Chương 48
JULIETTE BÁM THEO ĐỘC MỘT MÌNH chui qua cái lỗ trên sàn phòng máy chủ. Ở đó có một cái thang đứng dài và một lối đi dẫn đến tầng ba mươi lăm, một phần tầng ba mươi lăm mà cô ngờ là không thể lọt vào được từ cầu thang. Độc Một Mình xác nhận điều ấy trong khi họ chúi đầu băng qua cái lối đi hẹp kia và bước dọc một hành lang ngoằn ngoèo rực sáng. Cái gã này như vừa gỡ được cục nghẹn ở họng, làm tuôn ra ồng ộc một dòng thác bấy lâu bị nén trong cô đơn. Gã nói về chỗ máy chủ trên đầu họ, nói những điều Juliette chẳng hiểu gì mấy, cho đến khi lối đi dẫn vào trong một căn phòng bừa bộn.
“Nhà tôi,” Độc Một Mình nói, xòe rộng đôi bàn tay. Ở một góc sàn là một tấm đệm, một mớ ga và gối hỗn độn tràn cả xuống sàn. Một căn bếp tạm bợ đã được bày ra trên hai cái giá: bình đựng nước, đồ ăn đóng hộp, hộp và lọ rỗng. Nơi này bừa bộn vô cùng và hôi thối nồng nặc, nhưng Juliette chắc Độc Một Mình không thể nhìn ra hay ngửi thấy mấy thứ ấy. Ở phía bên kia căn phòng có cả một bức tường những hàng kệ, đặt đầy hộp kim loại to ngang hộp tua vít cỡ lớn, một vài hộp đã bị mở phân nửa.
“Ông sống ở đây một mình à?” Juliette hỏi. “Không còn ai khác ư?” Cô không thể không nghe thấy nét hy vọng mong manh pha lẫn trong giọng mình.
Độc Một Mình lắc đầu.
“Thế còn dưới sâu thì sao?” Juliette kiểm tra vết thương trên tay. Máu đã gần ngừng chảy.
“Tôi nghĩ là không,” gã nói. “Đôi khi thì lại nghĩ có người. Tôi thỉnh thoảng thấy một quả cà chua mất tích, nhưng tôi đoán thủ phạm là lũ chuột.” Gã nhìn chằm chằm vào góc phòng. “Không thể bắt hết tất cả chúng nó,” gã nói. “Chúng ngày một đông đảo...”
“Nhưng đôi khi ông vẫn nghĩ có những người khác như ông à? Những người còn sống ấy?” Cô chỉ mong gã chịu tập trung cho.
“Ừ.” Gã xoa râu, nhìn ngó xung quanh phòng như thể mình nên làm gì đó cho cô, mang gì ra mời khách. “Đôi khi tôi thấy có thứ bị dịch đi. Thấy có thứ bị để chỏng chơ bên ngoài. Đèn gieo trồng quên tắt. Thế rồi tôi nhớ ra chính mình đã làm vậy.”
Gã cười một mình. Đó là hành động tự nhiên đầu tiên cô nhìn thấy ở gã, và Jules đoán rằng suốt mấy năm qua, gã đã làm vậy nhiều lần lắm rồi. Ta cười hoặc để giữ cho đầu óc mình tính táo hoặc bởi ta đã quá chán tỉnh táo rồi. Bất kể lý do có là gì, ta cũng sẽ cười lên.
“Cứ tưởng con dao gài cửa là do tôi để đấy. Thế rồi tôi tìm thấy cái ống nước. Đã nghĩ có phải nó bị một con chuột cực, cực lớn bỏ lại không.”
Juliette mỉm cười. “Tôi không phải chuột,” cô nói. Cô chỉnh lại tấm khăn trải bàn, vỗ lên đầu mình và tự hỏi chuyện gì đã xảy đến với mảnh vải còn lại.
Độc Một Mình xem chừng suy nghĩ về điều ấy.
“Thế ông sống đây đã bao nhiêu năm rồi?” cô hỏi.
“Ba mươi tư,” gã nói, không chút ngập ngừng.
“Ba mươi tư năm ? Kể từ hồi ông sống một mình ư?”
Gã gật đầu, và sàn nhà như sụt xuống dưới chân cô. Đầu cô quay mòng mòng khi tưởng tượng phải sống một quãng thời gian dài đến vậy mà chẳng có ai khác ở bên.
“Ông bao nhiêu tuổi rồi?” cô hỏi. Gã trông có vẻ không già hơn cô mấy.
“Năm mươi,” gã nói. “Vào tháng sau, tôi khá chắc là như thế.” Gã mỉm cười. “Nói chuyện thế này vui nhỉ.” Gã chỉ xung quanh căn phòng. “Tôi đôi khi vẫn nói chuyện với đồ vật, và huýt sáo nữa.” Gã nhìn thẳng vào cô. “Tôi huýt sáo giỏi lắm.”
Juliette nhận ra cô chắc mới chỉ chào đời hồi nơi đây xảy ra chuyện, bất kể có là chuyện gì. “Chính xác thì ông làm thế nào mà sống sót được suốt bao năm nay?” cô hỏi.
“Tôi không biết. Ban đầu không định sống mấy năm liền. Chỉ cố trụ mấy tiếng thôi. Thời giờ cứ dần tích tụ lại. Tôi ăn. Tôi ngủ. Và tôi...” Gã nhìn đi chỗ khác, đi đến bên một cái kệ và lục lọi mấy cái lon, phần nhiều đã trống rỗng. Gã tìm thấy một lon có nắp để mở, không nhãn mác, và chìa về phía cô. “Đậu không?” gã hỏi.
Cô muốn từ chối, nhưng cái vẻ háo hức trên khuôn mặt đáng thương của gã khiến cho cô không làm nổi. “Cảm ơn,” cô nói, và cô nhận ra mình đói đến mức nào. Cô còn nếm thấy vị nước lợ ban nãy, vị axít dạ dày, quả cà chua chưa chín. Gã bước đến gần hơn, và cô thọc tay vào chất dịch ướt trong lon và lôi ra một quả đậu xanh sống. Cô bỏ nó vào trong miệng nhai.
“Và tôi ị,” gã ngượng nghịu nói trong lúc cô đang nuốt dở. “Không đẹp đẽ gì hết.” Gã lắc đầu và lục lọi tìm đậu. “Tôi chỉ có một mình, thế nên tôi cứ đi trong nhà vệ sinh của các căn hộ cho đến khi không chịu đựng được cái mùi nữa.”
“Bên trong các căn hộ à?” Juliette hỏi.
Độc Một Mình tìm nơi đặt lon đậu xuống. Cuối cùng gã cũng đặt nó xuống, trên sàn nhà, giữa một chồng nhỏ khác các món rác rưởi và những mảnh vụn của kiếp sống đơn độc.
“Không có gì xả được hết. Không có nước. Tôi chỉ có một mình.” Gã trông có vẻ xấu hổ.
“Kể từ hồi ông mười sáu tuổi,” Juliette nói, bấy giờ đã tính toán xong. “Chuyện gì đã xảy ra ở đây ba mươi tư năm trước vậy?”
Gã giơ tay lên trời. “Thì vẫn chuyện bao giờ cũng xảy ra. Mọi người hóa điên. Chỉ cần xảy ra một lần thôi là đủ.” Gã mỉm cười. “Chúng ta chẳng được ngợi khen gì khi giữ được đầu óc tỉnh táo đâu, đúng không? Tôi chẳng được ngợi khen gì. Ngay cả từ chính tôi. Chính bản thân mình. Tôi giữ đầu óc mình tỉnh táo và tỉnh táo và tôi sống được thêm một ngày nữa, thêm một năm nữa, và không có phần thưởng gì hết. Làm người bình thường không có gì hay cả. Không điên không có gì hay cả.” Gã nhíu mày. “Thế rồi cô gặp một ngày trái gió trở trời, và cô lấy làm lo lắng cho chính bản thân mình, cô hiểu chứ? Chỉ cần một ngày là đủ.”
Gã bất chợt ngồi xuống sàn nhà, khoanh chân lại, và vặn vẹo chỗ vải quần yếm dồn lên ở đầu gối. “Tháp giống của chúng tôi gặp một ngày trái gió trở trời. Chỉ có thế thôi.” Gã ngước lên nhìn Juliette. “Không được ngợi khen gì cho suốt tất cả những năm trước đó. Không hề. Cô muốn ngồi không?”
Gã chỉ xuống sàn nhà. Thêm một lần nữa, cô không thể từ chối. Cô ngồi xuống, tránh xa cái giường hôi hám, và dựa lưng vào tường. Có quá nhiều điều cần thẩm thấu.
“Làm thế nào mà ông sống sót được?” cô hỏi. “Ý tôi là qua cái ngày trái gió trở trời kia ấy. Và kể từ đó đến nay.”
Cô ngay lập tức lấy làm hối hận vì đã hỏi. Có biết cũng chẳng có gì quan trọng. Nhưng cô cảm thấy có phần nào cần thiết, có khi để nhìn xem điều gì đang đón đợi mình, có khi bởi vì cô sợ rằng sống sót trong nơi này có thể còn tệ hơn chết ở bên ngoài.
“Bằng cách không ngừng sợ,” gã nói. “Thầy mẫu của bố tôi là trưởng bộ phận IT. Của nơi này.” Gà gật đầu. “Bố tôi là một bóng đeo quan trọng. Biết về những phòng này, mà có khi chỉ có hai hay ba người biết. Ngay khi xung đột mới bùng nổ được vài phút, ông cho tôi biết về nơi này, đưa cho tôi chìa khóa của mình. Ông đánh lạc hướng người ta, và bất chợt chỉ còn tôi là người duy nhất biết về nơi này.” Gã nhìn xuống lòng mình một lúc, sau đó lại ngước lên. Juliette nhận ra tại sao gã trông trẻ hơn hẳn thực tế. Gã trở nên như thế không chỉ đơn thuần là vì nỗi sợ hãi, sự nhút nhát - nó nằm trong mắt gã. Gã đã kẹt cứng trong nỗi hãi sợ vĩnh hằng của cơn binh biến hồi thiếu niên. Cơ thể gã đơn thuần già đi quanh lớp vỏ đóng băng bao lấy một cậu nhóc khiếp đảm.
Gã liếm môi. “Không một ai sống sót cả, đúng không? Những người đã ra ngoài ấy?” Độc Một Mình quan sát mặt cô hòng tìm kiếm câu trả lời. Cô cảm thấy niềm hy vọng tột cùng tràn ra từ mọi lỗ chân lông của gã.
“Không,” cô buồn bã nói, nhớ lại cảm giác lội qua họ, bò trên họ. Cứ như thể chuyện xảy ra từ mấy tuần trước chứ không phải mới mấy ngày.
“Vậy là cô đã thấy họ ngoài kia à? Chết hết hả?”
Cô gật đầu.
Gã gục cằm. “Khung cảnh bên ngoài không chiếu tiếp được lâu. Tôi chỉ lẻn lên một lần trong mấy buổi đầu. Vẫn còn đánh nhau nhiều lắm. Dần dần, tôi lẻn ra thường xuyên hơn và đi xa hơn. Tôi gặp phải rất nhiều cảnh hỗn loạn họ gây ra. Nhưng có khi đã...” gã suy nghĩ cẩn thận, “... hai mươi năm rồi thì phải, tôi chưa thấy một thi thể mới nào.”
“Vậy là suốt một thời gian sau đó, trong này còn có những người khác nữa à?”
Gã chỉ lên trên trần. “Đôi khi họ sẽ vào trong này. Chỗ máy chủ. Và đánh nhau. Họ đánh nhau ở khắp mọi nơi. Càng lúc càng tệ hơn, cô biết chứ? Đánh nhau tranh giành đồ ăn, đánh nhau tranh giành phụ nữ, đánh nhau chỉ vì đã đánh nhau.” Gã vặn người và chỉ lại qua một cánh cửa khác. “Những phòng này như một tháp giống bên trong một tháp giống. Được thiết kế để trụ được mười năm liền. Nhưng có thể trụ được lâu hơn nếu chỉ có độc một mình.” Gã mỉm cười.
“Ý ông là sao? Một tháp giống bên trong một tháp giống là thế nào?”
Gã gật đầu. “Tất nhiên,” gã nói. “Xin lỗi. Tôi đã quen nói chuyện với một người biết mọi thứ mình biết.” Gã nháy mắt với cô, và Juliette nhận ra ý gã muốn bảo chính gã. “Cô không biết một tháp giống là gì.”
“Tất nhiên tôi biết chứ,” cô nói. “Tôi sinh ra và lớn lên tại một nơi y hệt như thế này. Chỉ có điều, chắc ông có thể nói rằng chúng tôi vẫn đang có những tháng ngày tươi đẹp và không chịu ngợi khen bản thân vì điều đó.”
Độc Một Mình mỉm cười. “Thế thì tháp giống là gì?” gã hỏi, sự bướng bỉnh của tuổi thiếu niên trỗi dậy.
“Nó là...” Juliette lựa lời. “Nó là nhà của chúng ta. Một tòa nhà tương tự như những công trình bên kia đồi, nhưng ngầm dưới đất. Tháp giống là phần thế giới nơi ta có thể sinh sống được. Là bên trong ,” cô nói, nhận ra nó khó định nghĩa hơn cô nghĩ.
Độc Một Mình cười phá lên.
“Đó là ý nghĩa của từ ấy đối với cô . Nhưng chúng ta suốt ngày sử dụng từ ngữ mà không thực sự hiểu.” Gã chỉ về phía cái kệ đựng từng ấy cái hộp kim loại. “Tất cả những hiểu biết thật sự đều nằm trong đó. Mọi thứ từng xảy ra.” Gã bắn cho cô một ánh nhìn. “Cô đã nghe cách nói ‘trâu bò’ bao giờ chưa? Hoặc ai đó là một kẻ ‘đầu bò’?”
Cô gật đầu. “Tất nhiên.”
“Nhưng bò là gì?” gã hỏi.
“Một người bất cẩn. Hoặc ác ý, kiểu như một kẻ hay bắt nạt.”
Độc Một Mình cười phá lên. “Có quá nhiều thứ chúng ta không biết,” gã nói. Gã nhìn ngắm móng tay của mình. “Một tháp giống không phải là thế giới. Nó chẳng là gì hết. Thuật ngữ này, cái từ này, xuất phát từ lâu lắm rồi, từ cái hồi ngũ cốc mọc ở thế giới bên ngoài, trải rộng đến mút tầm mắt...” gã quơ tay khắp sàn nhà như thể nó là một cánh đồng rộng lớn, “... hồi có nhiều người đến mức đếm không xuể, hồi mọi người đều có rất nhiều con.” Gã liếc lên nhìn cô. Gã chắp hai bàn tay lại, gần như thể xấu hổ khi nhắc đến chuyện sinh đẻ với một người phụ nữ.
“Họ trồng được rất nhiều đồ ăn,” gã nói tiếp, “đến mức bất kể có nhiều người như vậy, họ vẫn không thể ăn hết ngay lập tức được. Thế là họ cất đi đề phòng lúc sa cơ lỡ vận. Họ đem một lượng hạt ngũ cốc đếm không xuể đi đổ vào trong các tháp giống khổng lồ nằm trên mặt đất...”
“Trên mặt đất,” Juliette nói. “Các tháp giống.” Cô cảm thấy gã như đang bịa chuyện, như thể đây là một ảo tưởng gã đã tự nghĩ ra trong những thập kỷ cô độc.
“Tôi có thể cho cô xem ảnh,” gã bực bội nói, như thể phật ý vì bị cô nghi ngờ. Gã đứng dậy vội vã lại bên mấy cái kệ chứa hộp kim loại. Gã đọc mấy cái nhãn trắng nhỏ ở dưới đáy, miết ngón tay lên trên.
“A!” Gã vớ lấy một hộp - trông có vẻ nặng - và mang đến cho cô. Cái lẫy ở một bên giúp nắp mở ra, để lộ một vật dày bên trong.
“Để tôi,” gã nói, cho dù cô chưa nhúc nhích một thớ cơ nào nhằm giúp gã cả. Gã nghiêng hộp cho cái vật nặng kia rơi vào lòng bàn tay mình, giữ nó thăng bằng một cách thuần thục. Nó to ngang một cuốn sách trẻ con, nhưng dày gấp mười hay hai mươi lần. Dẫu vậy, nó vẫn cứ là một cuốn sách. Cô có thể nhìn thấy các mép giấy cắt mịn một cách kỳ diệu.
“Tôi sẽ tìm ra,” gã nói. Gã lật từng xấp trang lớn, mỗi lần giở là lại cả một mớ giấy nén chặt trị giá cả gia tài đập bộp vào một mớ gia tài khác. Thế rồi gã dần tìm một cách tỉ mỉ hơn, mỗi lần chỉ một nhúm, rồi tới giở từng trang một.
“Đây.” Gã đưa tay chỉ.
Juliette xích lại gần hơn nhìn. Giống như một bức vẽ, nhưng chính xác đến mức trông cứ như thật. Cứ như thể nhìn khung cảnh chiếu thế giới bên ngoài tại nhà ăn, hay ảnh khuôn mặt ai đó trên thẻ căn cước, chỉ có điều nó có màu. Cô băn khoăn cuốn sách này có lắp pin không.
“Nó trông thật quá,” cô thì thầm, đưa ngón tay mân mê nó.
“Nó là thật đấy,” gã nói. “Nó là một bức ảnh. Một hình chụp.”
Juliette trầm trồ quan sát các sắc màu, cánh đồng xanh mướt cùng với bầu trời trong xanh gợi cô nhớ đến những lời dối trá cô từng trông thấy qua các hình ảnh giả tạo trưng ra trên kính che mắt mũ bảo hộ. Cô tự hỏi có khi nào đây cũng là một thứ giả dối không. Trông không hề giống những bức ảnh thô và nhòe cô từng thấy.
“Những tòa nhà này...” gã chỉ vào những thứ trông giống như các lon trắng lớn nằm trên mặt đất, “... là các tháp giống. Chúng chứa hạt giống đề phòng lúc cơ nhỡ. Để ăn cho đến khi mọi sự lại trở nên tốt đẹp.”
Gã ngước lên nhìn cô. Juliette và gã chỉ cách nhau cỡ chục phân. Cô nhìn thấy những nếp nhăn quanh mắt gã, có thể thấy bộ râu đã che giấu tuổi của gã nhường nào.
“Tôi không rõ ý ông là gì,” cô bảo gã.
Gã chỉ vào cô. Chỉ vào ngực mình. “Chúng ta là hạt giống,” gã nói. “Đây là một tháp giống. Họ cho chúng ta vào đây đề phòng lúc cơ nhỡ.”
“Ai cơ? Ai cho chúng ta vào đây cơ? Và lúc cơ nhỡ nào?”
Gã nhún vai. “Nhưng sẽ vô dụng thôi.” Gã lắc đầu, sau đó ngồi lại xuống sàn nhà nhìn những bức ảnh trong cuốn sách khổng lồ. “Ta không thể cất hạt giống lâu đến thế này được,” gã nói. “Trong bóng tối như thế này thì không ổn. Không ổn đâu.”
Gã liếc lên khỏi cuốn sách và cắn môi, mắt ứa nước. “Hạt giống không hóa điên,” gã nói với cô. “Chúng không điên. Chúng có những ngày trái gió trở trời và rất nhiều ngày tốt đẹp, nhưng chuyện ấy không quan trọng. Nếu cứ cất chúng đi và bỏ mặc chúng, bất kể có chôn đi bao nhiêu hạt, thì chúng sẽ làm như mọi hạt giống vẫn làm khi bị bỏ mặc quá lâu...”
Gã dừng nói. Gấp cuốn sách lại và ấp nó vào ngực. Juliette nhìn gã khẽ đu đưa người tới lui.
“Các hạt giống sẽ làm gì khi bị bỏ mặc quá lâu?” cô hỏi gã.
Gã nhíu mày.
“Chúng ta thối rữa,” gã nói. “Tất cả chúng ta. Chúng ta hỏng đi ở dưới này, và chúng ta thối rữa đến mức sẽ không bao giờ mọc được nữa.” Gã chớp mắt và ngước lên nhìn cô. “Chúng ta sẽ không bao giờ mọc nữa.”