← Quay lại trang sách

Chương 23

SÁNG HÔM SAU, thay vì leo lên văn phòng, Juliette leo xuống năm tầng cầu thang, qua khu nông trại đất tầng trên để dự đám tang của Marnes. Sẽ chẳng có tập hồ sơ nào được lập cho ông phó cảnh sát của cô, không cuộc điều tra nào hết, chỉ có công đoạn hạ cơ thể già nua và mệt mỏi của ông vào lớp đất sâu, nơi nó sẽ phân hủy và nuôi nấng rễ cây. Đứng giữa đám đông và nghĩ về việc ông có tập hồ sơ nào hay không thật là kỳ lạ. Mới đảm nhiệm công việc chưa đầy một tuần mà cô đã coi những tấm bìa hồ sơ như nơi cư ngụ của các hồn ma. Tên và số hiệu vụ án. Những kiếp đời được chắt lọc thành tầm hai mươi tờ giấy bột tái chế, những mẩu sợi và mũi tiêu màu ngẫu nhiên đan dưới lớp mực đen ghi lại câu chuyện buồn của họ.

Buổi lễ rất lâu, nhưng không mang lại cảm giác dông dài. Chỗ đất nơi Jahns được chôn gần đó vẫn còn gồ thành mô. Chẳng bao lâu nữa, hai người bọn họ sẽ hòa chung với nhau bên trong lòng cây, và cây ấy sẽ nuôi dưỡng những cư dân của tháp giống.

Juliette nhận lấy một trái cà chua chín trong khi vị linh mục và bóng đeo đi một vòng qua đám đông đặc nghẹt. Hai con người mặc vải đỏ vừa đi vừa tụng kinh, giọng nghe sang sảng và bổ trợ lẫn nhau. Juliette cắn quả cà chua phần mình, để cho một lượng nước quả phải phép bắn lên quần yếm, cô nhai và nuốt. Có nhận thấy rằng quả cà chua rất ngon, nhưng chỉ ghi nhận một cách máy móc. Khó mà thực sự cảm thấy nó ngon được.

Khi đến lúc đất được xúc lại vào trong hố, Juliette quan sát đám đông. Trong vòng chưa đầy một tuần mà đã có hai người ở khu trên đỉnh chết. Còn có hai vụ tử vong nữa ở nơi khác trong tháp giống, nên đây quả là một tuần lễ rất tệ hại.

Hoặc tốt đẹp, tùy theo từng người. Cô nhận thấy các cặp vợ chồng không con cắn mạnh vào quả cà chua của mình, đan tay vào nhau, lặng lẽ tính toán. Juliette không ưa cái kiểu các đợt quay số diễn ra quá sát những cái chết. Cô luôn nghĩ chúng nên được tổ chức vào ngày cố định hằng năm, để trông như thể chúng kiểu gì cũng sẽ xảy ra, bất kể có ai chết hay không.

Nhưng xét cho cùng, hành động hạ huyệt và hái quả chín ngay trên nấm mồ vốn nhằm mục đích cho ta thấm thía chính điều đó: vòng đời nằm ở ngay đây; không thể thoát ly khỏi nó; nó cần được chấp nhận, nâng niu, trân trọng. Con người ta mất đi sẽ để lại đằng sau món quà là chất dinh dưỡng, là sự sống. Họ nhường chỗ cho thế hệ tiếp theo. Chúng ta sinh ra, chúng ta trở thành bóng đeo, chúng ta thu nhận bóng đeo của riêng mình, và sau đó chúng ta ra đi. Tất cả những gì bất cứ ai có thể hy vọng, đó là còn được nhớ đến qua hai đời bóng đeo.

Trước khi cái hố được lấp kín hẳn, những người đưa đám tiến đến mép lớp đất của nông trại và quăng phần quả còn lại trên tay xuống dưới hố. Juliette bước tới và góp miếng cà chua thừa vào trận mưa vỏ và thịt quả sặc sỡ. Một trợ tế tì người vào chiếc xẻng to quá khổ quan sát chỗ quả cuối cùng bay xuống. Những quả bị ném trượt được anh ta xúc vào cùng với những xẻng đất thẫm, màu mỡ, để lại một mô đất rồi sẽ được thời gian và vài lần tưới nước ép cho phẳng.

Sau đám tang, Juliette bắt đầu leo trở lên văn phòng mình. Cô cảm thấy từng tầng cầu thang hành hạ chân mình, cho dù cô vốn luôn tự hào rằng mình có thể lực tốt. Nhưng đi bộ và leo trèo là hai kiểu tập thể lực khác hẳn. Nó không phải vặn cờ lê hay nới lỏng một cái bu lông cứng đầu, kiểu dai sức này cũng khác với đơn thuần thức khuya và giữ tỉnh táo thêm một ca nữa. Cô kết luận rằng leo thang thế này là phi tự nhiên. Con người không được sinh ra để thực hiện nó. Cô nghi kết cấu cơ thể họ không cho phép họ leo quá một tầng tháp giống là bao. Nhưng đúng lúc ấy, một người khuân vác khác lao xuống vèo qua chỗ cô, bộ mặt tươi tỉnh nở một nụ cười chào hỏi chớp nhoáng, bàn chân lướt phăm phăm trên những bậc thang thép, và cô tự hỏi có khi nào đấy chỉ là vấn đề chăm luyện tập.

Lúc cô cuối cùng cũng quay về đến nhà ăn, thì đã là giờ ăn trưa, và căn phòng tràn ngập tiếng chuyện trò rôm rả lẫn tiếng leng keng của dĩa kim loại cạ vào đĩa kim loại. Chồng giấy tờ gập lại đặt ngoài cửa văn phòng đã cao thêm. Có một cái cây đặt trong xô nhựa, một đôi giày, một bức tượng nhỏ làm từ dây đủ loại sắc màu. Juliette dừng lại trước mớ đồ đó. Bởi Marnes không có gia đình gì hết, cô đồ rằng mình có nhiệm vụ phải kiểm tra tất cả, để đảm bảo các món đồ sẽ được gửi đến cho những người có thể tận dụng chúng một cách tối ưu nhất. Cô cúi người nhặt một tấm thiệp lên. Nét chữ hoa run run bằng sáp màu. Cô mường tượng ra cảnh ngày hôm ấy, trường tiểu học của khu trên đỉnh dành trọn tiết thủ công làm thiệp gửi phó cảnh sát Marnes. Điều này còn khiến cho Juliette thấy buồn hơn bất cứ nghi thức tang lễ nào. Cô quệt nước mắt và nguyền rủa người giáo viên đã nảy ra ý tưởng lôi bọn trẻ con vào cái vụ việc kinh khủng này.

“Đừng bắt chúng can dự,” cô thì thầm một mình.

Cô đặt tấm thiệp về chỗ cũ và trấn tĩnh lại. Cuối cùng cô nghĩ nếu phó cảnh sát Marnes được nhìn thấy tấm thiệp kia thì hẳn sẽ thích lắm. Ông là một người dễ hiểu, kiểu người lão hóa tất cả mọi bộ phận ngoại trừ con tim, thứ duy nhất chưa bao giờ hao mòn bởi vì ông không bao giờ dám sử dụng nó.

Lúc vào trong văn phòng, cô ngạc nhiên khi thấy mình có khách. Một người lạ mặt ngồi tại bàn phó cảnh sát Marnes. Cậu ta ngước lên khỏi máy tính và mỉm cười với cô. Cô sắp sửa hỏi cậu ta là ai thì Bernard - cô dứt khoát không chịu coi gã là thị trưởng, dù chỉ là quyền thị trưởng - bước ra khỏi phòng giam, tay cầm một tập hồ sơ, mỉm cười với Juliette.

“Tang lễ thế nào?” gã hỏi.

Juliette băng qua phòng và giật tập hồ sơ ra khỏi tay gã. “Xin đừng làm xáo trộn thứ gì cả,” cô nói.

“Xáo trộn ư?” Bernard cười phá lên và chỉnh lại kính. “Đây là một vụ đã giải quyết xong. Tôi đang tính mang nó về văn phòng mình cất đi.”

Juliette nhìn tập hồ sơ và thấy là tập về Holston.

“Cô biết tôi là sếp trực tiếp của cô, đúng không? Đáng lẽ cô ít nhất cũng phải liếc qua bản Hiệp Ước trước khi Jahns cho cô nhậm chức.”

“Tôi sẽ giữ cái hồ sơ này, cảm ơn ông.” Juliette bỏ mặc gã bên buồng giam để mở và ra chỗ bàn mình. Cô đút tập hồ sơ vào ngăn kéo trên cùng, kiểm tra cho chắc cái ổ đĩa vẫn còn đang thò ra từ máy tính, sau đó ngước lên nhìn thanh niên đối diện mình.

“Còn cậu là ai?”

Cậu ta đứng dậy, và chiếc ghế của phó cảnh sát Marnes phát ra tiếng kêu cọt kẹt quen thuộc. Juliette cố ép mình không coi nó là của ông nữa.

“Peter Billings, thưa sếp.” Cậu ta chìa tay ra. Juliette bắt lấy. “Tôi vừa mới nhậm chức.” Cậu ta bấu lấy góc ngôi sao của mình và giơ nó ra xa bộ quần yếm cho cô nhìn.

“Thực tình mà nói, Peter là người được đề cử cho công việc của cô đấy,” Bernard nói.

Juliette chẳng hiểu gã nói vậy là ý như thế nào, hay nhắc đến chuyện ấy để làm gì. “Ông cần gì à?” cô hỏi Bernard. Cô huơ tay về phía bàn mình. Giấy tờ đã chất thành đống từ ngày hôm trước, vì cô đã dành phần lớn thời gian thu xếp hậu sự cho Marnes. “Bởi vì bất cứ thứ gì ông muốn được giải quyết, tôi có thể nhét nó vào dưới đáy một trong những chồng giấy tờ này đây.”

“Bất cứ thứ gì tôi đưa cho cô sẽ phải được đặt lên trên cùng ,” Bernard nói. Gã nện tay xuống tập hồ sơ có đề tên Jahns. “Và tôi lên trên này để họp luôn ở đây chứ không bắt cô cất công lặn lội xuống văn phòng của tôi là đã tử tế với cô lắm rồi đấy.”

“Họp hành gì thế?” Juliette hỏi. Cô không ngước lên nhìn gã mà chúi đầu vào phân loại giấy tờ. Cô hy vọng gã sẽ thấy mình đang bận cỡ nào và rời đi, rồi cô sẽ có thể bắt đầu huấn luyện cho Peter những kỹ năng ít ỏi mà bản thân cô đã tìm ra.

“Như cô đã biết đấy, trong vòng mấy tuần vừa qua, nhân sự của chúng ta đã... có nhiều biến động . Vô tiền khoáng hậu, ít nhất là kể từ hồi có cuộc nổi loạn. Và tôi e đó sẽ là hiểm họa chúng ta phải đối mặt, nếu tất cả chúng ta không đồng tâm nhất trí với nhau.” Gã nhấn ngón tay lên tập hồ sơ Juliette đang định dịch đi, giữ im nó ở đấy. Cô liếc lên nhìn gã.

“Người dân muốn có sự tiếp nối. Họ muốn biết ngày mai sẽ thật giống với hôm qua. Họ muốn được đảm bảo điều ấy. Giờ thì, chúng ta vừa mới có một vụ lau chùi, và chúng ta đã phải chịu đựng một số tổn thất, vậy nên lẽ đương nhiên, tâm trạng của mọi người có phần hơi vô kỷ luật.” Gã quơ tay chỉ các tập hồ sơ và các chồng giấy bột tràn từ bàn Juliette sang bàn Marnes. Cậu thanh niên ngồi đối diện cô nhìn chồng giấy với vẻ e dè, như thể sẽ có thêm nhiều tập hồ sơ từ cái chồng đó dịch về phía cậu ta, khiến cho cậu ta có thêm nhiều việc cần giải quyết. “Chính thế nên tôi sẽ tuyên bố ban hành một lệnh ân xá. Không chỉ để củng cố tinh thần của toàn bộ tháp giống, mà còn để giúp hai người có một khởi đầu sạch sẽ và không bị choáng ngợp trong lúc làm quen với nhiệm vụ của mình.”

“Khởi đầu sạch sẽ ư?” Juliette hỏi.

“Phải. Chừng này vụ sai phạm do say xỉn. Người này bị tội gì?” Gã nhắc một tập hồ sơ lên và đọc cái tên trên nhãn. “Hừ. lần này Pickens lại gây ra chuyện gì nữa đây?”

“Anh ta ăn mất con chuột của hàng xóm,” Juliette nói. ”Thú cưng của gia đình.”

Peter Billings khúc khích cười. Juliette nheo mắt nhìn cậu ta, tự hỏi tại sao tên cái cậu này nghe cứ quen quen. Thế rồi cô nhận ra nó, nhớ lại một báo cáo cậu ta từng viết kẹp trong một tập hồ sơ. Theo như cô nhớ thì cái cậu mặt búng ra sữa này mới đây còn là bóng đeo của một thẩm phán tháp giống. Cô khó lòng mường tượng nổi cậu ta thực hiện vai trò ấy với vẻ ngoài như thế kia. Cậu ta giống kiểu dân IT chuẩn nòi hơn.

“Tôi tưởng nuôi chuột làm thú cưng là phi pháp mà,” Bernard nói.

“Đúng vậy. Anh ta là nguyên đơn. Đây là một đơn phản tố...” cô lục lọi mớ hồ sơ của mình, “... cho đơn này.”

“Để xem nào,” Bernard nói. Gã giật lấy tập hồ sơ kia, cầm cả hai cạnh nhau, sau đó thả cả hai vào trong thùng rác của cô, khiến toàn bộ chỗ giấy tờ và ghi chú đã được sắp xếp cẩn thận rơi hết ra và trộn nháo nhào với nhau, tạo thành một đống lộn xộn trên các thứ giấy vụn sẽ được đem đi tái chế khác.

“Tha thứ và buông bỏ,” gã vừa nói vừa phủi tay. “Đó sẽ là khẩu hiệu tranh cử của tôi. Người dân cần như thế. Đây là khởi đầu mới, quên đi quá khứ trong giai đoạn khốn khó, hướng về phía tương lai !” Gã vỗ mạnh lên lưng cô, gật đầu với Peter, và tiến về phía cửa.

“Khẩu hiệu tranh cử hả?” cô hỏi trước khi gã kịp đi mất. Và cô nhận ra rằng một trong những tập hồ sơ gã đề xuất nên được tha thứ chính là tập có gã là nghi phạm chính.

“Ồ phải,” Bernard nói với ra sau vai. Gã nắm lấy khung cửa và ngoái lại nhìn cô. “Sau một hồi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đã kết luận rằng không có ai thích hợp với công việc ấy hơn mình hết. Tôi chẳng thấy có vấn đề gì hết nếu đồng thời tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ của mình dưới IT và đảm nhiệm vai trò thị trưởng. Trên thực tế, tôi đang làm rồi đấy thôi!” Gã nháy mắt. “Tiếp nối ấy mà.” Và dứt câu, gã bỏ đi mất.

Juliette dành nốt buổi chiều hôm ấy để hướng dẫn cho Peter Billings, quá hẳn “thời gian làm việc hợp lý” theo quan điểm của cậu ta. Thứ cô cần nhất là có ai đó sàng lọc các khiếu nại và trả lời điện đàm. Đây trước kia là công việc của Holston, tuần tiểu bốn mươi tám tầng trên đỉnh và đến xử lý bất cứ vụ gây rối nào. Phó cảnh sát Marnes từng hy vọng Juliette sẽ đảm nhiệm vai trò đó với đôi chân trẻ trung, khỏe khoắn của cô. Ông cũng đã nói rằng một cô gái xinh đẹp sẽ có thể “khiến cho công chúng có thiện cảm hơn”. Juliette thì ngờ ông có ý đồ khác. Cô đoán Marnes muốn cô rời văn phòng để ông có thể thui thủi một mình với tập hồ sơ của ông và hồn ma trong đó. Và cô hiểu rất rõ mong muốn ấy. Thế nên sau khi cô cho Peter Billings cầm theo về nhà một danh sách các căn hộ và người bán hàng để ghé thăm ngày hôm sau, cô cuối cùng cũng được ngồi xuống bên máy tính và xem kết quả thu thập được từ đợt tìm kiếm đêm hôm trước.

Truy vấn kiểm tra chính tả đã cho ra những kết quả thú vị. Không phải những cái tên như cô đã hy vọng, mà là những đoạn văn bản lớn trông cứ như đã được mã hóa: những đoạn vô nghĩa có dấu câu, cách thụt đầu dòng kỳ lạ, và rải rác những từ mà cô hiểu nhưng trông cứ lạc lõng. Những đoạn văn bản khổng lồ này được trải khắp máy tính cá nhân của Holston, mới xuất hiện lần đầu từ hơn ba năm trước một chút. Nó khớp với tuyến thời gian, nhưng điều thực sự khiến Juliette chú ý là chỗ dữ liệu này thường xuyên xuất hiện trong các thư mục con, đôi khi ẩn sâu bên trong cả chục thư mục hoặc hơn. Cứ như thể ai đó đã bỏ công giấu kín, nhưng lại muốn lưu giữ nhiều bản sao, sợ để mất nó.

Bất kể nó có là gì, cô cũng đoán nó là thông tin đã được mã hóa và quan trọng. Cô rứt từng miếng từ một ổ bánh mì nhỏ và chấm vào mứt ngô trong khi tổng hợp một bản đầy đủ mớ nội dung vô nghĩa này để gửi xuống Cơ Khí. Có một vài người chắc đủ thông minh để lý giải đống mật mã ấy, đầu tiên sẽ là Walker. Cô nhai đồ ăn và dành ra nguyên một tiếng đồng hồ sau đó điểm lại những chỉ dấu mình đã luận ra được về những năm cuối cùng Holston còn nắm giữ chức vụ này. Khoanh vùng hoạt động của anh, xác định đâu mới là thứ quan trọng và đâu chỉ là linh tinh, là việc chẳng dễ dàng gì, nhưng cô tiếp cận nó bằng logic cũng giống như bất kỳ vụ hỏng hóc nào khác. Bởi vì cô tin rằng trường hợp mình đang gặp phải chính là như vậy. Một vụ hỏng hóc, suy sụp. Dần dần và triền miên. Gần như không thể tránh được. Đối với anh, mất vợ cũng như nứt một cái gioăng hay vòng đệm. Mọi thứ đã lạch xạch rơi ra ngoài tầm kiểm soát đối với Holston đều có thể truy ngược lại gần như máy móc về cái chết của vợ anh.

Một trong những điều đầu tiên cô nhận ra là hoạt động trên máy tính tại chỗ làm của anh chẳng có gì bí ẩn hết. Holston hiển nhiên đã trở thành cú đêm, hệt như cô, thức khuya hàng tiếng liền bên trong căn hộ của mình. Cô thấy đó lại là một điểm chung nữa giữa họ, và thế là cô lại càng thêm ám ảnh với người đàn ông kía. Nếu chỉ tìm kiếm trong máy tính cá nhân của anh, cô có thể bỏ qua phân nửa chỗ dữ liệu. Bên cạnh đó, anh rõ ràng dành phần lớn thời gian điều tra vợ mình, hệt như Juliette giờ đang tìm hiểu về anh. Đây là mối liên kết sâu đậm nhất giữa hai người bọn ho, Juliette và Holston. Cô hiện đang tìm hiểu về người lau chùi tình nguyện cuối cùng, hệt như anh từng tìm hiểu về vợ mình, hy vọng khám phá ra nguyên cớ kinh khủng nào có thể đẩy một người đến nước chọn thế giới cấm kỵ bên ngoài.

Và đến đây thì Juliette bắt đầu phát hiện ra những manh mối gần như kỳ quái trong mối liên hệ giữa bọn họ. Allison, vợ của Holston, có vẻ đã giải mã được bí ẩn của các máy chủ cũ. Chính phương thức Juliette sử dụng để nắm được dữ liệu của Holston đã giúp Allison nắm được một bí mật nào đó, rồi về sau đến lượt Holston biết tới nó. Nhờ tập trung vào những bức email bị xóa giữa cặp vợ chồng này, cũng như lưu tâm đến tần suất liên lạc dày đặc vào khoảng thời gian cô vợ công bố một tài liệu trình bày cách khôi phục dữ liệu đã xóa, Juliette đã mò ra một hướng điều tra xem chừng rất có cơ sở. Cô càng thêm vững tin rằng Allison đã phát hiện ra điều gì đó trên các máy chủ. Vấn đề là phải xác định xem cụ thể nó là gì - và ngay cả khi nếu tìm thấy được nó thì liệu cô có nhận ra nổi hay không.

Cô thử đề ra mấy ý tưởng, thậm chí còn nghĩ cả đến khả năng Allison nổi điên vì chồng đi lăng nhăng, nhưng Juliette có ấn tượng về Holston đủ rõ để biết rằng không phải như vậy. Và rồi cô để ý thấy rằng mọi dấu vết hoạt động xem chừng đều dẫn ngược về các đoạn văn bản vô nghĩa kia. Juliette cứ nại ra đủ mọi loại cớ để bác bỏ câu trả lời ấy, bởi lẽ cô không thể lý giải nổi. Tại sao Holston, và đặc biệt là Allison, lại dành nhiều thời gian đến vậy để đọc cái mớ vớ vẩn kia cơ chứ? Nhật ký hoạt động cho thấy Allison toàn để mở hàng mấy tiếng liền, như thể đống chữ cái và ký tự lộn xộn kia là thứ có thể đọc được. Đối với Juliette, trông nó cứ như cả một ngôn ngữ mới.

Thế cái gì là thứ đã thúc đẩy Holston và vợ anh đi lau chùi đây? Giả thuyết người dân trong tháp giống thường đưa ra là Allison đã mất trí, đã trở nên thèm khát thế giới bên ngoài đến phát cuồng, và Holston về sau bị cơn sầu khổ đánh quỵ. Nhưng Juliette chưa bao giờ tin giả thuyết ấy. Cô không thích các trùng hợp ngẫu nhiên. Mỗi khi cô tháo tung một cái máy ra để sửa, và vài ngày sau lại nảy sinh một vấn đề mới, thường cô chỉ việc lần ngược lại những bước mình vừa thực hiện trong lần trước. Câu trả lời luôn nằm ở đó. Câu đố này cũng được cô nhìn nhận theo kiểu tương tự: chẩn đoán dễ đi tới hơn nhiều là cả hai người bọn họ ra ngoài bởi cùng một nguyên nhân .

Chỉ có điều cô không thể xác định nổi nguyên nhân là gì. Và cô cũng phần nào e ngại rằng có thể mình cũng sẽ phát điên nốt nếu khám phá ra nó.

Juliette dụi mắt. Lúc cô nhìn lại bàn mình, tập hồ sơ về Jahns khiến cô để ý. Đặt trên tập hồ sơ về bà là báo cáo của bác sĩ về Marnes. Cô dịch bản báo cáo sang một bên và với lấy mẩu ghi chú bên dưới, mẩu ghi chú do Marnes viết và để lại trên bàn nhỏ cạnh giường ông:

“Đáng ra phải là tôi.”

Juliette nghĩ, thật quá ngắn ngủi. Nhưng xét cho cùng, trong tháp giống này có còn ai để ông nhắn nhủ nữa đâu? Cô nghiền ngẫm cái nhúm từ ấy, nhưng chẳng thể rút ra được gì nhiều nhặn. Bi đông bị đầu độc là của ông , không phải bi đông của Jahns. Thực tình mà nói, điều đó biến cái chết của bà thành một ca ngộ sát, một thuật ngữ mới đối với Juliette. Marnes đã giải thích thêm một điều nữa về luật pháp: tội nặng nhất họ có thể hy vọng sẽ gán được cho một kẻ nào đó là mưu toan sát hại ông nhưng bất thành, chứ không phải cái tai nạn đã tước đi sinh mạng bà thị trưởng. Vậy có nghĩa là nếu họ có thể kết tội được một bên nào đó, kẻ ấy có thể bị bắt đi lau chùi để đền tội cho cái âm mưu giết Marnes đã thất bại , trong khi sẽ chỉ lãnh năm năm quản chế và lao động công ích vì chuyện đã tình cờ xảy đến với Jahns. Juliette tin rằng cái lẽ công bằng quái gở ấy cũng đã góp phần khiến cho Marnes tội nghiệp bị suy sụp, chẳng kém gì những thứ khác. Chẳng hề có hy vọng công lý đích thực sẽ được thực thi, một mạng sẽ đền một mạng. Mớ luật lệ kỳ lạ ấy, kết hợp với việc biết rằng chính mình đã mang chất độc trên lưng, đã khiến ông bị tổn thương nặng nề. Ông phải sống với mặc cảm là người mang chất độc, sống trong đau đớn vì biết rằng cái chết của con người mình yêu quý bị gây ra bởi một hành động tốt, một chuyến đi chung.

Juliette cầm bức thư tuyệt mệnh và tự nhiếc móc bản thân vì đã không tiên liệu được chuyện ấy. Cơn suy sụp đó đáng lẽ đã có thể lường được từ sớm, bảo dưỡng phòng ngừa một chút là xong. Đáng lẽ cô đã có thể nói nhiều hơn, giúp đỡ ông theo cách nào đó. Nhưng trong mấy hôm đầu tiên ấy, cô còn quá mải bận loay hoay làm quen với công việc, không nhận thấy người đưa mình lên khu trên đỉnh đang dần tan nát ngay trước mắt.

Biểu tượng hộp thư của cô nhấp nháy, ngắt ngang những suy nghĩ tăm tối này. Cô với lấy con chuột và tự nguyền rủa bản thân. Khối dữ liệu khổng lồ cô gửi xuống Cơ Khí cách đây mấy tiếng hẳn đã bị từ chối. Có khi gửi cùng một lúc như vậy thì nặng quá. Nhưng rồi cô nhận thấy là thư do Scottie gửi, người bạn ở bộ phận IT đã đưa cho cô cái ổ đĩa.

“Đến ngay,” thư viết.

Một yêu cầu thật lạ lùng. Mơ hồ nhưng lại rất khẩn cấp, đặc biệt khi bây giờ đã rất muộn. Juliette tắt màn hình, rút lấy cái ổ khỏi máy tính đề phòng trường hợp có thêm khách ghé thăm, và thoáng cân nhắc việc đeo khẩu súng cổ lỗ của Marnes lên eo. Cô đứng dậy, lại chỗ tủ chìa khóa và miết tay dọc chiếc đai lưng mềm, cảm nhận vết lõm nơi miếng khóa đã đè vào lớp da cũ suốt bao thập kỷ. Cô lại nghĩ về bức thư cụt ngủn của Marnes và nhìn qua chiếc ghế trống của ông. Cuối cùng cô quyết định để khẩu súng treo ở nguyên vị trí cũ. Cô gật đầu với bàn ông, kiểm tra xem đã mang theo chìa khóa chưa, và vội vã bước ra khỏi cửa.