BỆNH VIỆN VÀ Y HỌC LÂM SÀNG
Một số yếu tố trong thần học Hồi giáo, nhất là lời kêu gọi hoàn toàn quy phục theo ý muốn của Thượng đế, có lẽ đã kiềm chế tín đồ không mạnh dạn tìm kiếm các sáng kiến về y tế công cộng. Mặt khác, Muhammad cho là cần thiết phải đi thăm người ốm để mang lại cho họ sự an ủi, hy vọng và lời khuyên bảo. Thái độ làm gương này được coi là nguồn cảm hứng cho việc xây dựng các cơ sở từ thiện chẳng hạn như bệnh viện, nhà tế bần, các trung tâm tôn giáo và các cơ sở giáo dục. Sự hỗ trợ tài chính được luật tôn giáo khuyến khích hoặc yêu cầu. Chúng ta không biết nhiều về các bệnh viện Hồi giáo lúc đầu tiên như thế nào, nhưng ý kiến chung là những cơ sở như thế được thành lập vào đầu thế kỷ thứ 8. Một số rõ ràng là rập theo khuôn mẫu trường học và bệnh viện của thành phố Jundi Shapur, nhưng những cái khác thì đóng vai trò chuyên biệt hơn, chẳng hạn như để cô lập người hủi hoặc để chăm sóc người mù và người tàn tật. Các sự nghiệp từ thiện khác như tổ chức các toán thầy thuốc và nhân viên y tế nữ đi thăm người ốm trong các nhà tù và các bệnh xá lưu động đến phục vụ vùng thôn quê.
Các tài liệu chi tiết được các nhà lâm sàng tại nhiều bệnh viện Hồi giáo biên soạn dưới một hình thức gọi là “cách điều trị dựa trên làm đi làm lại”. Những tài liệu này có vai trò quan trọng giúp cho các bệnh viện lớn đảm nhận nhiều hơn việc giáo dục y khoa và nghiên cứu lâm sàng. Học trò đến học đông là nhờ chính tiếng tăm của các hiền giả và sư phụ ngành y hơn là danh tiếng của bệnh viện. Hơn thế nữa, chính thầy giáo chứ không phải cơ sở y tế, mới cấp chứng nhận đã học xong về lý thuyết và thực hành cho học viên. Một người học trò cần mẫn có thể đi đến nhiều đô thị khác nhau để học một lĩnh vực đặc biệt nào đó với các đại sư danh tiếng. Phụ nữ được các thầy giáo tư nhân kèm riêng, có thể làm đảm nhiệm vai trò điều dưỡng, nữ hộ sinh và thầy thuốc phụ khoa.
Một vụ tai tiếng liên quan đến cái chết của một bệnh nhân tại một bệnh viện ở Baghdad năm 931 được coi như là nguyên nhân thúc đẩy việc xây dựng một hệ thống chính quy hơn để kiểm tra các thầy thuốc. Báo cáo về kết quả việc kiểm tra này cho thấy 169 trong số 860 thầy thuốc hành nghề tại Baghdad không đạt yêu cầu. Việc kiểm tra chính quy các dược sĩ bắt đầu vào thế kỷ thứ 9. Các quy định và luật lệ thay đổi rất nhiều tùy theo thời gian và không gian trong khắp thế giới Hồi giáo. Nhằm đáp ứng với tình trạng cho rằng chất lượng của các thầy thuốc không được quản lý, có nhiều cẩm nang dành cho người bình dân mách phương pháp làm thế nào kiểm tra chất lượng bác sĩ nhằm phân biệt thầy thuốc chân chính với lang băm. Những câu chuyện nói về cách thức bệnh nhân kiểm tra trình độ bác sĩ lúc nào cũng lôi cuốn. Một ví dụ nổi tiếng là có một người đem nước tiểu của một con lừa đến thầy thuốc của mình và nói đó là nước tiểu của một nữ nô lệ xinh đẹp. Người thầy thuốc khôn ngoan đáp rằng cô gái chắc bị quỷ ám, bởi vì chỉ có con lừa mới tiểu ra như thế. Khi người thầy thuốc đưa ra cách chữa trị phù hợp là cho nó ăn lúa mạch no nê, ông ta được bổ nhiệm làm y sĩ chính của vị Caliph.
Khi các cơ sở giáo dục tôn giáo gọi là madrasa ra đời, các ngành học về y học trở thành một phần tùy chọn của chương trình đào tạo. Vào thế kỷ thứ 13, sinh viên tại một số trong các cơ sở trên có thể đi chuyên về tôn giáo hoặc khoa học tự nhiên. Nhiều thầy thuốc than phiền rằng các chuẩn mực của việc đào tạo và thực hành y học bị xuống cấp bởi vì các bệnh viện đào tạo bị thay thế bằng các cơ sở tôn giáo, tại đây thần học và giáo luật làm lu mờ y học và khoa học.
Một số bác sĩ nổi danh là nhờ số tài sản khổng lồ mà họ kiếm được, một số khác được người đời nhớ đến qua việc xây dựng bệnh viện và các bệnh xá từ thiện. Đa số các chuyên gia về đạo đức y học lập luận rằng nên thu tiền khi chăm sóc người bệnh. Người thầy thuốc phải kiếm ra đủ tiền để nuôi dạy và cưới vợ gả chồng cho con cái của mình, mà không cần phải nhúng tay vào những việc làm ảnh hưởng đến việc nghiên cứu y học. Vì thế, điều quan trọng là người giàu có phải trả nhiều tiền để người thầy thuốc có điều kiện chăm sóc người nghèo miễn phí. Mình vận quần áo trắng, có áo khoác, với chiếc khăn thầy thuốc quấn trên đầu, tay cầm gậy bịt bạc, người xức nước hoa hồng, long não và trầm, người thầy thuốc là một khuôn mặt đầy ấn tượng. Tuy nhiên, mặc dù các thầy thuốc học giả dành được sự trọng vọng, nhưng những mối nghi ngờ về các thầy thuốc vẫn còn nhiều. Trong nhiều câu chuyện dân gian, con quỷ hiện hình dưới lốt thầy thuốc, hoặc là thầy thuốc làm chết người bệnh vì dốt nát hoặc phản bội. Trong một câu chuyện như thế, một vị thầy thuốc ám sát bệnh nhân bằng cách bôi thuốc độc vào mũi dao chích máu. Nhiều tháng sau đó, chính bản thân ông thầy này cũng cần trích máu, ngẫu nhiên ông ta lại dùng con dao đã tẩm độc. Một thầy thuốc nổi tiếng khác cho thấy rằng ông ta đã làm điều ngớ ngẩn khi tự điều trị bệnh phù chân voi bằng cách cho mấy con rắn lục đói cắn vào mình. Nọc độc làm xẹp phù chân voi, nhưng lại gây nên phong cùi, điếc tai và mù mắt. Thái độ đối với các thầy thuốc kiểu như thế này vẫn còn thấy rõ trong tự sự của Jehangir, con của Đại đế Akbar (1542-1605). Sau khi mô tả nhà vua Akbar già yếu đã chịu đựng như thế nào cách điều trị đã khiến cho con bệnh hết đi từ tiêu chảy sang kiết lỵ, từ kiết lỵ sang táo bón rồi từ táo bón sang tiêu chảy và cuối cùng tử vong, Jehangir kết luận rằng nếu không do ý của Thượng đế và sai lầm của thầy thuốc thì chẳng có ai đến nỗi phải chết cả.
CÁC BẬC THẦY CỦA NỀN Y HỌC HỒI GIÁO
Mặc dù các thầy thuốc thời Trung cổ, dù đó là Hồi giáo, Do Thái hoặc Cơ Đốc, thường nhận định rằng trường phái Galen là một hệ thống hoàn hảo và đầy đủ, các bậc thầy của nền y học Hồi giáo chỉ quan tâm đến những thứ thuộc chính họ, không phải chỉ riêng về vai trò của họ trong việc gìn giữ nền y học cổ điển. Bản dịch Latin công trình của một số tác giả, bao gồm Rhazes, Avicenna, Albucasis, và Averroes, tuy tạo ra ảnh hưởng rất lớn tại châu Âu, nhưng công trình bằng tiếng Ả Rập của nhiều học giả khác lại giữ một vị trí trong thế giới Hồi giáo mà tại phương Tây không tìm thấy sự tương đương. Một số thầy thuốc Hồi giáo, chẳng hạn như Geber thần bí (Jabir ibn Hayyan, 721 - khoảng 815), được biết nhiều hơn dưới các danh hiệu là nhà giả kim và triết gia. Averroes (1126-1198; Abu’al-Walid Muhammad ibn Ahmad ibn Muhammad ibn Rushd) được biết nhiều nhờ công trình chú giải về Aristotle, và ông này dành nhiều thì giờ nghiên cứu về y học và pháp luật. Tiếng tăm về tính duy lý và lòng mộ đạo của bậc trí giả này dựa trên tư tưởng của mình về bản chất của tri thức con người và sự liên hệ giữa triết học và tôn giáo.
Rhazes (khoảng 864 - khoảng 925; al-Razi; Abu Bakr Muhammad’ibn Zakariya ya-Razi) được coi như là thầy thuốc vĩ đại nhất của thế giới Hồi giáo. Các nhà viết tiểu sử của Rhazes kể rằng khi trở thành giám đốc của bệnh viện lớn đầu tiên tại Baghdad, ông ta đã chọn được vị trí thuận lợi cho sức khỏe nhất bằng cách treo nhiều miếng thịt tại nhiều vị trí dự kiến và tìm ra vị trí thích hợp nhất là nơi ít bị thối rữa nhất. Làm việc không hề biết mệt mỏi, Rhazes là tác giả của ít nhất 200 chuyên luận về y học và triết học trong đó có cả kiệt tác bậc thầy hoàn tất, Continens, hoặc Y học toàn tập. Continens được thầy thuốc Do Thái tên là Faraj ibn Salim (còn gọi là Farragut theo tiếng Latin) dịch ra tiếng Latin để trình cho vua Charles xứ Anjou. Tác phẩm hoàn tất năm 1279 và cuối cùng được in ra năm 1486. Bản in cân nặng hơn 10kg.
Các nhận định về sự căng thẳng giữa tư tưởng tôn giáo chính thống và triết học trong thế giới Hồi giáo có thể tìm thấy trong tác phẩm “Ứng xử của một triết gia” do Rhazes viết ra để chống trả những sự công kích nhắm vào sự ứng xử của cá nhân ông ta. Để trả lời những tố cáo là mình quá đắm mình vào các lạc thú trần thế, Rhazes cho rằng ông luôn luôn vừa phải trong mọi thứ trừ việc ham học hỏi và viết sách. Theo tính toán của chính mình, thì Rhazes đã viết trên 20.000 trang giấy trong một năm. Mặc dù Rhazes dạy rằng con đường hợp lý nhất là con đường nằm giữa hai thái cực khắc khổ và buông thả, nhưng ông cũng thú nhận rằng do dành quá nhiều thời gian để làm việc và viết lách cho nên đôi mắt và bàn tay của ông bị tổn thương nặng.
Tất cả các tài liệu về mặt tiểu sử đều nhất trí là Rhazes bị mù trong những năm cuối đời và ông từ chối không muốn chữa trị vì lẽ đã quá mệt mỏi để nhìn cuộc đời và không muốn trải qua thử thách phẫu thuật. Cuối cùng, các nhà viết tiểu sử thừa nhận một câu chuyện tuy không đúng nhưng lại ly kỳ về lý do Rhazes bị mù là do nhà bảo trợ al-Mansur cầm một trong những quyển sách của chính Rhazes và phang vào đầu ông này để trừng phạt vì đã không làm được một phản ứng giả kim thuật. Có khả năng tài liệu nói đến trong việc trừng phạt trên là một chuyên luận nhỏ về giả kim thuật, vì nếu lấy bộ Continens mà đánh thì thương tổn chắc hẳn có khả năng gây tử vong.
Những bệnh sử do Rhazes soạn thảo giúp chúng ta nắm được tầm vóc các lý do bệnh tật mà người đương thời với ông đến tìm thầy thuốc, cùng với các dấu hiệu và triệu chứng mà người thầy thuốc cho rằng có ý nghĩa, điều trị như thế nào, nghề nghiệp và hoàn cảnh gia đình của bệnh nhân, và mối liên hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc. Do thầy thuốc có những nghĩa vụ nghề nghiệp đối với bệnh nhân, thì bệnh nhân cũng có trách nhiệm đạo lý phải tin tưởng và hợp tác với thầy thuốc. Theo Rhazes, điều quan trọng nhất là bệnh nhân phải theo lời khuyên của thầy thuốc. Rhazes hứa hẹn “Nếu thầy thuốc thông thái và bệnh nhân vâng lời, thì bệnh sẽ sớm lui đi”. Rủi thay, không phải bệnh nhân nào cũng vâng lời và thầy thuốc nào cũng thông thái hoặc đủ năng lực. Rhazes đã từng gặp những kẻ mạo danh cho rằng có thể chữa được bệnh động kinh bằng cách rạch một đường vào phần sau gáy rồi giả vờ lấy sỏi hay cục máu đông gì đó. Những tay lang băm khác giả vờ móc được rắn từ mũi, sâu từ tai hoặc răng, ếch ở dưới lưỡi bệnh nhân, xương từ các vết thương và chỗ loét.
Đối với các bệnh nhân giàu có và thế lực, Rhazes thường tỏ ra khéo léo và đôi khi còn liều lĩnh nữa. Khi al - Mansur dường như mắc một chứng bệnh khó chữa, gây khó khăn cho việc đi lại, trước khi bắt tay vào chữa trị, Rhazes xin người bệnh này cấp cho ngựa và lừa tốt nhất. Ngày hôm sau, Rhazes cho al-Mansur tắm nước nóng trong khi xử trí nhiều thứ thuốc cho người bệnh. Bất thình lình, Rhazes rút dao ra hăm dọa và chửi bới bệnh nhân. Nổi khùng, al-Mansur bò ra khỏi bồn tắm, nhưng lúc này Rhazes đã chạy ra ngoài, với tên đầy tớ dắt ngựa và lừa chờ sẵn. Sau đó, Rhazes gởi cho al-Mansur một lá thư giải thích sở dĩ ông ta chọc tức al-Mansur là để làm cho sự giận dữ và sợ hãi của ông này bị kích thích từ đó thúc mạnh được cái chất nhiệt bên trong nổi lên khiến cho bệnh hết ngay. Khỏi bệnh và nguôi giận, al-Mansur ban thưởng Rhazes rất nhiều quà cáp.
Một trong những ca bệnh của Rhazes dường như là mô tả đầu tiên đề cập tới “sốt hoa hồng” (rose-fever), ở đây ta dùng một thuật ngữ được chấp nhận vào thế kỷ thứ 19. Rhazes nhận thấy một trong các bệnh nhân của mình dường như cứ đến mùa xuân là bị chảy nước mũi. Tin rằng vấn đề này là do hương của hoa hồng, Rhazes khuyên bệnh nhân nên tránh những thứ có mùi thơm như hoa hồng, cây cỏ, hành và tỏi. Nếu các triệu chứng trở nên quá khó chịu, thì ông khuyên nên làm giác hút vào cổ và trích máu các động mạch ở thái dương.
Quyển sách của Rhazes về “Bệnh đậu mùa và bệnh sởi” cho ta các thông tin có giá trị về chẩn đoán, điều trị và quan niệm về những bệnh này. Theo các bậc tiền bối, thì bệnh thường được định nghĩa theo các triệu chứng chẳng hạn như sốt, tiêu chảy, thương tổn ngoài da và v.v... Vì vậy, chuyên luận của Rhazes về bệnh đậu mùa và bệnh sởi là một điểm nhấn lớn trong việc xây dựng quan niệm về các thực thể bệnh riêng biệt. Theo Rhazes, bệnh đậu mùa là do thừa hưởng những chất không tinh khiết từ máu mẹ trong thời gian mang thai. Khi đứa bé đến tuổi dậy thì, thì những chất tạp này nổi lên như thể rượu vang lên men. Vấn đề này rất phổ biến, cho nên ít có đứa trẻ nào tránh khỏi không bị mắc bệnh. Bệnh sởi, mà Rhazes xem là một bệnh riêng biệt, chính là do máu đen như mật, nhưng ngay cả một thầy thuốc già dặn cũng khó khăn khi phân biệt giữa bệnh đậu mùa và bệnh sởi. Để bảo vệ danh tiếng của mình, người thầy thuốc nên chờ đến khi bản chất của bệnh trở nên rõ ràng mới đưa ra chẩn đoán. Việc xử lý đúng cách trước khi bệnh đậu mùa khởi phát có thể làm dịu đi độc lực của bệnh và ngăn ngừa được mù mắt, nhưng khi bệnh đã lộ, thì thầy thuốc nên tạo điều kiện để cho ban lộ ra bằng cách quấn chăn, chà xát, xông hơi, xổ, và trích huyết và các biện pháp cẩn trọng đặc biệt để ngăn ngừa mù mắt. Theo Rhazes, bệnh nhân sẽ chết nếu mụn mủ trở nên cứng và có cồi thay vì xẹp xuống theo thông thường. Nhiều bài thuốc được cho là có thể làm mất sẹo rỗ, nhưng các vết sẹo trái trời dường như chỗ nào cũng có đã chứng tỏ rằng những bài thuốc đó - bao gồm nào là phân cừu, dấm, dầu mè, và dịch lấy từ móng của một con cừu đực bị nướng - đều nhằm tác dụng giống như các thứ kem xóa vết nhăn hiện nay. Thực ra, một khi bệnh đậu mùa xảy ra, thuốc men chẳng làm thay đổi mấy diễn tiến của bệnh, nếu không nói là làm xấu hơn, nhưng một chế độ điều trị tỉ mẩn sẽ làm cho thầy thuốc và bệnh nhân cái cảm giác an ủi, an tâm và hy vọng.
Ông hoàng của ngành y Hồi giáo, Avicenna (980-1037; Abu Ali Hysayn ibn Abdullah ibn Sina), là học giả đầu tiên đã xây dựng nên một hệ thống triết học đầy đủ bằng tiếng Ả Rập. Nhiều nhà phê bình than phiền rằng ảnh hưởng của ông đã ngăn cản sự phát triển, bởi vì không có thầy thuốc nào đủ sức thách thức bậc sư phụ về các môn triết học, khoa học tự nhiên và y học. Theo tiểu sử Avicenna, khi mới chỉ 10 tuổi, ông đã làm cho cha ông và các thầy giáo kinh ngạc vì đã thông thạo kinh Koran. Sau khi qua mặt các thầy giáo về môn luật học và triết học, học giả trẻ tuổi này chuyển sang các khoa học tự nhiên và chẳng bao lâu ông ta dạy y học cho các thầy thuốc đã hành nghề. Tuy nhiên, khi Avicenna bắt đầu nghiên cứu y học lâm sàng, ông ta nhận thấy rằng có một số việc chỉ có thể học qua kinh nghiệm chứ không phải theo sách vở. Về sau, Avicenna ngày thì chăm sóc các ông chủ giàu có, đêm đến thì miệt mài dạy dỗ sinh viên, đọc cho người chép sách và uống rượu. Điều độ chắc hẳn không phải là một trong những đức tính của Avicenna. Dần dà, rượu, đàn bà và công việc đã làm ông ta kiệt sức. Không muốn chờ đợi để sức khỏe hồi phục dần, ông ta thử một cách điều trị táo bạo là uống thuốc để xổ 8 lần một ngày. Liệu pháp này gây loét, co giật, đau bụng quặn và rất mệt. Khi sức lực cùng kiệt, ông ta không thèm điều trị gì cả và sau đó là chết. Các đối thủ của ông cho rằng thực ra ông ta chết vì dùng quá nhiều thuốc phiện. Kẻ thù của ông hả hê vì học vấn y khoa của ông không cứu được cuộc sống và môn siêu hình học không cứu được linh hồn của chính ông.
Trước tác y học lớn nhất của Avicenna, bộ Canon, được viết dành cho thầy thuốc, nhưng bản rút ngắn tên là “Bài thơ về Y học” có vai trò như một phần giới thiệu thông thường về học thuyết y học. Lấy bộ Canon của Avicenna làm kim chỉ nam, các thầy thuốc truyền thống vẫn còn chẩn đoán bệnh tật qua cách bắt mạch và quan sát nước tiểu, đã chữa được những bệnh mà y học phương Tây không thể định danh, đã an ủi bệnh nhân khi giải thích thỏa đáng về tình trạng bệnh của họ, và chăm sóc những người không chấp nhận và không thể kham nỗi các phương pháp điều trị tâm lý hiện đại. Các đồ đệ của Avicenna học cách tìm các manh mối chẩn đoán nằm trong kích thước, độ mạnh, độ nhanh, tính dẻo dai, tính đầy đặn, tính đều đặn và nhịp của mạch và màu sắc, mật độ, độ trong, độ đục, cặn lắng, số lượng, mùi, và độ lên bọt của các mẫu nước tiểu. Khi đưa ra được chẩn đoán, người thầy thuốc có thể tìm nhiều lời khuyên thực tiễn trong các công trình của Avicenna để điều trị bệnh tật và duy trì sức khỏe cho người bệnh của mình trong các điều kiện khác nhau. Lấy ví dụ, để làm bớt ngứa khi bị rận đốt, người du hành nên lấy một mảnh len có nhúng thủy ngân chà lên cơ thể và sau đó quấn mảnh này lên cổ - hơi giống như một vòng cổ trừ bọ chét- cho tới khi nào có điều kiện tiêu diệt loài sâu bọ này.
Hình thành một chế độ chăm sóc thích hợp khi còn ấu thơ tức là tạo cơ sở cho một kế hoạch bảo vệ tốt sức khỏe cho cả đời. Phần lớn những lời khuyên của Avicenna về chăm sóc nhũ nhi dường như đều hợp lý, trừ cách chữa trị cho phụ nữ không có đủ sữa như hàng ngày uống một lượng kiến trắng hoặc con giun đất phơi khô với nước lúa mạch. Bệnh nhân lớn tuổi cần có một chế độ điều trị trong đó nhấn mạnh đến các biện pháp làm ẩm da và làm ấm chẳng hạn như tắm bằng dầu olive. Trong điều trị đau khớp nặng nếu lấy dầu nấu với một con chồn hoặc con thằn lằn thì sẽ cho hiệu quả cao hơn là chỉ có dầu. Người thầy thuốc phải khéo léo khi đánh giá chất lượng của nước, bởi vì nước bẩn sẽ gây ra nhiều chứng bệnh, chẳng hạn như lách to, táo bón, trĩ, tiêu chảy và mất trí. Nước có chứa các kim loại và nước chứa con đỉa đều nguy hiểm, nhưng Avicenna ghi nhận rằng nước chứa chất sắt sẽ làm tốt cho các nội tạng, ngưng tiêu chảy và kích thích các cơ quan tình dục.
Những bài bình luận xuất sắc về các nguyên lý triết học của y học và mối liên hệ giữa tinh thần và cơ thể được đan xen trong các bệnh án của Avicenna. Giống như Erasistratus, Avicenna đã trình bày bằng cách nào mà các hiện tượng sinh lý học đã che giấu những tư tưởng thầm kín của chúng ta khi lấy mạch làm công cụ phát hiện nói dối. Khi điều trị một ca bệnh thất tình, Avicenna đã kín đáo đặt ngón tay của mình lên cổ tay người bệnh và phát hiện ngay mạch đập không đều khi tên người yêu của bệnh nhân được nhắc tới. Một ca bệnh khác đầy thách đố liên quan đến một thanh niên bị chứng u sầu và cứ ảo tưởng cho mình là một con bò cái. Anh chàng này rống lên ầm ầm, không chịu ăn và cứ đòi đưa đi giết thịt để làm món thịt hầm. Bệnh nhân hớn hở tức thì khi Avicenna báo cho biết là tay đồ tể sắp tới để giết thịt anh ta. Avicenna bước vào phòng của người bệnh, tay cầm dao phay và hỏi con bò cái ở đâu. Khi bị cột tay chân lại, chàng trai trẻ này rống lên vui vẻ, nhưng sau khi xem xét kỹ lưỡng, Avicenna tuyên bố rằng con bò này ốm quá nên không giết thịt được. Người bệnh sau đó ra sức ăn uống cho nên chẳng bao lâu sức khỏe phục hồi và ảo tưởng cũng không còn nữa.
Avicenna mong muốn các thầy thuốc thành thạo các kỹ thuật mổ xẻ để chữa nhiều vết thương và thương tổn. Mặc dù người thầy thuốc có thể kê thuốc làm giảm đau trước khi mổ, nhưng cũng phải cột bệnh nhân lại và có phụ tá của phẫu thuật viên giữ chặt. Sau khi mổ, vết thương được rửa bằng nước ấm, dấm hoặc rượu vang. Tuy nhiên, cũng thường xuyên xảy ra nhiễm trùng hậu phẫu đến nỗi trong tiếng Ba Tư chữ vết thương cũng có nghĩa là mủ.
Một sách hướng dẫn chuyên môn sâu hơn về phẫu thuật do Albucasis (936-1013; Abu ‘l-Qasim Khalaf ibn ‘Abbas al-Zahrawi) viết, ông này là một người tu khổ hạnh dành nhiều thời gian để giúp người nghèo. Tuy nhiên, Albucasis đưa ra lời khuyên thực tiễn và khắt khe cho các đồng nghiệp. Theo Albucasis, một người thầy thuốc khôn ngoan phải giữ tiếng tăm của mình bằng cách nhận ra bệnh nào không thể chữa được và giao phó những ca này cho các đấng thánh thần. Tuy nhiên, qua cách chọn lựa chủ đề chính chứng minh, Albucasis rất muốn xử lý những trường hợp nguy hiểm. Tác phẩm “Bàn về phẫu thuật và các dụng cụ phẫu thuật” của ông là một trong những chuyên luận toàn diện có minh họa nói về chủ đề quan trọng này. Trích huyết, giác hút và đốt mô là những hình thức thực hành phẫu thuật vào thời đó. Quyển “Bàn về Phẫu thuật và chuyên luận của Rhazes về bệnh đậu mùa” nằm trong số những tác phẩm tiếng Ả Rập cổ điển xưa nhất được in tại nước Anh. Khi bàn về việc sử dụng cách đốt mô “từ đầu đến chân”, Albucasis ca tụng cách đốt mô như là một công cụ có thể áp dụng rộng rãi cho mọi tình huống bệnh tật dù đó là bệnh của cơ quan hoặc thuộc về chức năng. Tuy mộ đạo, nhưng rõ ràng là Albucasis không bị vướng víu bởi những quan điểm không nhất quán của Đấng Tiên Tri về việc sử dụng cách đốt mô. Ông ta cho phép dùng cách đốt mô để cầm máu, ngăn ngừa không cho lan rộng các thương tổn gây hủy hoại, củng cố các cơ quan bị lạnh về mặt tính khí, và loại bỏ chất sinh ra mủ.
Để chống lại sự ẩm ướt và lạnh lẽo quá mức của não bộ, đốt mô chữa được các rối loạn như nhức đầu, động kinh, ngủ gà và đột quỵ. Để thực hiện kỹ thuật này trên đầu bệnh nhân đã cạo, phẫu thuật viên đặt bàn tay của mình lên phần cuối sống mũi giữa chỗ hai con mắt và đặt mũi đốt vào vị trí đánh dấu bởi ngón giữa. Khi tiếng thịt cháy lèo kèo hết, xương lộ ra, tức là đã đốt xong; nếu không, thì đốt trở lại. Một số phẫu thuật viên tin tưởng vào việc để hở vết thương, nhưng Albucasis khuyên người đọc rằng sẽ an toàn hơn khi không can thiệp xa hơn. Nếu việc đốt mô không chữa được chứng nhức nửa đầu kinh niên hoặc chứng sổ mũi cấp, Albucasis gợi ý nên trích máu các động mạch.
Cả Albu casis và Avicenna đều bàn luận chi tiết về lý thuyết và thực hành việc trích máu. Chỉ trừ khi bệnh nhân quá già hoặc quá trẻ, trích máu tĩnh mạch có giá trị vừa để duy trì sức khỏe vừa điều trị bệnh. Thuốc men giúp cơ thể loại bỏ các chất dịch xấu qua việc tẩy, gây ói và lợi niệu nhưng trích máu tĩnh mạch là cách loại bỏ tức thì chất dịch dư thừa theo cùng tỷ lệ như trong các mạch máu. Theo Galen dạy thì trích máu tĩnh mạch thậm chí cũng có ích trong điều trị chảy máu bởi vì trích máu sẽ chuyển máu sang phía bên kia của cơ thể. Các bác sĩ thường chọn khoảng 30 vị trí để làm trích máu: ở đầu 16 vị trí, 5 ở tay và cánh tay, 3 ở chân và bàn chân. Mặc dù có nguy hiểm làm tổn thương thần kinh, nhưng các tĩnh mạch khuỷu tay thường được sử dụng để chữa trị các chứng bệnh ở ngực, bụng và mắt.
Sức mạnh của người bệnh và màu sắc của máu quyết định số lượng máu cần phải lấy. Nếu máu lúc đầu có màu đen, bác sĩ tiếp tục cho máu chảy đến khi nào máu trở nên đỏ; nếu máu bị đặc, thì cứ cho chảy đến khi nào loãng thì thôi. Đối với bệnh nhân yếu thì có thể trích máu làm nhiều lần, nhưng nếu bệnh nhân vừa bị sốt với máu nóng, chảy mạnh và nhiều thì nên trích lấy máu cho đến khi nào ngất xỉu. Albucasis nhắc thầy thuốc bắt mạch bệnh nhân trong khi trích huyết để tránh khả năng bệnh nhân chết chứ không phải chỉ ngất xỉu. Trong một số trường hợp, con đỉa, giác hút và đốt mô được chọn thay cho trích máu tĩnh mạch. Giác hút, có kèm theo rạch da hay không, được coi là ít làm suy yếu bệnh nhân hơn là cách trích huyết tĩnh mạch, nhưng con đỉa đôi khi được coi là phù hợp hơn bởi vì có thể đặt con đỉa lên những phần của cơ thể mà đồ giác hút không thể đặt tới. Con đỉa được coi là thích hợp nhất để rút máu từ các mô sâu, nhưng loài này phải được chọn lựa cẩn thận. Thứ đỉa đầu to, thân có màu đen, xám hoặc xanh, hoặc thân có lông với các sọc xanh dương, được cho là gây ra phản ứng viêm, chảy máu, sốt, mệt lử và liệt. Albucasis mô tả các kỹ thuật để móc con đỉa bám vào cổ họng, nhưng không nói rõ bằng cách nào mà nó chui vào được nơi đó.
Các bệnh nhân nữ lại đưa ra những vấn đề khó khăn đặc biệt bởi vì một người đàn bà trinh bạch không để cơ thể bộc lộ trước một bác sĩ nam giới. Nếu người phụ nữ cần phải phẫu thuật thì Albucasis đề nghị nên mời một bác sĩ nữ, một hoạn quan có trình độ, hoặc một nữ hộ sinh có kinh nghiệm. Nữ hộ sinh nên biết các dấu hiệu và các đỡ đẻ bình thường, có sự khôn ngoan và khéo léo, và lành nghề khi gặp các ngôi thai bất thường, chuyển dạ kéo dài và lấy ra được thai nhi chết. Điều thú vị là Albucasis cho rằng các bác sĩ nữ “không nhiều” chứ không phải “không có”. Cũng nên chú ý đến việc nhắc tới hoạn quan bởi vì thiến hoạn bị cấm theo luật Hồi giáo. Tuy nhiên, sau khi xin lỗi vì nhắc tới thủ thuật này, Albucasis lại mô tả khá chi tiết.
Dược lý học, giả kim thuật và quang học cũng được các nhà khoa học Ả Rập chú ý nhiều. Các chuyên luận bằng tiếng Ả Rập về các thảo dược và thuốc đã đóng một vai trò lớn trong việc phát triển ngành dược thành một nghề nghiệp độc lập. Tập công thức pha chế của al-Kindi (khoảng 801 - khoảng 866; Abu Yusuf Yaqub ibn-Ishaq al-Kindi) là một kiểu mẫu cho các chuyên luận về dược lý học, thực vật học, động vật học và khoáng vật học. Các thứ thuốc của Ba Tư và Ấn Độ mà Hippocrates và Galen chưa hề biết đã xuất hiện trong các công thức này, cũng như những cách mới bào chế thuốc. Phân tích về ngôn ngữ của các tài liệu y học do alKindi trình bày cho thấy có 33% các thứ thuốc có xuất xứ từ các truyền thống vùng Lưỡng Hà và Trung Đông, 23% từ các nguồn Hy Lạp, 18% từ Ba Tư, 13% từ Ấn Độ, 5% từ tiếng Ả Rập và 3% từ các nguồn Ai Cập cổ đại. Rủi thay, nhiều tài liệu khác do al-Kindi soạn - khoảng 270 chuyên luận về logic học, triết học, vật lý, toán học, âm nhạc, thiên văn, lịch sử tự nhiên và y học - đều thất lạc. Mối quan tâm của al-Kindi về các lý thuyết về thị lực và nhãn khoa thực hành có lẽ phát xuất từ tình hình có nhiều bệnh về mắt tại vùng Trung Đông. Nhiều công trình tiếng Ả Rập đào sâu về giải phẫu học con mắt, vai trò của nó đối với thị lực, và điều trị những bệnh của mắt. Mặc dù lý thuyết về thị lực dường như là một ngành tri thức khá khó hiểu, al-Kindi lập luận rằng đây sẽ là chìa khóa để khám phá bản chất của một trong những bí mật cơ bản nhất. Ấn bản tiếng Latin của công trình về quang học của al-Kindi là De aspectibus có ảnh hưởng rất lớn đối với các nhà khoa học và triết học phương Tây.