Y HỌC HỒI GIÁO
Thời kỳ mà lịch sử châu Âu gọi là thời Trung cổ tương ứng phần nào với Thời đại vàng son của Hồi giáo. Những mối tiếp xúc giữa thế giới Hồi giáo và phương Tây bắt đầu bằng sự xung đột và hiểu nhầm và kể từ đó đến nay những hình thức này vẫn còn tồn tại mãi. Thật vậy, một số học giả đã gọi quan niệm về Thời kỳ vàng son trong lịch sử Hồi giáo như là một huyền thoại được sử dụng nhằm dựng nên một ảo tưởng về một thế giới Hồi giáo đạt đến trình độ học vấn, văn hóa và tri thức mang tính hòa bình, đa văn hóa. Ngoảnh mặt không đếm xỉa đến văn hóa Hồi giáo rõ ràng là một mối nguy hiểm thường trực trong thế giới hiện đại khi cứ 5 người thì có một người theo đạo Hồi. Hồi giáo, do Muhammad (570-632) sáng lập, có ý nghĩa “là sự tuân phục vào ý chí hoặc luật lệ của Thượng đế”. Khi Muhammad được 40 tuổi, Người được kêu gọi nhận vai trò đấng Tiên tri và được mặc khải kinh Koran qua một loạt các ảo giác. Khi ngài mất, hầu như toàn bộ bán đảo Ả Rập đều theo đạo Hồi và một thế kỷ sau đó người Hồi giáo đã chinh phục một nửa của đế quốc Byzantium phần châu Á, toàn bộ xứ Ba Tư, Bắc Phi và Tây Ban Nha. Các tài liệu ban đầu của phương Tây về “nền y học xứ Ả Rập” đã phản ánh cái di sản xung đột hơn là một sự phân tích về y học Hồi giáo như là một thành phần của hệ thống tín ngưỡng và là một phương tiện để giải quyết vấn đề đau ốm nói chung. Đối với nhiều học giả châu Âu, thì nền y học Ả Rập chỉ có ý nghĩa khi nói về vai trò gìn giữ các tài liệu viết bằng chữ Hy Lạp trong suốt thời kỳ Đen tối của châu Âu. Trước tiên là, các văn bản và bản dịch tiếng Ả Rập được coi như là có công làm cho châu Âu biết đến Aristotle. Nền y học bán đảo Ả Rập được hiểu là đồng nghĩa với nền y học nói tiếng Ả Rập - tiếng Ả Rập là ngôn ngữ học thuật tại khắp các vùng nằm dưới sự kiểm soát Hồi giáo. Vì thế, các tài liệu bằng tiếng Ả Rập không nhất thiết phải do chính các tác giả Ả Rập viết; nhiều tác giả người Ba Tư, Do Thái và Cơ Đốc giáo đã tham gia vào công việc phát triển của tài liệu y học tiếng Ả Rập.
Các nguồn tài liệu văn bản dành cho việc nghiên cứu nền y học Hồi giáo cổ điển xuất phát từ một vùng địa lý trải dài từ Tây Ban Nha đến Ấn Độ và kéo dài khoảng 900 năm. Cũng giống như thuật ngữ y học Trung Quốc được sử dụng rộng rãi cho việc khi nói việc làm nghề y tại các quốc gia nằm trong vòng ảnh hưởng Trung Quốc, cho nên thuật ngữ “y học Hồi giáo” được sử dụng để chỉ đặt tên cho hệ thống các tư tưởng và thực hành được lan truyền rộng rãi cùng với công cuộc chinh phục của người Ả Rập. Nền y học Hồi giáo được đưa vào các nước Ả Rập vào thế kỷ thứ 9 và lên đến cực điểm trùng vào thời Trung cổ của châu Âu. Giống như nền y học Trung Quốc và y học Ayurvedic, nền y học Hồi giáo cũng được gọi là nền y học Hồi giáo-Hy Lạp, là một hệ thống sinh động vẫn còn được các thầy thuốc truyền thống nghiên cứu và chú mục thực hành.
Các thảo luận về những thành tựu của người Ả Rập về mặt khoa học, y học và triết học trước đây tập trung vào chỉ một câu hỏi: có phải người Ả Rập chỉ là người chuyển giao các thành tựu của người Hy Lạp hoặc chính họ có những đóng góp riêng biệt? Vấn đề tính riêng biệt này hiện nay được coi là không phù hợp khi áp dụng cho một thời kỳ mà sự tìm tòi về kiến thức khoa học thực nghiệm hầu như chưa hề được biết tới. Trong suốt thời kỳ Hoàng kim của nền y học Hồi giáo, các thầy thuốc, triết gia và các học giả khác chấp nhận công trình của người xưa là chân lý, là khuôn mẫu và là thẩm quyền cần phải phân tích, phát triển và bảo tồn. Do không có mối ràng buộc nào về giáo điều đặt lên hàng đầu tính độc đáo và tiến bộ, các học giả thời Trung cổ coi truyền thống như là một kho báu chứ không phải là một gánh nặng hoặc trở ngại. Giống như các đối tác của phương Tây theo Cơ Đốc giáo, các học giả trong thế giới Hồi giáo phải tìm ra một cách để chung sống hòa bình với các nhà lãnh đạo tôn giáo đầy quyền thế là những người lập luận rằng kiến thức chỉ có thể được truyền qua Đấng Tiên Tri Muhammad, các tín đồ thân cận của ngài và kinh Koran.
NỀN Y HỌC CỦA ĐẤNG TIÊN TRI
Những lời nhắc nhở về tầm quan trọng của sự khỏe và sự an lạc có thể tìm thấy trong kinh Koran và những lời giáo huấn khác từ Đấng Tiên Tri. Người Hồi giáo được dạy rằng kinh Koran được ban cho tín đồ như là “một quyển chỉ nam và là một thứ thuốc” và là một thang thuốc phục hồi cho cả sức khỏe thể chất và tinh thần. Theo nghĩa bóng, kinh Koran thực ra có thể sử dụng như một món thuốc bằng cách viết ra một đoạn văn trong kinh thánh trên một miếng vải, sau đó giặt sạch mực đi, và uống lấy nước giặt đó. Những đoạn liên quan đến tri thức y học trích trong Koran và những “lời dạy” của Đấng Tiên Tri được tập trung lại thành ra cái gọi là “nền y học của Đấng Tiên Tri”. Những lời dạy này phản ánh sự chấp nhận đối với nền y học Ả Rập truyền thống, nhưng sau này rõ ràng có sự thêm thắt những câu cách ngôn của các nhà chú giải. Một số các cách ngôn y học khuyến khích chăm sóc người ốm và đề ra những nguyên tắc chung về sức khỏe, còn những câu khác thì nói về những bệnh nhất định và các vấn đề sức khỏe nào đó và cách điều trị bằng thuốc hoặc bằng tinh thần.
Một trong những lời dạy của Đấng Tiên Tri được trích dẫn nhiều nhất là: “Bệnh nào cũng đều có cách chữa của Thượng đế”. Muhammad cũng được cho là đã nói rằng kiến thức có giá trị chỉ duy nhất có hai loại: “kiến thức về đức tin và kiến thức về cơ thể”. Ý kiến cho rằng stress sinh ra bệnh dường như nằm trong lời dạy là “lo lắng nhiều quá sẽ làm cho con người đổ bệnh”. Những lời dạy của Đấng Tiên Tri định hướng về truyền thống và đạo đức y học, cách an ủi người ốm, ánh mắt độc hại, ma thuật, bùa mê và những lời cầu nguyện được che chở. Một số tín đồ Hồi giáo chính thống cho rằng nền y học của Đấng Tiên Tri hơn hẳn nền y học thế tục trong nội dung chăm sóc thể chất và tinh thần.
Nhiều lời dạy của Đấng Tiên Tri về y học bàn về cách ăn uống hợp lý để phòng ngừa bệnh tật. Những lời dạy khác nhắc đến mối liên hệ giữa đau khổ và tội lỗi. Muhammad tuyên bố “Kẻ ngoan đạo sẽ không chịu khổ ải vì bệnh tật hoặc thậm chí một cây gai đâm vào da để chuộc lấy tội lỗi của mình”. Tuy nhiên, lại có lời hứa hẹn cho rằng bệnh tật và khổ ải cũng là sự tưởng thưởng mang ý nghĩa tôn giáo, bởi vì Muhammad hứa hẹn “ai mà chết trên giường bệnh, tức là chịu cái chết của kẻ tử vì đạo”. Một lời dạy khác có hứa phụ nữ nào chết vì sinh nở được xếp ngang hàng với kẻ tử đạo. Muhammad nhắc tới những nguyên nhân tự nhiên gây bệnh tật, các tác dụng tự nhiên của các liệu pháp bằng thuốc, và những khía cạnh thần thánh hoặc siêu nhiên của bệnh tật. Khi Thượng đế giáng bất hạnh hoặc bệnh tật để thử thách, thì người mộ đạo có thể lấy được ơn phước tôn giáo khi nhẫn nhục cam chịu thử thách. Nhiều đoạn văn trong kinh gợi ý là người ốm nên chịu đựng sự đau đớn và chỉ gọi bác sĩ khi không còn sức chịu đựng nữa. Vì thế, trong khi nền y học tự nhiên không bị cấm đoán, một số nhà lãnh đạo tôn giáo lại chống đối và cố chấp đối với các nghiên cứu thế tục, nói chung, và y học nói riêng. Các lãnh đạo tôn giáo theo chủ trương truyền thống, muốn duy trì các phong tục bản địa, đã chống trả sự xâm nhập các tư tưởng Hy Lạp bằng cách gán những tín niệm truyền thống cho Đấng Tiên Tri. Trong khi nền y học Ả Rập dưới thời Muhammad chủ yếu chỉ là y học dân gian của người Bedouin, thì một số thầy thuốc - học giả của thời kỳ này đã làm quen với những nguyên tắc của nền y học Hy Lạp và Ấn Độ và có lẽ cũng đã thành công khi gán những thứ thuốc này cho Muhammad.
Một số nhà thần học biện giải cho sự chấp nhận nền y học Hy Lạp khi nhắc cho các tín đồ biết rằng chính Đấng Tiên Tri chỉ dạy riêng về Luật thánh chứ không phải về y học hoặc những vấn đề cụ thể. Vì thế, những ẩn dụ của Người khi nói đến y học đều không có trong sự mặc khải, nhưng đó chỉ là sự đề cập tình cờ đối với các bài thuốc dân gian truyền thống, chẳng hạn như dùng cây lá móng (henna) điều trị bệnh gút, nước tiểu lạc đà để chữa bệnh dạ dày, và antimony điều trị bệnh về mắt. Những kiến thức dân gian này đã có trước thời kỳ Hồi giáo và cũng chẳng có tính tôn giáo hay khoa học gì cả. Ngược lại, nếu người Hồi giáo sử dụng những món thuốc cổ truyền như mật ong, thứ này cho tác dụng tốt là do sức mạnh của lòng tin bởi vì Muhammad đã gọi mật ong là thứ thực phẩm phục hồi sức khỏe.
Hình
Các dạng bào chế dược học.
Mặc dù Đấng Tiên Tri nhất trí khuyên dùng cách giác lể và sử dụng mật ong để điều trị một vài chứng bệnh, nhưng thái độ của Người không rõ ràng đối với việc đốt mô. Trong một số tình huống, Muhammad ra lệnh sử dụng cách đốt mô và thậm chí còn điều trị cho một số tùy tòng bị thương bằng cách đốt mô, nhưng trong khi thừa nhận rằng cách đốt mô có thể phục hồi được sức khỏe, người ta lại nói Ngài lại ra lệnh cấm không được dùng. Để hợp lý hóa việc đốt mô, các nhà biện giải lý luận rằng sự cấm đoán chỉ nhằm vào các thầy thuốc ba hoa cho rằng việc đốt mô là một biện pháp hoàn toàn hiệu quả. Các thầy thuốc được yêu cầu phải nói là tất cả các bài thuốc chỉ tác dụng theo ý muốn của Thượng đế. Muhammad cấm không được dùng bùa chú để khẩn cầu các tác nhân siêu nhiên, nhưng Người lại cho phép sử dụng những tác nhân mà thành phần phù hợp với những lời dạy bảo trong kinh Koran.
Qua thời gian, những quyển sách về “Y học của Đấng Tiên Tri” được các nhà thần học và tôn giáo biên soạn với hy vọng chống trả ảnh hưởng đang lên của nền y học Hy Lạp. Tuy nhiên, nền triết học, khoa học và y học Hy Lạp dần dần lôi cuốn các thầy thuốc và học giả Hồi giáo, dẫn đến sự hình thành một hệ thống y học Hy Lạp- Ả Rập biến thể về sau tiếp tục phát triển thành nền y học Ả Rập - Hy Lạp (yunani medicine). Tìm được một phương tiện để minh chứng là nền y học này có tính khoa học, thậm chí tính thế tục nữa quả là một thách thức đối với các học giả Hồi giáo, không kém các học giả Cơ Đốc là mấy về mặt này. Nếu giá trị của nền y học này chấp nhận rộng rãi, thì một số nhà thần học lại tố cáo các bác sĩ là đã làm cho người dân nhầm lẫn thứ bậc ưu tiên khi khuyến khích họ đặt sức khỏe vật chất trước các giá trị tôn giáo.
Tuy nhiên, nền y học Đấng Tiên Tri, dù nhiều điều giải thích không rõ ràng, đã chỉ rõ rằng “sau đức tin, thì nghệ thuật và sự thực hành y học là công việc đáng tưởng thưởng nhất dưới mắt Thượng đế”. Nhiều tác giả y học chứng minh việc nghiên cứu và thực hành y học là một hình thức phục vụ tôn giáo làm hài lòng Thượng đế, miễn là việc này làm vơi đi sự thống khổ của con người mà vẫn thừa nhận vị trí hàng đầu của đức tin. Vào khoảng thế kỷ thứ 7, dưới sự lãnh đạo của 4 vị Caliph (người kế nghiệp Đấng Tiên Tri) đầu tiên, người Ả Rập đã hoàn thành việc chinh phục Syria, Ba Tư và Ai Cập và bắt đầu công cuộc đồng hóa nền triết học, khoa học và y học Hy Lạp vào văn hóa Hồi giáo. Vì thế, các học giả Ả Rập có sẵn trong tay nhiều nguồn học vấn. Muhammad đã từng nói “Hãy đi tìm kiến thức dù phải đến Trung Quốc”, nhưng chính thành phố Jundi Shapur tại Ba Tư đóng vai trò một trung tâm hấp dẫn tri thức đầu tiên dành cho các học giả Hồi giáo. Thành phố cổ này là điểm hội tụ hòa bình và khoan dung duy nhất dành cho việc nghiên cứu các truyền thống y học và triết học của người Ba Tư, Ấn Độ, người theo Cảnh Giáo (Nestorians), Bái Hỏa Giáo (Zoroastrians), Do Thái và Hy Lạp. Các học giả tại Jundi Shapur bắt đầu một công việc khổng lồ là tập hợp và dịch các văn bản Hy Lạp trong đó có các tác phẩm của Hippocrates và Galen.
Sau khi các Caliph dòng Abbasid thắng trận vào năm 750 và xây dựng Baghdad thành thủ đô của đế quốc Hồi giáo, việc Hy Lạp hóa nền văn hóa Hồi giáo nhanh chóng tăng tốc, Baghdah và Cairo trở thành các trung tâm học thuật độc lập. Thư viện được xây dựng tại Cairo năm 988 tàng trữ trên một trăm ngàn bộ sách. Khi người Mông Cổ chinh phục Baghdad năm 1258, họ đã tàn phá các thư viện của thành phố này. Số lượng bản thảo bị ném xuống sông Tigris, theo một người ghi nhận, nhiều đến nỗi sông này có màu đen, màu đỏ, màu xanh vì mực. Một nhà chép biên niên khác nói rằng dòng sông đầy nghẹt các bản thảo đến mức có thể bước lên đó mà đi qua sông được.
Tại một trường dịch thuật được xây dựng dưới triều đại của Caliph Al-Ma’mun (813-833), nhiều công trình triết học và y học của Galen được dịch sang tiếng Ả Rập. Một trong những dịch giả quan trọng nhất là Hunayn Ibn Ishaq (809-875), người dân Baghdad thường nghe học giả này đọc thơ của Homer bằng tiếng Hy Lạp khi ông ta đi dạo trên các đường phố ở đây. Hunayn dịch các công trình của Galen, Hippocrates, Dioscorides và soạn ra các bài tóm tắt, bình luận và sách hướng dẫn cho sinh viên y khoa. Phiên bản cổ của dạng “bộ đề” rất phổ biến cho sinh viên mọi thời cũng là một thể loại phổ biến đối với các học giả Ả Rập, đến nay còn tìm thấy hàng trăm cuốn.