi nghĩ Juliette hiểu. Nó chỉ cần có ai đó để ghét.” Ông ta gật đầu với Jahns. “Con gái ở tuổi đó là như vậy mà, bà biết chứ?”

“Tin hay không thì tùy, nhưng mà tôi nhớ đấy.” Jahns gượng gạo mỉm cười và bác sĩ Nichols mỉm cười đáp lễ. Bà cảm thấy Marnes bóp tay mình.

Phải đến khi mẹ nó mất thì con bé mới chuyển sang đổ lỗi cho cái lồng ấp bị hỏng. À, không phải cái lồng ấp, mà là cái tình trạng xuống cấp của nó. Cái trạng thái mục ruỗng chung mà mọi thứ đều đến lúc rơi vào.”

“Vợ ông chết vì biến chứng à?” Lại thêm một chi tiết nữa mà Jahns tin mình hẳn đã bỏ sót trong lúc đọc.

“Vợ tôi tự sát một tuần sau đó.”

Vẫn lại cái giọng lãnh đạm xa cách kia. Jahns tự hỏi liệu đây có phải là một cơ chế sinh tồn, hình thành sau khi những sự kiện đó xảy ra, hay là một nét tính cách đã tồn tại sẵn.

“Xem chừng tôi đáng lẽ sẽ phải nhớ vụ đó,” phó cảnh sát Marnes nói, những lời đầu tiên kể từ sau khi ông tự giới thiệu với ông bác sĩ.

“À thì, chính tôi viết giấy chứng tử. Thế nên tôi có thể ghi vào đấy bất kỳ nguyên nhân tử vong nào mình muốn...”

“Và ông thừa nhận đã làm điều đó hả?” Marnes trông có vẻ đã sẵn sàng nhảy xổ ra khỏi băng ghế. Để làm gì thì Jahns chẳng thể nào đoán nổi. Bà tóm lấy cánh tay ông giữ ông ngồi im.

“Hết thời hạn truy tố rồi đúng không? Tất nhiên. Tôi thừa nhận. Đằng nào thì đó cũng là một lời nói dối vô dụng. Juliette rất thông minh, dù còn ở cái tuổi ấy. Nó biết. Và chính điều đó đã khiến cho nó...” Ông ta ngưng lại.

“Khiến cho cô ta bị sao cơ?” thị trưởng Jahns hỏi. “Điên à?”

“Không” Bác sĩ Nichols lắc đầu. “Tôi không định nói thế. Đó chính là thứ đã khiến cho nó trở nên xa cách. Nó nộp đơn xin đổi thầy mẫu. Đòi được chuyển xuống bộ phận Cơ Khí, vào làm bóng đeo. Nó phải thêm một tuổi nữa thì mới được phân vào chỗ đó, nhưng tôi đồng ý. Tôi ký giấy ưng thuận. Tôi cứ tưởng nó sẽ đi cho biết mùi khu dưới sâu, sau đó quay trở lại. Tôi thật ngây thơ. Tôi cứ tưởng tự do sẽ tốt cho nó.”

“Và kể từ đó đến nay ông chưa từng gặp lại cô ta?”

“Mới một lần thôi. Trong đám tang của mẹ nó, vài ngày sau. Con bé tự mình leo lên, dự lễ chôn cất, ôm tôi một cái, sau đó lại trở xuống. Theo như tôi nghe kể thì chẳng buồn dừng chân nghỉ ngơi chút nào. Tôi cố gắng cập nhật tình hình của nó. Tôi có một ông bạn đồng nghiệp tại khu dưỡng nhi dưới sâu, thỉnh thoảng lại điện lên một ít tin tức. Nó lúc nào cũng chỉ tập trung, tập trung, tập trung thôi.”

Nichols dừng lại và bật cười.

“Bà biết đấy, hồi nó còn trẻ, tôi chỉ thấy nó giống mẹ. Nhưng lúc lớn lên thì con bé lại giống tôi hơn.”

“Ông có biết điều gì có thể khiến cô ta không thể đảm nhiệm hay không phù hợp với công việc cảnh sát trưởng tháp giống không? Ông hiểu công việc ấy bao gồm những trọng trách nào, đúng không?”

“Tôi hiểu.” Nichols nhìn qua chỗ Marnes, mắt hướng về phía tấm phù hiệu đồng lộ ra dưới tấm áo choàng phong phanh, thắt đai cẩu thả, sau đó nhìn xuống chỗ khẩu súng lục phồng lên bên hông ông. “Mọi hành pháp viên thấp kém trong tháp giống cần có ai đó ở trên đỉnh, ban hành chỉ thị các kiểu, đúng không?”

“Về cơ bản là thế,” Jahns nói.

“Tại sao lại chọn nó?”

Marnes hắng giọng. “Cô ta từng giúp chúng tôi thực hiện một cuộc điều tra...”

“Jules ấy à? Nó lên trên này sao?”

“Không. Chúng tôi xuống dưới đó.”

“Nó đâu có được đào tạo gì.”

“Chẳng ai trong số chúng tôi được đào tạo cả,” Marnes nói. “Nó giống với một... chức vụ chính trị hơn. Một vị trí dân sự.”

“Nó sẽ không đồng ý đâu.”

“Tại sao lại không?” Jahns hỏi.

Nichols nhún vai. “Tôi tin bà sẽ tự mình hiểu ra thôi.” Ông ta đứng dậy. “Giá mà tôi có thể dành nhiều thời gian hơn cho bà, nhưng tôi thực sự cần quay lại làm việc đây.” Ông ta liếc nhìn cánh cửa đôi. “Chúng tôi sắp sửa đưa một gia đình vào đây rồi...”

“Tôi hiểu.” Jahns đứng dậy và bắt tay ông ta. “Tôi rất cảm ơn ông vì đã tiếp chúng tôi.”

Ông ta cười lớn. “Tôi có quyền lựa chọn à?”

“Tất nhiên.”

“Ái chà, giá mà tôi biết trước.”

Ông ta mỉm cười, và Jahns nhận thấy ông ta nói đùa, hay cố gắng pha trò. Sau khi họ chào nhau và bước dọc hành lang để quay về lấy đồ đạc cũng như trả lại áo choàng, Jahns càng lúc càng thấy tò mò với nhân vật mà Marnes đề cử. Ông chẳng mấy khi chọn một người sống ở khu dưới sâu. Một người có quá khứ đau thương. Bà tự hỏi liệu có khi nào trí xét đoán của ông đã bị các yếu tố khác làm cho lu mờ hay không. Và lúc ông giữ cửa dẫn ra phòng chờ chính cho bà, thị trưởng Jahns tự hỏi có phải bà chấp nhận đề xuất của ông bởi vì bản thân đầu óc bà cũng đang lu mờ hay không.