← Quay lại trang sách

Chương 19

Mấy ngày trước

JULIETTE NGỒI TRÊN SÀN PHÒNG GIAM, dựa lưng vào hàng chấn song thép cao, trong khi một thế giới tàn ác hiển thị trên màn hình tường trước mặt cô. Trong vòng ba ngày vừa qua, khi cô cố tự học cách làm cảnh sát trưởng tháp giống, cô đã ngắm nhìn khung cảnh thế giới bên ngoài này và tự hỏi sao mà mọi người phát cuồng về nó thế.

Tất cả những gì cô nhìn thấy ngoài đó là những sườn đất tù mù, những ngọn đồi xám vươn mình về phía những đám mây còn xám hơn, những tia nắng loang lổ gắng sức chiếu sáng mảnh đất ấy nhưng chẳng thành công cho lắm. Thổi qua khung cảnh ấy là những cơn gió kinh khủng, những lốc gió điên cuồng thổi tung từng cuộn đất nhỏ thành những lọn xoắn xuýt, rượt đuổi nhau trên một miền đất chỉ dành cho mình chúng.

Đối với Juliette, khung cảnh kia chẳng gợi lên chút hứng cảm nào hết, chẳng có thứ gì làm khơi dậy óc tò mò của cô. Nó là một miền đất hoang không thể sinh sống được, hoàn toàn chẳng có bất kỳ thứ gì hữu ích. Không có tài nguyên nào ngoài số thép ố bẩn trong những tòa tháp đổ nát bên kia đồi. Đi thu lại, vận chuyển, nấu chảy và tinh luyện chỗ thép ấy chắc chắn còn tốn kém hơn là chỉ đơn thuần khai thác quặng mới từ các mỏ bên dưới tháp giống.

Như cô thấy, những giấc mơ cấm kỵ về thế giới bên ngoài thật là thảm thương và trống rỗng. Đấy là những giấc mơ chết. Những người sống tại khu trên đỉnh tôn thờ khung cảnh này đã nhìn ngược hết cả rồi - tương lai phải nằm ở bên dưới . Bên dưới là xuất xứ của dầu để cung cấp điện cho họ, của khoáng chất để trở thành những món đồ hữu ích, của nitơ để làm màu mỡ lại đất trong các nông trại. Bất cứ bóng đeo nào trong ngành hóa học và luyện kim cũng đều biết điều này. Những người đọc các cuốn sách trẻ con, những người cố gắng xâu chuỗi lại bí ẩn của một quá khứ đã bị lãng quên và không thể khám phá được, sẽ tiếp tục mê muội.

Cô chỉ có thể giải thích rằng nỗi ám ảnh của họ nằm ở bản thân cái không gian thoáng đãng ngoài kia. Thật tình mà nói, chính sự thoáng đãng đó làm cô thấy sợ. Có thể cô có vấn đề nên mới đi yêu những bức tường của tháp giống, yêu sự gò bó tối tăm của khu dưới sâu. Phải chăng tất cả những người khác đều điên nên mới ấp ủ giấc mơ trốn thoát ra ngoài? Hay cô mới là người điên?

Juliette dịch mắt từ những ngọn đồi khô xác và làn sương đất sang các tập hồ sơ nằm rải rác xung quanh. Đấy là công việc còn dang dở của người tiền nhiệm cô. Một ngôi sao sáng bóng đặt thăng bằng trên một bên đầu gối của cô, chưa được đeo lên người. Nằm trên một tập hồ sơ là cái bi đông, được cất giữ an toàn trong túi ni lông đựng tang vật tái sử dụng được. Nó nằm đấy sau khi thực hiện sứ mệnh chết chóc của mình, trông có vẻ thật vô tội. Trên túi có vài số hiệu được viết bằng mực đen đã bị gạch đi, những vụ án đã được giải quyết xong hoặc buông bỏ từ lâu. Một số mới được ghi ở một bên, một số hiệu vụ án khớp với một tập hồ sơ không có ở đây, một tập hồ sơ chứa đầy những trang lời khai và ghi chú liên quan đến cái chết của một thị trưởng mà tất cả mọi người đều yêu quý - nhưng đã bị một người giết mất.

Juliette đã được thấy một vài ghi chú trong số đó, nhưng chỉ từ xa mà thôi. Chúng được viết bằng nét chữ của phó cảnh sát Marnes, ông sẽ không đời nào chịu giao lại tập hồ sơ, cứ điên cuồng giữ rịt lấy nó. Có đã lén nhìn tập hồ sơ từ phía bên kia bàn ông và đã thấy những vệt nước mắt làm nhòe đôi ba con chữ và khiến cho tờ giấy nhăn lại. Giữa những giọt nước mắt khô là những dòng chữ nguệch ngoạc, không ngay ngắn như trong các tập hồ sơ khác. Những gì cô nhìn thấy được như tức giận bò ngang trang giấy, những từ ngữ bị gạch đi hung bạo và sửa lại. Nó mang cùng cái sự hung tợn mà phó cảnh sát Marnes giờ đây lúc nào cũng phô ra, cơn giận sôi sục đã khiến cho Juliette phải rời bàn vào trong phòng giam làm việc. Cô chẳng thể nào suy nghĩ được khi ngồi đối diện với một linh hồn tan nát đến thế. Khung cảnh thế giới bên ngoài lù lù trước mặt cô dù có buồn thảm thật đấy, nhưng cái bóng của nó còn không trầm uất bằng.

Cô giết thời gian bên trong phòng giam giữa các cuộc gọi đầy tiếng nhiễu trên điện đàm và những hành trình xuống nơi có chuyện lộn xộn. Thường cô chỉ ngồi và xếp đi xếp lại các tập hồ sơ tùy theo mức độ nghiêm trọng như cô thấy. Cô là cảnh sát trưởng của toàn bộ tháp giống, một công việc cô chưa từng làm bóng đeo, nhưng đã bắt đầu hiểu. Một trong những điều cuối cùng thị trưởng Jahns nói với cô hóa ra lại chính xác hơn cô tưởng tượng: con người cũng giống như máy móc. Họ có khi hỏng. Họ có khi chạy lọc cọc. Họ có thể làm ta bị bỏng hay bị thương nếu ta không cẩn thận. Công việc của cô không chỉ là khám phá xem tại sao điều này lại xảy ra và ai là người chịu trách nhiệm, mà còn phải dỏng tai nghe ngóng những tín hiệu báo trước nó đang sắp sửa xảy ra. Cũng như làm thợ máy, nghệ thuật làm cảnh sát trưởng đòi hỏi tài bảo dưỡng phòng ngừa nhiều không kém tài lau dọn sau khi có một ca hỏng hóc.

Các tập hồ sơ rải rác trên sàn là những vụ việc đáng buồn thuộc diện thứ hai: những xích mích vượt ngoài vòng kiểm soát giữa hàng xóm với nhau; những vụ trộm được báo cáo; nguồn một mẻ rượu tự cất khiến người ta ngộ độc; thêm mấy vụ là hậu quả thứ rượu kia gây ra. Mỗi tập hồ sơ đều đòi hỏi thêm các khám phá mới, thêm những hành trình cần thực hiện, thêm những lần đi xuống cây cầu thang xoắn để tham gia vào những cuộc trò chuyện nhập nhằng, phân loại lời nói dối và sự thật.

Juliette đã đọc phần Luật trong bản Hiệp Ước hai lần để chuẩn bị cho công việc. Lúc nằm trên giường tại khu dưới sâu, người ngợm mệt nhoài sau vụ căn thẳng hàng máy phát điện chính, cô đã nghiên cứu về cách lưu hồ sơ vụ án sao cho đúng, về nguy hại của việc tác động đến bằng chứng, tất cả đều hợp lý và tương tự với một phần nào đó trong công việc thợ cơ khí cũ của cô. Tiếp cận hiện trường một vụ án hay một vụ tranh chấp đang diễn ra cũng chẳng khác gì bước vào một phòng máy bơm nơi thứ gì đó bị hỏng. Luôn có ai đó hay thứ gì đó đang bị lỗi. Cô biết cách lắng nghe, quan sát, hỏi han bất cứ ai có khả năng dính dáng đến thứ thiết bị hay mớ dụng cụ bị lỗi mà họ đã sử dụng, lần theo một chuỗi sự kiện để truy ra gốc rễ sự việc. Luôn có các biến số gây nhiễu - đã chỉnh một núm vặn thì kiểu gì cũng khiến cho thứ khác lệch đi - nhưng Juliette có một kỹ năng, một tài năng bẩm sinh, nhận ra những gì quan trọng và những gì có thể bỏ qua.

Cô đoán tài năng ấy chính là tố chất phó cảnh sát Marnes đã nhìn thấy ở cô, cái bản tính kiên nhẫn và hoài nghi khiến cô chày cối hỏi thêm một câu ngớ ngẩn nữa để rồi cuối cùng mò trúng câu trả lời. Cô càng thêm tự tin vì đã từng giúp giải quyết một vụ án. Hồi đấy vì chỉ đơn thuần muốn công lý được thực thi và mãi chìm đắm trong nỗi đau riêng, cô không biết rằng vụ việc đó chính là một buổi phỏng vấn cũng như dạy nghề kết hợp.

Cô nhấc đúng cái tập hồ sơ từ bao năm trước đó lên. Con dấu đóng trên bìa cho biết “ĐÃ GIẢI QUYẾT” bằng nét chữ đậm, mực đỏ nhạt. Cô bóc phần băng dán mép và lật giở các ghi chú. Nhiều ghi chú được viết bằng nét chữ ngay ngắn của Holston, những con chữ hoa xiên xiên mà cô thấy ở gần như mọi món đồ cả trên lẫn trong bàn mình, cái bàn từng là của anh. Cô đọc các ghi chú của anh về mình, tìm hiểu lại về một vụ án mà ban đầu trông rõ ràng là án mạng, nhưng thực chất là một chuỗi những sự kiện khó tin. Lần giở lại nó, việc suốt bấy lâu nay cô tránh né, khiến những nỗi đau cũ lại trỗi dậy. Ấy nhưng cô cũng nhớ được rằng vùi mình vào các manh mối để đánh lạc hướng bản thân là một niềm an ủi đến nhường nào. Cô vẫn nhớ sự phấn khích khi giải quyết được vấn đề, sự thỏa mãn mà câu trả lời mang lại, bù đắp vào khoảng trống mà cái chết của người yêu cô để lại. Quá trình ấy cũng tương tự như sửa một cái máy trong các ca làm thêm. Cơ thể cô đau nhức vì lao lực và mệt mỏi, nhưng phần nào được bù đắp lại khi biết đã sửa xong một chỗ kêu lạch xạch.

Cô đặt tập hồ sơ sang một bên, chưa sẵn sàng nhớ lại tất cả. Cô nhặt một tập hồ sơ khác lên đặt vào lòng, một tay buông xuống ngôi sao đồng trên đầu gối.

Một bóng tối lướt ngang màn hình tường, khiến cô phân tâm. Juliette ngước lên và thấy một bức tường bụi bẩn tràn xuống đồi. Lớp bồ hóng này như run rẩy trong gió trên đường ập về phía các cảm biến cô đã được dạy phải coi là quan trọng, những cảm biến giúp cô được nhìn ngắm khung cảnh thế giới bên ngoài, khung cảnh rất đáng chiêm ngưỡng như từ hồi nhỏ người ta đã dọa dẫm bắt cô tin.

Nhưng bây giờ, khi đã đủ lớn để biết tự suy nghĩ và lên đến đủ gần để trực tiếp quan sát nó, cô không còn tin lắm nữa. Nỗi ám ảnh với công việc lau chùi của khu trên đỉnh gần như chẳng lan xuống đến khu dưới sâu, nơi diễn ra công việc lau chùi đích thực , giữ cho tháp giống tiếp tục hoạt động và tất cả mọi người tiếp tục được sống. Nhưng ngay cả ở dưới đó, bạn bè Cơ Khí của cô cũng đã được dặn ngay từ nhỏ là không được đả động đến thế giới bên ngoài. Khi chẳng bao giờ nhìn thấy nó thì cũng dễ thôi, nhưng giờ đây, khi phải đi ngang qua nó để đến chỗ làm, ngồi trước một khung cảnh bao la mà não người không thể nào lĩnh hội được, cô hiểu những câu hỏi ấy xuất hiện là điều không tránh khỏi. Cô hiểu lý do một số tư tưởng cần phải bị bóp nghẹt trước khi có một đám đông giẫm đạp lên nhau hòng xộc ra ngoài, trước khi những câu hỏi điên rồ hình thành trên môi người dân và đẩy tất cả bọn họ vào chỗ chết.

Cô lật mở tập hồ sơ về Holston. Đằng sau mục thông tin tiểu sử là một chồng dày ghi chú về những ngày cuối cùng của anh trên cương vị cảnh sát trưởng. Phần liên quan đến cái tội thực của anh dài chưa đầy nửa trang, nửa tờ giấy còn lại bị bỏ trống đầy phí phạm. Chỉ có duy nhất một đoạn, đơn thuần giải thích rằng anh đã lên phòng giam trên đỉnh và bày tỏ sự quan tâm tới thế giới bên ngoài. Mỗi thế thôi. Chỉ một vài dòng để kết án tử cho một con người. Juliette đọc đi đọc lại những câu chữ ấy mấy lần trước khi giở sang trang sau.

Bên dưới là một ghi chú của thị trưởng Jahns, yêu cầu hãy nhớ đến Holston vì quãng thời gian anh phụng sự cho tháp giống, chứ không chỉ vì đơn thuần là một người lau chùi. Juliette đọc bức thư viết bằng nét chữ của một người cũng mới mất gần đây. Nghĩ về những người cô biết mình sẽ không đời nào gặp lại mới kỳ lạ làm sao. Nói thẳng ra, một phần lý do cô tránh mặt bố mình suốt bao năm nay là bởi ông ta vẫn còn đó . Chẳng có nguy cơ cô có muốn cũng sẽ không đổi ý được. Nhưng với Holston và Jahns thì lại khác: họ đã vĩnh viễn biến mất. Và vì đã quá quen chế lại các thiết bị tưởng không còn cách nào sửa chữa, Juliette cứ có cảm giác nếu mình tập trung đủ mức, hay thực hiện chuẩn xác một chuỗi công việc theo đúng trình tự, cô có thể đưa những người quá cố quay trở lại, có thể tái tạo hình hài đã phế đi của họ. Nhưng cô biết đó không phải là sự thật.

Cô lật giở hồ sơ về Holston và tự hỏi những câu cấm kỵ, một số câu còn lần đầu đặt ra. Thứ xem chừng vặt vãnh hồi cô còn sống trong khu dưới sâu, nơi tất cả những người cô biết có thể chết ngạt vì rò rỉ khí thải hoặc chết đuối khi máy bơm lũ bị hỏng, thì giờ đây lại lù lù trước mặt cô. Cuộc đời gò bó dưới lòng đất này của bọn họ có nghĩa lý gì? Bên kia những ngọn đồi ngoài kia là thứ gì? Tại sao họ lại ở đây, và vì mục đích gì? Có phải chính giống loài cô đã xây lên các tháp giống cao đổ nát phía đằng xa kia không? Xây để làm gì vậy? Và câu hỏi nhức đầu nhất: một người hiểu lý lẽ như Holston - cả vợ anh nữa - đã nghĩ gì trong đầu mà lại muốn rời đi cơ chứ?

Hai tập hồ sơ bầu bạn với cô, cả hai đều đóng dấu “ĐÃ GIẢI QUYẾT”. Cả hai xét chuẩn ra đều phải nằm trong văn phòng thị trưởng, nơi chúng đáng lẽ phải được niêm phong và cất đi. Nhưng Juliette cứ liên tục giở lại chúng thay vì những vụ việc cấp bách hơn trước mắt. Một trong hai chứa đựng cuộc đời của một người đàn ông cô từng yêu thương, và cô đã giúp giải mã cái chết của anh tại khu dưới sâu. Tập hồ sơ còn lại là của một người cô từng tôn trọng, một người từng nắm giữ công việc mà giờ cô tiếp quản. Cô không biết tại sao mình bị ám ảnh với hai tập hồ sơ ấy, đặc biệt là khi cô không thể chịu đựng nổi cảnh Marnes rầu rĩ nhìn vào mất mát của ông, nghiên cứu các tình tiết xoay quanh cái chết của thị trưởng Jahns, đọc lại các lời khai, tin chắc mình biết kẻ sát nhân là ai nhưng lại không có bằng chứng để dồn hắn vào chân tường.

Có người gõ lên các chấn song trên đầu Juliette. Cô ngước lên nhìn, những tưởng sẽ thấy phó cảnh sát Marnes bảo mình đã đến lúc nghỉ làm, nhưng thay vào đó, cô lại thấy một người lạ chúi xuống nhìn mình.

“Cảnh sát trưởng à?” gã nói.

Juliette đặt chỗ hồ sơ sang một bên và nắm lấy ngôi sao trên đầu gối. Cô đứng dậy quay người lại, đối mặt với nhân vật nhỏ con mang một cái bụng phệ chình ình, kính đặt trên chóp mũi, mặc trên người bộ quần yếm màu bạc may vừa khít và là phẳng phiu của bộ phận IT.

“Tôi giúp gì được ông?” cô hỏi.

Nhân vật kia thò tay qua giữa chấn song. Juliette chuyển ngôi sao sang bên tay kia rồi đưa tay bắt.

“Xin lỗi vì tôi lên trên này muộn,” gã nói. “Đang có rất nhiều chuyện diễn ra, nào là lễ nhậm chức, vụ máy phát điện vớ vẩn kia, và một đống tranh chấp pháp lý. Tôi là Bernard, Bernard Holland.”

Juliette cảm thấy máu mình buốt lạnh. Bàn tay của gã nhỏ đến mức cô có cảm tưởng nó như thiếu mất một ngón tay. Bất chấp điều ấy, gã nắm rất chắc tay. Cô rụt tay về, nhưng gã dứt khoát không chịu buông.

“Vì là cảnh sát trưởng, tôi chắc cô đã biết rất rõ toàn bộ bản Hiệp Ước, thế nên cô hẳn biết rằng tôi sẽ là quyền thị trưởng, ít nhất cho đến khi chúng ta có thể tổ chức một cuộc bầu cử.”

“Tôi đã nghe kể rồi,” Juliette lạnh lùng nói. Cô tự hỏi làm thế nào mà người này lại bước qua được bàn của Marnes mà không xảy ra bạo lực. Đây chính là nghi phạm chính của họ trong cái chết của Jahns - chỉ có điều gã đáng lẽ phải đứng ở bên này chấn song.

“Cô đang soạn hồ sơ à?” Gã buông tay ra, và Juliette rụt tay lại. Gã nhìn xuống mớ giấy tờ rải khắp sàn nhà, mắt dường như dừng lại trên chiếc bi đông nằm trong túi ni lông, nhưng Juliette không thể khẳng định được.

“Chỉ đang tìm hiểu các vụ án đang điều tra thôi,” cô nói. “Trong này có nhiều đất hơn một chút để... à, suy nghĩ.”

“Ồ, hẳn là đã có nhiều người trầm ngâm suy nghĩ bên trong căn phòng này.” Bernard mỉm cười, và Juliette để ý thấy răng cửa của gã khấp khểnh, một răng đè lên răng bên. Nó khiến cho gã trông giống mấy con chuột lạc đàn hồi trước cô hay bẫy được trong phòng đặt bơm.

“Ừ, thì, tôi thấy nơi này rất phù hợp để phân lọc các luồng tư duy, vậy nên có khi điều ấy không hẳn là vô lý đâu. Với cả ngoài ra,” cô xoáy thẳng mắt nhìn gã, “tôi dự kiến nó sẽ không còn trống lâu đâu. Và một khi đã có người vào đây, tôi sẽ có thể tạm ngưng công cuộc trầm ngâm suy nghĩ trong vòng một, hai ngày trong khi kẻ nào đó bị bắt đi lau chùi...”

“Tôi thì chẳng mấy kỳ vọng chuyện đó sẽ xảy ra đâu,” Bernard nói. Gã lại phô ra bộ răng khấp khểnh. “Bên dưới người ta đồn rằng bà thị trưởng tội nghiệp, mong bà ta được yên nghỉ, đã tự làm mình kiệt sức sau chuyến leo thang điên rồ. Tôi tin bà ta lặn lội xuống dưới để gặp cô, phải vậy không?”

Juliette cảm thấy lòng bàn tay đau nhói. Cô thả lỏng tay đang nắm ngôi sao đồng, khớp ngón trên cả hai bàn tay bấy giờ đã trắng bệch vì siết quá chặt.

Bernard chỉnh lại kính. “Nhưng giờ thì tôi lại nghe bảo cô đang điều tra xem có ai làm gì gian trá không à?”

Juliette vẫn không rời mắt khỏi gã, cố gắng không để bóng những ngọn đồi u ám phản chiếu trong cặp kính làm mình phân tâm. “Vì là quyền thị trưởng, tôi nghĩ ông đáng phải biết rằng chúng tôi đang nhìn nhận vụ việc này dưới góc độ một vụ án mạng,” cô nói.

“Ôi trời.” Mắt gã mở lớn bên trên một nụ cười yếu ớt. “Vậy ra những tin đồn là sự thật. Ai lại đang tâm thực hiện một chuyện như thế chứ?” Nụ cười trở nên nhăn nhở hơn, và Juliette nhận ra mình đang phải đương đầu với một kẻ nghĩ mình bất khả xâm phạm. Đây không phải lần đầu tiên cô chạm trán một kẻ có cái tôi bẩn tưởi và ngoại cỡ như gã. Trong quãng thời gian cô làm bóng đeo ở khu dưới sâu, khắp quanh cô là những kẻ như thế.

“Tôi tin chúng tôi sẽ phát hiện ra rằng thủ phạm chính là kẻ được hưởng lợi nhiều nhất từ vụ này,” cô lãnh đạm nói. Sau một khoảng dừng, cô đế thêm, ”thưa Thị trưởng .”

Nụ cười khấp khểnh biến đi. Bernard buông chấn song ra và bước lùi lại, đút tay vào trong quần yếm. “Thôi, thật vui khi cuối cùng cũng được biết mặt cô. Tôi biết rằng cô chưa ra ngoài khu dưới sâu nhiều - và thật tình mà nói thì tôi cũng đã ru rú trong văn phòng mình quá nhiều - nhưng mọi thứ quanh đây đang thay đổi. Trên cương vị thị trưởng và cảnh sát trưởng, cô và tôi sẽ rất thường xuyên làm việc cùng nhau đấy.” Gã liếc nhìn xuống mớ hồ sơ dưới chân cô. “Thế nên tôi trông đợi cô sẽ cập nhật tình hình cho tôi. Về mọi thứ.”

Nói dứt câu, Bernard quay người bỏ đi, và Juliette phải cố lắm thì mới buông lỏng nắm tay ra được. Lúc cuối cùng cũng tách được ngón tay ra khỏi ngôi sao, cô nhận thấy các cạnh sắc đã chọc sâu vào trong lòng bàn tay cô, đâm thủng thịt cô chảy máu. Ánh sáng trên mép miếng đồng hắt vào vài giọt trông như gỉ sắt ướt. Juliette chùi sạch ngôi sao lên bộ quần yếm mới, một thói quen hình thành từ kiếp đời trước sống giữa bùn và dầu mỡ. Cô lầm bầm chửi mình lúc nhìn thấy vệt máu thẫm trên bộ quần áo mới. Cô lật ngôi sao lại, nhìn vào phù hiệu dập trên mặt. Có biểu tượng ba hình tam giác của tháp giống và dòng chữ “Cảnh sát trưởng” cong vòng bên trên. Cô lật nó lại và đưa ngón tay mân mê cái kẹp giữ phần đầu nhọn của mũi kim. Cô mở kẹp để cho mũi kim bật ra. Thân kim cứng đã bị uốn cong rồi bẻ thẳng lại ở mấy chỗ trong suốt bao năm qua, khiến cho nó trông như thể được chế thủ công. Nó lung lay trên khớp nối - hệt như sự do dự của cô không muốn đeo nó lên người.

Nhưng khi tiếng bước chân Bernard lui dần ra xa, khi cô nghe thấy gã nói gì đó không nghe rõ với phó cảnh sát Marnes, cô cảm thấy mình rắn rỏi hơn nhờ một quyết tâm mới. Chẳng khác nào vừa gặp phải một cái bu lông gỉ sét dứt khoát không chịu nhúc nhích. Juliette đến phát bực cả mình trước cái sự cứng ngắc ngoài sức chịu đựng ấy, cái sự bướng bỉnh không muốn rời chỗ ấy. Cô đã hình thành một niềm tin rằng chẳng có cái chốt cài nào trên đời mình không thể tháo ra, đã học cách tấn công chúng bằng mỡ và bằng lửa, bằng dầu thấm sâu và bằng bạo lực. Nếu biết lên kế hoạch tử tế và đủ kiên nhẫn, chúng sẽ luôn luôn quy hàng. Không sớm thì muộn thôi.

Cô đâm cây kim cong queo qua ngực quần yếm và gài vào cái kẹp đằng sau. Nhìn xuống ngôi sao thế này phần nào hơi phi thực. Có cả chục tập hồ sơ nằm dưới chân cô, cần được cô giải quyết, và lần đầu tiên kể từ khi đến khu trên đỉnh, Juliette cảm thấy đây là công việc của mình. Công việc tại Cơ Khí đã nằm lại phía sau. Tình trạng nơi ấy đã được cô cải thiện hơn hẳn hồi cô mới đặt chân đến. Cô còn ở lại đến khi được nghe âm thanh gần như không tiếng của chiếc máy phát điện đã được sửa chữa, được thấy cây trục quay thẳng hàng hoàn hảo đến mức không nhìn ra nổi nó có đang quay hay không. Và bây giờ, khi đã lên đến khu trên đỉnh, cô lại nghe thấy tiếng lạch cạch ì ọp và ken két của một bộ bánh răng kiểu khác, một sự lệch hàng đang ăn mòn động cơ đích thực của tháp giống, hệt như những gì Jahns đã cảnh báo.

Cô để mặc hầu hết những tập hồ sơ kia ở chỗ cũ, nhặt hồ sơ về Holston lên, một tập hồ sơ mà cô đáng lẽ còn không nên nhìn vào nhưng lại chẳng thể buông bỏ, và kéo mở cửa phòng giam. Thay vì ghé vào văn phòng mình, đầu tiên cô tiến về hướng ngược lại, ra chỗ cánh cửa thép vàng dẫn ra chốt gió. Cô dõi mắt nhìn qua tấm kính ba lớp, phải đến lần thứ mười trong vòng mấy ngày vừa qua, hình dung người mình thế chân đứng bên trong, mặc bộ đồ cồng kềnh lố bịch, đợi cánh cửa đằng xa mở ra. Con người ta sẽ nghĩ gì trong lúc đứng một mình ở đó, đợi bị vứt bỏ? Không thể chỉ là sợ hãi đơn thuần được, bởi lẽ Juliette đã nếm trải đủ rõ cảm giác ấy rồi. Nó phải là một xúc cảm nào đó hơn hẳn thế, một cảm giác độc nhất vô nhị, sự điềm tĩnh vượt ngoài ngưỡng đau đớn, hay sự tê dại vượt ngoài ngưỡng hãi hùng. Cô đoán óc tưởng tượng không đủ sức hiểu những cảm giác thực sự độc nhất và xa lạ. Nó chỉ biết cách làm tụt giảm hay tăng cường những gì mình đã biết. Giống như tả cho ai đó nghe trải nghiệm làm tình như thế nào, hay cực khoái là ra sao. Vô phương tả nổi. Nhưng một khi đã đích thân trải nghiệm, ta sẽ có thể mường tượng ra những mức độ khác nhau của cái cảm giác mới đó.

Nó cũng giống như màu sắc. Ta chỉ có thể miêu tả một màu mới bằng những màu sắc đã từng thấy trước đây. Ta có thể pha trộn những gì đã biết, nhưng ta không thể chế tạo ra một thứ khác lạ từ thinh không. Thế nên có khi chỉ những người lau chùi mới hiểu được cái cảm giác khi phải đứng đó, run rẩy - hay có thể không sợ hãi chút nào - đợi cái chết đến gần.

Nỗi ám ảnh với câu hỏi tại sao được thể hiện thông qua những tiếng thì thầm trong tháp giống - mọi người muốn biết tại sao họ lại làm như thế, tại sao họ luôn để lại món quà sáng loáng và bóng lộn cho những người đã tống họ đi lưu đày - nhưng Juliette không hề quan tâm đến chuyện ấy. Cô đoán họ đã nhìn thấy những sắc màu mới, trào dâng một xúc cảm không cách nào tả lại, hoặc có thể kinh qua một trải nghiệm tôn giáo chỉ xảy ra khi phải đối mặt với tử thần. Chẳng lẽ biết rằng điều ấy kiểu gì cũng sẽ xảy ra còn không đủ ư? Vấn đề đã được giải quyết xong xuôi rồi đấy thôi. Hãy coi nó như một chân lý luôn đúng. Hãy chuyển sang nghiền ngẫm một câu hỏi thật sự, chẳng hạn như người phải trải nghiệm chuyện ấy sẽ có những xúc cảm gì. Đó mới là điều thật sự đáng tiếc về các cấm luật kia: không phải người ta chẳng thể thèm muốn thế giới bên ngoài, mà là họ thậm chí còn không được phép thương xót những người lau chùi trong những tuần sau đó, không được băn khoăn tự hỏi họ đã chịu đựng những gì, không được bày tỏ sự cảm tạ hay tiếc nuối một cách đúng mực.

Juliette gõ gõ góc tập hồ sơ về Holston lên cánh cửa vàng, nhớ lại con người ấy thời cuộc đời hãy còn tươi đẹp hơn, hồi anh còn đang yêu, vừa trúng số, kể mãi cho cô nghe về vợ mình. Cô gật đầu chào hồn ma của anh và bước lùi xa khỏi cánh cửa kim loại oai nghiêm lắp mấy tấm kính dày nhỏ. Cô cảm thấy một sự thân thiết với anh khi được nhận chức vụ của anh, đeo ngôi sao của anh, thậm chí còn ngồi trong buồng giam của anh. Cô đã từng yêu một người, và biết cảm giác đó là như thế nào. Cô đã bí mật yêu, không để cho tháp giống biết về mối quan hệ của họ, mặc kệ bản Hiệp Ước. Và bởi vậy, cô cũng biết mất đi một thứ quý giá nhường ấy sẽ tác động đến ta ra sao. Cô có thể hình dung được rằng nếu người tình cũ của cô đang ở trên quả đồi ngoài kia - thân xác ngày một hao mòn ngay trước mắt thay vì trở thành dưỡng chất cho rễ cây - thì cô có thể sẽ nổi cơn muốn đi lau chùi, muốn tận mắt ngắm nhìn những sắc màu mới ấy.

Cô lại mở tập hồ sơ về Holston trong lúc đi về phía bàn mình. Bàn của anh . Con người duy nhất từng biết về tình yêu bí mật của cô. Một khi vụ án tại khu dưới sâu đã được giải quyết xong, cô đã kể cho anh nghe rằng người bị thiệt mạng, nạn nhân của vụ việc cô đã giúp điều tra, từng là người yêu của cô. Có khi nguyên nhân là bởi anh đã luôn mồm nhắc đến vợ mình ngày hôm trước. Có khi nguyên nhân là bởi anh sở hữu một nụ cười rất đáng tin cậy, đã giúp anh thành một cảnh sát trưởng tài ba, khơi gợi lên một ham muốn khó hiểu là tiết lộ mọi bí mật. Bất kể nguyên cớ có là gì, cô cũng đã khai ra cho một người trong ngành luật biết một điều có thể đẩy cô vào vòng lao lý, một mối tình hoàn toàn không chính thức, một hành vi coi thường nghiêm trọng bản Hiệp Ước; và tất cả những gì người được giao nhiệm vụ bảo vệ luật pháp ấy nói chỉ là, “Tôi rất tiếc.”

Anh chia buồn với mất mát của cô. Và anh đã ôm cô. Như thể anh biết cô đang kìm nén trong lòng một nỗi sầu khổ bí mật đã chai sạn lại, thay vào chỗ mối tình giấu giếm khi xưa.

Và chính thế mà cô đã tôn trọng anh.

Giờ thì cô ngồi bên bàn của anh, trên ghế của anh, đối diện với ông phó cảnh sát già của anh, bấy giờ đang gục đầu vào hai tay và bất động nhìn xuống một tập hồ sơ để mở, lấm tấm nước mắt. Chỉ cần liếc nhìn một phát là Juliette đã lập tức nghi ngờ rằng giữa ông và con người trong tập hồ sơ kia cũng là một mối tình ngăn cấm.

“Đã năm giờ rồi,” Juliette nói lặng lẽ và nhẹ nhàng hết mức có thể.

Marnes ngẩng mặt lên khỏi tay. Trán ông đỏ ửng vì đã tì quá lâu. Mắt ông ngầu đỏ, bộ ria bạc lóng lánh những giọt lệ mới ứa. Ông trông già hơn hẳn một tuần trước, ngày ông xuống khu dưới sâu chiêu mộ cô. Ông quay người trên chiếc ghế gỗ cũ, chân ghế kẽo kẹt như thể giật mình vì chuyển động đột ngột kia, liếc nhìn đồng hồ treo trên tường sau lưng và quan sát thời gian bị giam đằng sau mái vòm nhựa ố vàng cũ kỹ của nó. Ông lặng lẽ gật đầu với cây kim tích tắc, đứng dậy, lưng thoáng gù xuống trong lúc ông gắng sức vươn thẳng người. Ông chà đôi bàn tay dọc quần yếm, với lấy tập hồ sơ, nhẹ nhàng gấp nó lại, và kẹp dưới cánh tay.

“Ngày mai nhé,” ông thì thầm, gật đầu với Juliette.

“Sáng mai gặp lại sau,” cô nói trong khi ông loạng choạng bước về phía nhà ăn.

Juliette nhìn ông bỏ đi, cảm thấy thương hại ông. Cô nhận ra tình yêu ẩn sau mất mát của ông. Thật nhói lòng khi phải mường tượng ra cảnh ông quay trở về căn hộ nhỏ của mình, ngồi trên cái giường chỉ đủ rộng cho một người, vừa ôm tập hồ sơ đó vừa khóc cho đến khi cuối cùng cũng chìm vào trong những giấc mơ trằn trọc.

Khi chỉ có một mình, cô đặt tập hồ sơ về Holston lên bàn và kéo bàn phím lại gần. Các phím đã bị gõ mòn nhẵn từ lâu, nhưng trong mấy năm gần đây, đã có ai đó ngay ngắn tô lại các con chữ bằng mực đen. Giờ thì ngay cả những con chữ viết tay cũng đang mờ dần và chẳng bao lâu nữa sẽ cần được viết lại. Juliette sẽ phải lo việc đó - cô không thể gõ mà không nhìn bàn phím như những nhân viên văn phòng ở đây được.

Cô lề mề gõ mổ cò một yêu cầu được điện xuống cho bộ phận Cơ Khí. Sau thêm một ngày chẳng làm ăn được gì, bị bí ẩn về quyết định của Holston làm cho sao nhãng, cô đã nhận ra một điều: cô sẽ không tài nào thực hiện được công việc của người này cho đến khi đã hiểu nguyên nhân anh quay lưng lại với nó, với cả bản thân tháp giống. Nó là một tiếng lạch cạch cứ mè nheo mãi, ngăn cản cô giải quyết các vấn đề khác. Thế nên thay vì tự huyễn hoặc bản thân, cô sẽ chấp nhận thử thách ấy. Điều đó đồng nghĩa với việc cô cần biết nhiều hơn những thông tin ghi trong tập hồ sơ.

Cô không rõ sẽ phải thu thập những thứ mình cần kiểu gì, hay thậm chí phải tiếp cận chúng ra sao, nhưng cô biết ai là người có thể làm được việc ấy. Đó chính là điều cô nhớ nhất về khu dưới sâu. Dưới đó, họ là một gia đình, tất cả đều sở hữu những kỹ năng hữu ích, trùng lắp và bổ trợ cho nhau. Nếu có thể làm được bất cứ điều gì để giúp bất kỳ ai trong số bọn họ, cô sẽ rất sẵn lòng thực hiện. Và cô biết họ cũng sẽ làm điều tương tự, thậm chí còn trở thành một đội quân ủng hộ cô. Đó là một nguồn an ủi tinh thần mà cô nhớ nhung khôn tả, một tấm lưới đỡ giờ đã quá xa vời.

Sau khi gửi yêu cầu, cô ngả người trên ghế cùng với tập hồ sơ về Holston. Đây là một người tử tế, một người biết về những bí mật sâu kín nhất của cô. Anh là người duy nhất từng biết đến chúng. Và chẳng bao lâu nữa, nếu trời phật độ trì, Juliette sẽ khám phá ra các bí mật của anh.