TRƯỜNG HỢP LY KỲ CỦA IBN AN-NAFIS
Các học giả phương Tây từ lâu lập luận rằng sự đóng góp chính của nền y học bán đảo Ả Rập là sự bảo tồn kiến thức của Hy Lạp cổ đại và các tác giả Ả Rập thời Trung cổ không đưa ra được cái gì của chính họ cả. Vì lẽ những bản thảo tiếng Ả Rập nào được coi có giá trị dịch thuật là những bản dịch theo sát nguyên bản tiếng Hy Lạp (còn tất cả những thứ khác bị loại vì sai lệch), cái tiền đề đầu tiên được khẳng định - đó là thiếu tính độc đáo. Câu chuyện ly kỳ của Ibn an-Nafis (1210-1280; Ala ad-Din Abu al-‘Ala ‘Ali ibn Abi al-Haram al-Qurayshi-ad-Dimashqi Ibn an-Nafis) và tuần hoàn phổi cho thấy những giả định trước đây về tài liệu Ả Rập là không có căn cứ. Những công trình của Ibn an-Nafis hầu như bị quên lãng cho đến năm 1924 khi Ts. Muhyi ad-Din at-Tatawi, một thầy thuốc người Ai Cập trình luận án tiến sĩ tại khoa Y đại học Freiburg, Đức. Nếu một bản in luận án của BS Tatawi không đến mắt sử gia Max Meyerhof, thì khám phá của Ibn an-Nafis về tuần hoàn phổi có lẽ lại bị quên lãng. Một số tài liệu do Ibn an-Nafis viết được coi là mất cũng được tìm thấy trở lại trong những năm của thập niên 1950.
Được người cùng thời vinh danh là thầy thuốc thông thái, nhà phẫu thuật khéo tay, và nhà nghiên cứu tài ba, Ibn an-Nafis được mô tả như là một tác giả không mệt mỏi và là một người mộ đạo. Công trình của ông gồm có “Toàn tập về nghệ thuật y học”, một quyển sách soạn kỹ về Nhãn khoa và một bình chú về tập Canon của Ibn Sina. Theo các sử gia, khi giữ nhiệm vụ Chánh Ngự Y của vua Ai Cập, Ibn an-Nafis bị bệnh rất nặng. Các đồng nghiệp khuyên ông uống rượu để chữa bệnh, nhưng ông ta từ chối vì không muốn khi đến gặp đấng Tạo hóa mà trong máu có cồn.
Không biết bằng cách nào mà Ibn an-Nafis đạt được lý thuyết về hệ tuần hoàn phổi, nhưng được biết là ông ta chống lại lời dạy của Galen.
Giống như Galen, Ibn an-Nafis không thực hiện được việc mổ xác người. Trong tập Bình chú, Ibn an-Nafis giải thích là luật tôn giáo cấm không được mổ xác người, bởi vì sự cắt xẻo một thi thể được coi là một sự lăng nhục đối với phẩm giá con người. Trong các cuộc chiến tại Ả Rập trước thời kỳ Hồi giáo, kẻ chiến thắng đôi khi cố ý cắt xẻo thân thể của kẻ thù. Luật Hồi giáo cấm không được thực hiện việc cắt xẻo mang tính nghi thức này, và các luật gia chính thống lập luận rằng sự mổ xác vì mục đích khoa học chủ yếu cũng là một sự vi phạm đến phẩm giá của thân thể con người. Dường như khó xảy ra cái điều là một thầy thuốc từ chối không uống rượu để cứu mạng của mình lại hành động ngược lại với luật tôn giáo và ép buộc lương tâm của mình phải thỏa mãn sự hiếu kỳ khoa học. Trong thế kỷ 20, một số nhà thần học Hồi giáo khẳng định lại sự cấm đoán không được cắt xẻo thi thể để đối phó với những tiến bộ đạt được về cấy ghép cơ quan. Quần chúng nói chung hầu như đều muốn chấp nhận việc ghép tạng, nhưng một số nhà chức trách tôn giáo tìm cách cấm đoán kỹ thuật này.
Tham gia vào một cuộc thảo luận khá quy ước về cấu trúc và chức năng của tim, Ibn an-Nafis không đi theo cách giải thích được chấp nhận về chuyển động của dòng máu. Mô tả của ông về hai tâm thất phù hợp với học thuyết của Galen cho rằng tim phải chứa đầy máu còn tim trái chứa sinh khí (vital spirit). Tuy nhiên, nhận định tiếp theo của ông ta lại dám đi ngược lại lời dạy của Galen về những lỗ thông trên vách tim. Ibn an-Nafis khăng khăng cho rằng không có lối thông nào cả giữa hai tâm thất, dù hữu hình hay vô hình, và lập luận rằng sở dĩ vách ngăn giữa hai tâm thất dày hơn bất cứ phần nào của trái tim là để ngăn chặn không cho sự thông thương có hại và không phù hợp của máu hoặc khí giữa hai tâm thất. Vì vậy, để giải thích máu đi theo đường nào, Ibn an-Nafis lý luận rằng sau khi được lọc ở thất phải, nó sẽ được chuyển lên phổi để làm loãng đi và để trộn không khí. Phần tinh nhất của máu này sau đó sẽ được làm trong và chuyển từ phổi sang thất trái. Vì vậy, máu chỉ có thể đi từ phổi vào thất trái mà thôi.
Có lẽ, một bản thảo nào đó chưa mấy ai biết bằng tiếng Ả Rập, Ba Tư hoặc Do Thái cổ vẫn còn chứa đựng lời bình giải về những học thuyết lạ lùng của Ibn an-Nafis, nhưng cho tới nay chưa có bằng chứng là các tác giả sau này có chú ý đến những suy đoán ngược lại với Galen. Vì thế, mặc dù Ibn an-Nafis không có ảnh hưởng đến các tác giả sau này, nhưng với sự kiện là quan niệm của ông đã được trình bày rất táo bạo vào thế kỷ 13 đã khiến chúng ta nên xem lại những giả định về sự tiến bộ và tính chất sáng tạo trong lịch sử khoa học. Vì lẽ chỉ có một tỷ lệ nhỏ của các bản thảo liên quan được phân tích, cho nên những câu hỏi đó có thể không được trả lời trong một thời gian dài.
TÀN DƯ CỦA NỀN Y HỌC HY LẠP - HỒI GIÁO
Nền y học Hồi giáo không lụi tàn vào cuối thời Trung cổ nhưng tiếp tục phát triển và lan rộng sang các khu vực khác. Trong suốt thế kỷ thứ 19, các thầy thuốc cổ truyền bị áp lực ngày càng nhiều do phải cạnh tranh với các bác sĩ Tây y và các viên chức chính phủ. Năm 1838, Vị Sultan của đế quốc Thổ là Muhammad II, đã thành lập trường y khoa và bệnh viện kiểu Tây Phương đầu tiên tại Istanbul và đưa các bác sĩ Pháp đến làm việc. Vị Sultan khẳng định rằng nền y học cổ truyền Hồi giáo đã trở nên trì trệ và không đem lại tác dụng gì. Nhiều nước theo Hồi giáo khác dần dà theo gương này và thử cấm không cho hành nghề y khoa truyền thống.
Ngay cả khi luật pháp của thế kỷ 20 quản lý việc hành nghề y khoa đã đẩy các thầy thuốc y học cổ truyền vào chỗ hoạt động chui, các nhà thám hiểm kiên trì vẫn có thể tìm ra họ. Lấy ví dụ, tại xứ Algeria bị người Pháp cai trị, các thầy thuốc cổ truyền và bệnh nhân của họ đều miễn cưỡng khi tiếp xúc với người ngoài bởi luật pháp cấm không cho những người không có bằng cấp của Pháp được làm phẫu thuật. Tuy nhiên các thầy thuốc yanami thực hiện phẫu thuật bệnh về mắt, nhổ răng, giác hút, đốt mô, trích huyết và hỗ trợ các trường hợp đẻ khó. Mặc dù có thuốc gây mê/gây tê, nhưng các thầy thuốc cổ truyền không sử dụng trước khi phẫu thuật. Một số thầy thuốc cho rằng phương pháp của mình rất nhẹ nhàng không làm bệnh nhân đau, nhưng lúc nào cũng cần phải có các tay phụ tá khỏe mạnh để giữ lấy bệnh nhân. Nhiều bệnh nhân tự điều trị bằng thuốc cổ truyền và đốt mô để bớt tốn kém khi phải đến tìm bác sĩ và cũng vì họ tin tưởng vào những cách điều trị này.
Hình
Tranh miêu tả giải phẫu học con người trong một tài liệu tiếng Ả Rập.
Dưới sự cai trị của người Anh tại tiểu lục địa Ấn Độ, cả hai hệ thống y học cổ truyền Hồi giáo và Ấn giáo đều tồn tại. Trong thập niên 1960, chính phủ Pakistan ra lệnh phải đăng ký, cấp giấy phép và sử dụng các thầy thuốc cổ truyền hakim, bởi vì Tây y rất đắt tiền và dân quê ít khi có điều kiện tiếp cận. Các bác sĩ Tây y phản đối dữ dội sự công nhận chính thức này dành cho các đối thủ của họ. Với sự công nhận chính thức của các chính phủ Ấn Độ và Pakistan và được Bộ Y tế quản lý, các thầy thuốc cổ truyền nam và nữ, gọi là tabib và tabiba, tràn ngập các vùng quê và thành thị. Nhiều thầy thuốc học nghề y dưới sự chỉ bảo trực tiếp, còn những người khác thì ghi tên vào các trường dạy y học cổ truyền với giáo trình có quyển Canon của Avicenna và các thành phần chuẩn mực của y học hiện đại. Các thầy thuốc y học cổ truyền vẫn còn chẩn đoán bệnh qua cách bắt mạch, khám nước tiểu, phân và lưỡi và cho đơn các thuốc cổ truyền và chế độ ăn uống. Các tài liệu phân tích khoa học về bài thuốc y học yunami đã công nhận giá trị của nhiều thứ thảo dược, nhưng có đến hàng trăm thứ thuốc cổ truyền chưa được nghiên cứu. Tuy nhiên, nhìn chung thì các xã hội Hồi giáo hiện đại chưa thành công trong việc kết hợp nền y học hiện đại vào xã hội Hồi giáo, mặc dù trên thực tế Hồi giáo thời Trung cổ đã đồng hóa thành công các truyền thống y học Hy Lạp, Ba Tư và Ấn Độ. Bất chấp sự trỗi dậy dữ dội của phong trào Hồi giáo cực đoan trong thập niên 1980, Ấn Độ và Pakistan dường như là những quốc gia duy nhất có nhiều cố gắng để gắn kết các truyền thống y học Hy Lạp - Hồi giáo vào việc lập kế hoạch chăm sóc sức khỏe hiện đại.