← Quay lại trang sách

Chương 11

HỌ XUỐNG GẦN ĐẾN TẦNG NĂM MƯƠI thì Jahns mới có thể suy nghĩ được thông suốt. Bà tưởng tượng mình cảm thấy tờ hợp đồng với Peter Billings đang đè nặng trong ba lô. Marnes đi đằng sau mấy bước, lẩm bẩm phàn nàn, cằn nhằn về Bernard và cố gắng đuổi cho kịp bà, và Jahns nhận ra mình giờ đã trở nên hết sức quyết tâm. Đùi và bắp chân vốn đã ê mỏi của bà nay lại càng mỏi mệt tợn, bởi càng lúc bà càng cảm thấy rằng chuyến đi này không chỉ là một sai lầm: nó chắc sẽ còn là một chuyến dã tràng xe cát nữa. Ông bố đã cảnh báo với bà rằng cô con gái sẽ không nhận lời. Bộ phận IT thì đang gây sức ép bắt chọn một người khác. Bây giờ, mỗi bước đi xuống đều chất chứa sợ hãi. Ấy nhưng đi kèm với nỗi sợ lại là một niềm tin quả quyết mới rằng Juliette chính là người phù hợp để đảm đương công việc này. Họ sẽ phải thuyết phục người phụ nữ thuộc bộ phận Cơ Khí kia chấp nhận lãnh chức, dù chỉ để cho Bernard biết mặt, dù chỉ để ngăn hành trình gian khổ này trở thành một chuyến đi phí công vô ích.

Jahns đã già rồi, đã giữ vai trò thị trưởng lâu rồi, một phần bởi bà giải quyết việc nào ra việc nấy, một phần bởi bà không để những điều tệ hại hơn xảy ra, nhưng chủ yếu là bởi bà hiếm khi làm rùm beng chuyện gì lên. Bà cảm thấy giờ đã đến lúc rùm beng đôi chút rồi - hiện tuổi tác bà đã đủ cao để hậu quả không còn mang ý nghĩa gì quan trọng nữa. Bà liếc nhìn Marnes đằng sau và biết ông cũng chẳng khác gì. Thời giờ dành cho họ đã gần cạn kiệt. Điều tốt nhất, quan trọng nhất mà họ có thể làm cho tháp giống là đảm bảo rằng di sản mình để lại sẽ tiếp tục trường tồn. Không có nối loạn nào hết. Không ai lạm dụng quyền lực hết. Đó chính là lý do trong mấy cuộc bầu cử gần đây, bà không có đối thủ nào. Nhưng giờ thì bà có thể cảm nhận được rằng mình đang lướt về phía vạch đích trong khi những vận động viên khỏe mạnh và trẻ trung hơn đang chuẩn bị vượt mặt mình. Bà đã ký bổ nhiệm bao nhiêu thẩm phán theo đề nghị của Bernard rồi? Và giờ lại còn cả cảnh sát trưởng nữa ư? Bao lâu nữa thì Bernard sẽ trở thành thị trưởng? Hoặc tệ hơn: một kẻ đứng đằng sau giật dây, những sợi dây cài cắm xuyên suốt tháp giống.

“Bình tĩnh nào,” Marnes hồng hộc nói.

Jahns nhận ra mình đang đi quá nhanh. Bà chậm chân lại.

“Tên khốn đó làm cho bà nổi đóa rồi kìa,” ông nói.

“Và ông khôn hồn thì cũng cáu nốt luôn đi,” bà rít lên đáp ông.

“Bà đang đi qua các tầng vườn rồi đấy.”

Jahns kiểm tra số đánh ở chiếu nghỉ và thấy ông nói đúng. Nếu nãy giờ chịu chú tâm, bà đáng lẽ ra đã ngửi thấy rồi. Khi cánh cửa tại chiếu nghỉ tiếp theo bật mở, một người khuân vác vác mấy bao tải trái cây trên hai vai bước ra ngoài, mang theo mùi cây cỏ tươi tốt và ẩm ướt, khiến cho bà váng vất.

Hiện đã quá giờ ăn tối, và cái mùi hương kia thật là mê hoặc. Cho dù phải mang vác nặng, anh khuân vác vẫn nhận ra họ đang chuẩn bị rời cầu thang để vào, thế là anh ta kê chân giữ cửa mở trong lúc cơ tay gồng lên quanh mấy túi lớn.

“Thị trưởng,” anh ta nói, cúi đầu chào và sau đó gật đầu với cả Marnes nữa.

Jahns cảm ơn anh ta. Hầu hết những người khuân vác đều trông quen quen: bà đã nhiều lần thấy họ đi giao đồ khắp tháp giống. Nhưng họ không bao giờ ở im đủ lâu để bà có thể biết và nhớ được một cái tên, mặc dù đó vỗn là một kỹ năng xuất sắc của bà. Lúc cùng với Marnes bước vào các nông trại thủy canh, bà tự hỏi liệu những người khuân vác có được về nhà hằng đêm để quây quần cùng gia đình mình hay không. Mà họ có gia đình không nhỉ? Hay là họ cũng giống như các linh mục? Ở tuổi bà và với trí tò mò của bà, đáng ra phải biết những thứ như thế này. Nhưng mà xét cho cùng, có khi phải cần một ngày leo thang thì mới thật sự trân trọng công việc của họ, thực sự nhận thấy họ. Những người khuân vác cũng giống như bầu không khí bà hít thở, luôn luôn có mặt, luôn luôn phục vụ, tất yếu đến mức luôn có mặt khắp nơi và bị coi là một điều nghiễm nhiên. Nhưng bây giờ, sự mệt mỏi của chuyến hành trình đi xuống đã giúp các giác quan bà nhạy bén hẳn với sự hiện diện của họ. Cũng tương tự như oxy chợt bị sụt giảm, khiến cho bà biết trân trọng nó.

“Ngửi mấy quả cam kia mà xem,” Marnes nói, khiến Jahns bừng tỉnh khỏi dòng suy tư. Ông hít ngửi bầu không khí lúc họ băng qua cánh cổng thấp dẫn vào vườn. Một nhân viên mặc quần yếm xanh lá cây vẫy tay mời họ vào. “Ba lô để đây, thưa thị trưởng,” anh ta nói, ra dấu về phía một dãy tủ vuông, trong đó vài ngăn thưa thớt xếp túi đeo vai và các bó đồ.

Jahns làm theo, để đồ đạc lại trong một ngăn. Marnes đẩy ba lô của bà vào sâu bên trong và nhét ba lô của mình vào cùng ngăn đó. Cho dù hành động ấy nhằm để tiết kiệm không gian hay chỉ đơn thuần là bản chất bao bọc cố hữu của ông, Jahns vẫn thấy nó ngọt ngào chẳng kém gì bầu không khí trong vườn.

“Chúng tôi đã đặt phòng cho tối nay,” Jahns bảo với anh nhân viên.

Anh ta gật đầu. “Khu phòng ở dưới đây một tầng. Tôi tin họ vẫn đang sửa soạn phòng của hai vị. Hai vị đến đây tham quan hay ăn uống?”

“Cả hai, mỗi thứ một chút.”

Anh thanh niên mỉm cười. “Vâng, lúc hai vị đã ăn uống xong xuôi, hai phòng các vị đặt sẽ sẵn sàng.”

Hai phòng , Jahns nghĩ thầm. Bà cảm ơn anh thanh niên và đi theo Marnes vào trong vườn.

“Lần chót ông đến đây là khi nào thế?” bà hỏi ông phó cảnh sát.

“Ái chà chà. Cũng đã lâu rồi. Bốn năm gì đó thì phải?”

“Đúng rồi.” Jahns bật cười. “Sao mà tôi quên được? Phi vụ thế kỷ.”

“Tôi rất mừng là bà thấy chuyện đó buồn cười,” Marnes nói.

Ở cuối hành lang, các vườn thủy canh xoắn ốc tẽ ra, dẫn đi hai hướng. Đường hầm chính này đâm xuyên qua hai tầng tháp giống, uốn lượn ngoằn ngoèo như mê cung ra tận mép những bức tường bê tông đằng xa. Tiếng nước từ các đường ống liên tục nhỏ tong tỏng xuống nghe êm dịu đến lạ, tiếng tí tách dội lại từ trần thấp. Hai bên hầm đều mở toang, để lộ ra sắc xanh rậm rạp của cây bụi, rau và cây thân gỗ nhỏ trồng giữa mạng lưới những ống nhựa trắng, dây bện chằng khắp mọi nơi để những dây và thân leo có thứ mà bám lấy. Nhân viên cả nam lẫn nữ cùng với những bóng đeo trẻ tuổi chăm sóc đám cây, tất cả đều mặc quần yếm xanh lá cây. Bao đeo quanh cổ họ phình căng, chứa đầy thành quả thu hoạch được trong ngày, và kéo trong tay họ cứ kêu lách cách, chẳng khác nào những bộ càng sinh học thuộc hẳn về cơ thể họ. Trông họ cắt tỉa nhẹ tênh mà như bị hớp hồn. Phải trải qua bao ngày, bao tuần, bao năm tập đi tập lại thì mới rèn được sự nhuần nhuyễn đó.

“Ông là người đầu tiên đoán rằng vụ trộm do tay trong thực hiện đúng không nhỉ?” Jahns hỏi, vẫn tiếp tục cười một mình. Bà và Marnes theo các biển chỉ dẫn đi về phía phòng nếm và ăn.

“Chúng ta sẽ lôi chuyện ấy ra nói thật à?”

“Tôi chẳng hiểu nó có gì đáng xấu hổ cả. Nó phải khiến ông phì ra cười chứ.”

“Phải một thời gian nữa đã.” Ông dừng lại ngắm một giá cà chua đằng sau hàng rào lưới. Mùi trái chín nồng nàn khiến dạ dày Jahns kêu ột ột.

“Hồi đó chúng tôi cực kỳ muốn bắt được một kẻ tội phạm,” Marnes lặng lẽ nói. “Holston rối rít nhặng xị cả lên trong suốt quá trình điều tra. Cậu ta đêm nào cũng điện cho tôi đòi cập nhật tình hình. Tôi chưa bao giờ thấy cậu ta muốn bắt ai đến mức ấy. Như thể cậu ta thực sự cần ca đó, bà hiểu chứ?” Ông nắm lấy tấm lưới bảo vệ và nhìn ra xa xăm quá vườn rau, như thể xoáy mắt nhìn vào những năm tháng đã trôi qua. “Giờ ngẫm lại, cậu ta cứ như biết Allison bị sao đó. Như thể cậu ta tiên đoán được cơn điên sắp giáng xuống.” Marnes quay sang Jahns. “Bà có nhớ trước khi cô ấy đi lau chùi không? Đã lâu lắm rồi chưa có vụ nào. Tất cả mọi người đều cực kỳ bồn chồn.”

Jahns đã ngưng mỉm cười từ lâu. Bà đứng gần Marnes. Ông quay lại nhìn đám cây, quan sát một cô nhân công cắt một quả cà chua chín đỏ đặt vào trong giỏ.

“Tôi nghĩ Holston muốn để cho tháp giống xả bớt ra, bà hiểu chứ? Tôi nghĩ cậu ta muốn xuống đích thân điều tra mấy vụ trộm. Ngày nào cũng điện cho tôi yêu cầu báo cáo như thể sắp chết người đến nơi.”

“Tôi xin lỗi vì đã khơi lại chuyện ấy,” Jahns nói, đặt một tay lên vai ông.

Marnes quay người lại nhìn mu bàn tay bà. Môi dưới của ông lộ ra dưới bộ ria mép. Jahns hình dung ra cảnh ông hôn lên tay mình. Bà rụt tay lại.

“Không sao đâu,” ông nói. “Nếu không có việc đó, chắc cũng khá buồn cười.” Ông quay người lại và tiếp tục bước dọc hành lang.

“Người ta có phát hiện ra nó làm thế nào mà lọt được vào trong này không?”

“Leo cầu thang,” Marnes nói. “Hẳn là như thế thôi. Mặc dù tôi nghe một người đoán rằng có khả năng một đứa nhóc nào đó ăn cắp một con về nuôi và rồi thả nó ở trên này.”

Jahns cười phá lên. Bà không thể nhịn được. “Một con thỏ,” bà nói, “đã khiến cho hành pháp viên giỏi nhất thời đại chúng ta phải bó tay và cuỗm đi lượng cây trái tương đương nguyên một năm lương.”

Marnes lắc đầu và bật cười khẽ. “Gì mà giỏi nhất,” ông nói. “Danh hiệu ấy chưa bao giờ thuộc về tôi.” Ông nhìn theo hành lang và hắng giọng, và Jahns biết rất rõ ông đang nghĩ đến ai.

Sau một bữa tối thịnh soạn và no nê, họ leo xuống một tầng để vào phòng nghỉ. Jahns ngờ rằng người ta đã cố phục vụ họ tốt hơn lệ thường. Mọi căn phòng đều chật kín, nhiều phòng còn phải xếp hàng hai, ba lượt. Và bởi vì vụ lau chùi đã được lên lịch từ rất lâu trước chuyến phỏng vấn phút chót này của họ, bà nghi họ đã rất vất vả đảo phòng để lấy chỗ. Tệ hơn nữa là họ còn được cấp hai phòng riêng, trong đó phòng của bà thị trưởng lại có tận hai giường. Vấn đề không chỉ là phí phạm, mà còn cả cách sắp xếp nữa. Jahns cứ hy vọng mình sẽ bị... bất tiện hơn.

Và hẳn Marnes cũng cảm thấy như vậy. Bởi vì vẫn còn mấy tiếng nữa mới đến giờ đi ngủ, và cả hai người bọn họ đều đang ngà ngà sau một bữa ăn ngon lành và rượu mạnh, ông mời bà qua căn phòng nhỏ của mình trò chuyện trong khi hoạt động trong vườn dần lắng xuống.

Phòng của ông ấm cúng một cách trang nhã, chỉ có duy nhất một chiếc giường đôi, nhưng được bày biện rất đẹp. Khu vườn phân khu trên đỉnh là một trong số tầm chục doanh nghiệp tư nhân lớn duy nhất nơi đây. Tất cả các chi phí cho quãng thời gian họ trọ tại đây sẽ được quỹ công tác của văn phòng bà trang trải hết, và khoản tiền đó cũng như tiền phí các du khách khác trả giúp doanh nghiệp mua được những thứ xa hoa hơn, chẳng hạn như ga đẹp từ bộ phận dệt may và đệm không kêu khi nhún.

Jahns ngồi ở chân giường. Marnes cởi bỏ bao súng, đặt lên tủ đồ và ngồi phịch xuống băng ghế thay giày chỉ cách đó vài chục phân. Trong lúc bà tháo bỏ giày và xoa đôi bàn chân đau nhức, ông cứ thao thao bất tuyệt nói về đồ ăn, về hai phòng riêng thì thật phí phạm, vừa nói vừa đưa tay vuốt ria mép.

Jahns nhấn ngón cái vào chỗ nhức ở gót chân. “Tôi nghĩ rằng tôi sẽ cần một tuần nghỉ ngơi ở dưới rồi mới có thể bắt đầu leo lên,” bà nói giữa lúc ông ngưng lại.

“Cũng đâu có tệ đến thế,” Marnes bảo bà. “Cứ chờ mà xem. Sáng ra bà sẽ nhức mỏi lắm, nhưng một khi bắt đầu di chuyển, bà sẽ nhận thấy mình khỏe khoắn hơn ngày hôm nay. Và đường đi lên cũng tương tự. Bà chỉ cần dồn lực bước từng bước, và nhoằng một cái là đã về đến nhà rồi.”

“Tôi hy vọng ông nói đúng.”

“Ngoài ra, chúng ta sẽ đi trong vòng bốn ngày thay vì hai. Cứ coi như một chuyến phiêu lưu đi.”

“Tin tôi đi,” Jahns nói. “Tôi đã thấy phiêu lưu lắm rồi.”

Họ lặng lẽ ngồi một lúc, Jahns tựa lưng vào gối, Marnes nhìn vào không trung. Bà ngạc nhiên khi thấy ở một mình với ông trong một căn phòng mới thanh bình và tự nhiên làm sao. Chẳng việc gì phải trò chuyện cả. Họ chỉ cần ở đó thôi. Không phù hiệu, không văn phòng. Chỉ có hai người.

“Bà chưa đi gặp linh mục bao giờ đâu, phải không?” Marnes cuối cùng cũng hỏi.

“Chưa.” Bà lắc đầu. “Ông thì sao?”

“Tôi chưa. Nhưng dạo này tôi cứ nghĩ hay là đi thử.”

“Vì Holston à?”

“Một phần thôi.” Ông cúi người tới trước và xoa tay dọc đùi như thể đang vắt hết đau nhức ra. “Tôi muốn nghe xem họ nghĩ linh hồn của cậu ta đã đi đâu.”

“Vẫn còn bên chúng ta,” Jahns nói. “Ít nhất thì đó là những gì họ sẽ nói.”

“Bà tin thế nào?”

“Tôi ấy à?” Bà đẩy người lên khỏi đống gối và chống một cùi chỏ xuống giường, nhìn ông ngắm mình. “Tôi thực sự không biết nữa. Tôi cứ bận rộn miết để không nghĩ được về nó.”

“Bà có nghĩ là linh hồn Donald vẫn còn ở bên chúng ta không?”

Jahns rùng mình. Bà không nhớ nổi lần cuối cùng có ai nói ra tên ông là khi nào.

“Quãng thời gian ông ấy mất còn lâu hơn số năm ông ấy làm chồng tôi,” bà nói. “Tôi kết hôn với hồn ma của ông ấy thì đúng hơn là với ông ấy.”

“Nói thế nghe có vẻ không được đúng mực.”

Jahns nhìn xuống dưới giường, thế giới hơi nhòe đi. “Tôi không nghĩ ông ấy thấy phiền đâu. Và vâng, ông ấy vẫn còn ở bên tôi. Ngày nào ông ấy cũng cổ vũ tôi làm người tử tế. Tôi cảm thấy ông ấy lúc nào cũng dõi theo mình.”

“Tôi cũng thế,” Marnes nói.

Jahns ngước lên và thấy ông đang nhìn bà chằm chằm.

“Bà có nghĩ là ông ấy sẽ muốn bà hạnh phúc không? Ý tôi là trong mọi chuyện ấy?” Ông ngưng xoa bóp chân và ngồi đó, tay đặt trên đầu gối, cho đến khi ông buộc phải nhìn đi chỗ khác.

“Ông là bạn thân của ông ấy,” Jahns nói. “Ông nghĩ ông ấy muốn gì?”

Ông chà chà lên mặt, liếc nhìn về phía cánh cửa đóng kín đúng lúc một đứa trẻ cười khanh khách chạy rầm rầm qua trên hành lang. “Tôi đoán ông ấy chỉ muốn bà hạnh phúc thôi. Chính thế mà ông ấy là người chồng thích hợp dành cho bà.”

Jahns chùi mắt lúc ông không để ý và tò mò nhìn xuống những ngón tay ướt.

“Muộn rồi,” bà nói. Bà nhích ra mép chiếc giường nhỏ và cúi lấy đôi giày. Ba lô và ba toong của bà nằm đợi cạnh cửa. “Và tôi nghĩ ông nói đúng. Tôi nghĩ sáng ra mình sẽ hơi ê ẩm, nhưng tôi tin mình rồi sẽ cảm thấy mạnh mẽ hơn thôi.”