← Quay lại trang sách

6 -Thời Phục hưng và cuộc Cách mạng khoa học

Thuật ngữ thời Phục hưng được dùng để chỉ sự tái sinh của nghệ thuật và khoa học đi kèm những thay đổi về kinh tế, xã hội, chính trị và tri thức đầy phức tạp và lắm khi đau đớn đã xảy ra tại châu Âu từ năm 1300 đến 1650. Thời Phục hưng là một thời đại thăm dò mới về ngôn ngữ, về thế giới, về tinh thần và cơ thể con người. Thời đại Phục hưng cuối cùng có thể đã làm thay đổi nền văn hóa châu Âu một cách sâu rộng và lâu dài để đưa tới thế giới hiện đại, nhưng đây cũng là thời kỳ mà sự mê tín, thần bí, bất khoan dung và bệnh dịch phát triển mạnh. Trong thời kỳ này, châu Âu trải qua sự phân rã của các kiểu thức tôn giáo, xã hội, kinh tế thời Trung cổ, thương mại, đô thị, giao dịch đều bành trướng, và sự lớn mạnh của cơ chế nhà nước hiện đại. Nếu một sự chuyển đổi sâu rộng như thế dường như có thể dẫn tới một sự đoạn tuyệt hẳn với quá khứ, thì về nhiều mặt, thời Phục hưng lại là sự tích tụ tự nhiên của tất cả những gì thuộc về thời Trung cổ. Các học giả lập luận rằng thời Phục hưng chưa hẳn là một thời đại của chủ nghĩa cá nhân, căn cứ vào tầm quan trọng của các mối quan hệ dòng tộc và sự phát triển của các tổ chức nghề nghiệp và tôn giáo. Phần lớn các thị trấn và thành phố đều là các đảo đô thị còn chung quanh cuộc sống vẫn là thôn quê truyền thống. Hơn thế nữa, các nhà nghiên cứu thời Trung cổ cho rằng những nét khái quát của xã hội hiện đại đã được hình thành trong thời gian cuối thế kỷ thứ 10 và đầu thế kỷ thứ 13.

Là một thời đại liên quan đến khoa học và triết học, thời Phục Hưng là một thời kỳ có tầm quan trọng đặc biệt đối với y học, đó là chưa nói đến các tiến bộ về trị liệu. Tỷ lệ tử vong vào những năm 1500 cao gấp ba lần tỷ suất hiện nay và tuổi thọ có lẽ chỉ bằng một nửa tuổi thọ của châu Âu hiện thời. Chiến tranh, đói kém, dịch bệnh xảy ra dồn dập làm cho mọi người đều nơm nớp lo sợ đến ngày tận thế gần kề. Tuy nhiên, mối liên hệ chính xác giữa thời Phục hưng và sự trỗi dậy của y học quả là cực kỳ phức tạp. Có thể nói đến một sự Phục hưng lâu dài về y học đã bắt đầu vào thế kỷ thứ 12, một sự Phục hưng rõ nét vào thế kỷ thứ 16 và một cuộc cách mạng y học vào thế kỷ thứ 17.

NHỮNG PHÁT KIẾN LÀM THAY ĐỔI THẾ GIỚI

Francis Bacon (1561-1639), triết gia về khoa học hàng đầu và Thủ tướng nước Anh, nói rằng nếu chúng ta xét đến “lực, hiệu quả và hậu quả” của tất cả các sản phẩm do trí lực của con người, thì ba phát kiến quan trọng nhất là in ấn, thuốc súng và la bàn. Bacon nhận xét, điều này có ý nghĩa hết sức đặc biệt là ba phát kiến đó đã làm thay đổi bộ mặt và tình hình thế giới mà thời cổ đại chưa bao giờ biết đến.

Quyển sách châu Âu được in đầu tiên bằng bản in kiểu trượt (movable type) xuất hiện vào năm 1454, tức là khoảng 4 năm sau khi nghề in bắt đầu tại châu Âu. Sự hình thành của thuật in ấn khắp châu Âu trong thập niên 1460 đã làm nổ ra một cuộc cách mạng về phương tiện liên lạc; cuộc cách mạng này đã phần nào giải thích được sự bền vững của thời Phục hưng. Những văn bản được in bằng bản in kiểu trượt trước năm 1501 được gọi là incunabula, một từ gốc Latin có nghĩa là cái nôi để nói rằng những tài liệu này tiêu biểu cho giai đoạn trứng nước của sách in.

Cuộc cách mạng ngành in đã làm cho số lượng người biết đọc tăng nhanh, sự truyền bá các tư tưởng và hình thành một nền văn chương bằng ngôn ngữ địa phương, và chuyển đổi một nền văn hóa bằng hình ảnh và người chép sách thành một nền văn hóa sách in. Sự quan tâm trong các vấn đề giáo dục không chỉ giới hạn vào việc học lên cao và giáo trình đại học, nhưng còn bao gồm cả các chương trình cải cách dành cho giáo dục sơ học. Khác với hàng thế kỷ quen với các bản chép tay công phu, giờ đây chỉ cần vài chục năm, đã có hàng triệu quyển sách ra đời. Vào cuối thế kỷ 15, nghề in đã hình thành tại 300 thành phố và thị trấn châu Âu. Nếu các học giả ca ngợi nghề in như là “nghệ thuật bảo tồn tất cả các nghệ thuật khác”, thì những người cổ súy cho sự biết chữ có thể nói “thật xấu hổ cho những ai không biết đọc”. Các luật lệ kiểm duyệt là sự đe dọa nghiêm trọng đối với chủ nhà in tại nhiều nước, bởi vì ấn hành các tài liệu dị giáo có thể bị phạt tù hoặc tử hình.

Tuy nhiên vai trò của ngành in trong thời Phục hưng và cuộc Cách mạng Khoa học lại là một vấn đề tranh luận giữa các học giả. Các tài liệu thần học, luật và văn chương cổ điển nói chung đều ra đời trước các công trình về khoa học và y học. Công trình của Jean Charlier de Gerson về sự cố ý lạm dụng thuốc De pollutione nocturna in tại Cologne khoảng năm 1466 có lẽ là quyển sách y khoa đầu tiên được in ra. Một số sử gia nhấn mạnh tầm quan trọng của ngành in trong việc chuẩn hóa và bảo tồn các tài liệu, cũng như làm tăng số lượng các tài liệu hiện có. Dĩ nhiên, những nhà in cẩu thả và dốt nát cũng có thể tạo ra các sai sót và những sai sót này được nhân lên nhanh chóng hơn nhiều so với các người chép sách làm sai lệch nội dung những quyển sách chép tay. Nhưng các người sửa lỗi bản in (“thầy cò”) và các biên tập viên lành nghề hiểu rõ mối nguy hiểm khi xảy ra các sai sót. Những sai sót trong văn bản hoặc trong hình minh họa và ghi chú có thể rất nguy hiểm trong các sách nội khoa và phẫu thuật. Khi biên tập các tài liệu y khoa cho một nhà in tại Lyon, nhà nhân văn người Pháp François Rabelais (1490?-1553), người vốn nổi danh với những bài châm biếm công kích thói mê tín và tính kinh viện, được cho là đã nói “Một chữ sai có thể làm chết hàng ngàn người”.

Tài liệu tư vấn ồ ạt xuất hiện, nhất là những tài liệu bàn về sức khỏe và chế độ ăn uống, là sản phẩm chính của cuộc cách mạng in ấn. Các bài viết phổ thông bằng tiếng địa phương cho người dân biết loại thực phẩm, thuốc hoặc gia vị nào là “tốt” hoặc “xấu” cho sức khỏe của họ, giải thích cách chọn lựa đúng các loại thực phẩm phù hợp với các lý thuyết về thể dịch và y học. Tư vấn về vệ sinh vẫn còn bàn luận các quy tắc sức khỏe hoặc chế độ ăn theo 6 chất không thuộc tự nhiên: đồ ăn và thức uống, không khí hoặc môi trường, thể dục và nghỉ ngơi, ngủ và thức, bài tiết và làm đầy, và những ham muốn của tâm hồn hoặc sự xúc cảm. Hình thức tương tự cũng được chấp nhận trong các tài liệu tư vấn cho các độc giả giàu có về tình dục, y phục, mỹ phẩm, sức khỏe, đời sống gia đình, xử lý thai nghén và sinh đẻ, nuôi trẻ qua vú nuôi, nuôi dưỡng trẻ em và vân vân. Các tác giả y khoa phải tìm ra cách để thích ứng các lý thuyết y học vào các loại cây cỏ của Tân Thế Giới - như cà chua, khoai tây và thuốc lá - là những thứ được dùng làm thức ăn và làm thuốc. Những lời khuyên được viết ra như thế này có thể rất chi tiết mà không sợ làm người tư vấn hoặc bệnh nhân bối rối. Dĩ nhiên, văn chương tư vấn có thể được những người bệnh tham khảo nhiều hơn là những người chỉ muốn học hỏi để duy trì sức khỏe bằng cách theo sát các lời khuyên về lối sống. Các tác giả của tài liệu tư vấn này thường than phiền là người dân chỉ lo về chế độ ăn và chế độ dinh dưỡng đúng mức khi họ đã bệnh thực sự rồi. Mặc dù có sự càu nhàu không thể tránh khỏi về sự tầm thường của những quyển sách in so với các sách viết tay và sợ rằng khi nhiều người biết chữ có thể gây bạo loạn, các học giả và khối quần chúng ngày càng biết chữ nói chung đều quan tâm nhiều hơn đến việc nhận được kho báu mới hơn là cứ than phiền về ngày tàn của nền văn hóa chép sách. Khi được in ra, thì một tài liệu có thể nói trực tiếp cho người sinh viên, hơn là phải thông qua một giáo sư hoặc người gìn giữ các bản thảo. Sách được in ra với số lượng lớn tạo điều kiện cho lớp trẻ nghiên cứu, và có lẽ để học nữa khi họ tự đọc lấy. Nếu không có nghệ thuật làm giấy, phát xuất từ Trung Quốc, thì cuộc cách mạng về tri thức do nghề in phát động sẽ không thể nào xảy ra được. Quyển Kinh thánh của Johannes Gutenberg, một trong vài quyển sách đầu tiên được in trên giấy da, cần đến da của 300 con cừu. Có lẽ châu Âu sẽ cạn kiệt cừu trước khi các nhà in thực hiện đơn đặt hàng in sách. Mặc dù kiếm được quyển sách in không khó bằng sách chép tay, nhưng sách in vẫn còn rất đắt và tại các thư viện sách được buộc chặt vào kệ để làm nản lòng các kẻ trộm.

Các vũ khí dùng thuốc súng đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử y học vì các nhà phẫu thuật buộc phải ứng phó với các vấn đề mà Hippocrates và Galen chưa hề biết. Có lẽ người Trung Quốc phát minh ra thuốc súng và la bàn, nhưng những người khác lại cho rằng đã có phát minh trước hoặc phát minh độc lập. Khi người Âu cầm la bàn đi khắp thế giới, họ đã mang về những cây cỏ, động vật và thuốc chữa bệnh mới và đồng thời cũng để lại sau gót chân của họ những tai họa về sinh thái và nhân khẩu làm thay đổi thế giới.

CÁC NHÀ NHÂN VĂN Y HỌC

Cuộc Cách mạng Khoa học nói chung được coi là sự thay đổi lớn của các ngành khoa học vật chất xảy ra trong thế kỷ thứ 16 và 17, và trước tiên gắn liền với các tên tuổi như Nicolaus Copernicus (1472-1543), Johannes Kepler (1571-1630), Galileo Galilei (1564-1642), và Isaac Newton (16421727). Một số học giả cố đào sâu vấn đề vì sao Cuộc Cách Mạng Khoa học lại xảy ra tại châu Âu vào thế kỷ thứ 17, thay vì tại Trung Quốc hoặc những vùng thuộc Hồi giáo, là những nơi đã đạt được trình độ khoa học và kỹ thuật tinh xảo nhiều thế kỷ trước đó. Những học giả khác khi bàn về vấn đề này lại lập luận rằng chưa hề xảy ra những thứ tương tự như Cuộc Cách mạng Khoa học châu Âu. Xét cho cùng, trong suốt thời kỳ gọi là Cuộc Cách mạng Khoa học, mối quan tâm về chiêm tinh học, giả kim thuật, ma thuật, tôn giáo và học thuyết vẫn còn tồn tại. Tuy vậy, các học giả khác xem cuộc Cách mạng Khoa học chỉ là một ẩn dụ có cơ sở về một sự quá độ của toàn cảnh thế giới từ thời tiền-hiện đại sang hiện đại trong đó khoa học là mấu chốt của cuộc sống và tư tưởng. Các tác giả sống qua thời đại theo truyền thống được gọi là thời Phục hưng thường bày tỏ cái nhận thức đầy sợ hãi khi thấy các luồng tư tưởng đổi thay, chẳng hạn như học thuyết của Copernic. John Donne (1572-1631), nhà thơ và tu sĩ người Anh, nghĩ rằng hình ảnh lấy Mặt trời làm trung tâm của vũ trụ có thể rất đúng, nhưng ông ta lại than vãn rằng nền triết học mới “làm nghi ngờ tất cả mọi thứ”. Đúng vậy, thế giới đã mất cái tính “nhất quán” truyền thống. Con người không còn biết tìm Mặt trời, Trái đất và các hành tinh khác ở đâu. Tuy thế các nhà thơ và trí tuệ con người dần dà có thể điều chỉnh ngay cả sự chuyển dịch của Trái đất và Mặt trời. Alexander Pope (1688-1744), trong bài “Luận về Con người” (1734), thấy rằng viễn cảnh mới gây hứng khởi hơn là gây khiếp sợ, và hy vọng rằng những tư tưởng mới về vũ trụ có thể cho chúng ta biết “vì sao Thượng đế tạo ra chúng ta như hiện nay”.

Vì vậy, đúng khi thời Phục hưng chuyển đổi các ngành nghệ thuật, thì sau đó cuộc Cách mạng khoa học đã chuyển đổi các tư tưởng về bản chất của vũ trụ và bản chất con người. Trong giai đoạn từ 1450 đến 1700, chủ nghĩa kinh viện thời Trung cổ được thay bằng một phương cách mới để hiểu về thế giới tự nhiên. Áp dụng phương thức suy nghĩ mới này vào giải phẫu học, sinh lý học và giáo dục y khoa sẽ không thể nào thực hiện được nếu không có sự tham gia của các học giả chủ trương nhân văn. Giống như các học giả kinh viện thời Trung cổ, các nhà nhân văn dành nhiều thời gian cho từ ngữ và sách vở và công việc khó khăn là kết hợp kinh nghiệm và thực hành vào nền học vấn cổ điển. Trong khi sự náo động tri thức và những say mê về tính uyên thâm của giai đoạn này đầy độc đáo, thì tôn giáo vẫn còn thấm đậm vào đời sống thời Trung cổ và cái cách mà các học giả, họa sĩ, nhà thám hiểm và các triết gia tự nhiên nhìn thế giới, thậm chí cả Thế giới mới. Ngay cả khi chủ nghĩa nhân đạo là biểu thị của một trạng thái tinh thần mới, thì một nửa số sách được in trong thời kỳ này đều đề cập đến các vấn đề có chủ đề tôn giáo.

Có thể lấy một trường hợp khá tiêu biểu về chủ nghĩa nhân văn và các nhà nhân văn tại các trường đại học khắp Tây Âu đã đóng vai trò chủ đạo trong việc chuyển đổi giáo trình thời Trung cổ mang tính kinh viện. Các khoa trong trường đại học tổng hợp giành giật nhau về nguồn tài trợ; các học giả danh giá đầy cố chấp, các chức vụ chính thức và phụ tá, tiền hưu, kiểu cách trang phục và than phiền về mối căng thẳng giữa người có học với giới bình dân; còn các sinh viên thì tìm cách chỉ trích các giáo sư về những điểm mà họ cho rằng dạy dỗ không đến nơi đến chốn. Nói cách khác, môi trường hàn lâm nói chung vẫn không có gì thay đổi. Mặc dù nhiều mặt của truyền thống tri thức thời Trung cổ vẫn còn hiện diện, nhưng các học giả nhân văn, nhất là những vị tại các trường đại học tổng hợp ở Ý, đã khuấy lên một cuộc cách mạng tri thức thực sự. Nhưng vì nhiều lý do, các trường đại học của Ý suy tàn dần vào thế kỷ thứ 17 trong khi đó các trường đại học của những vùng khác lại đưa ra sự cạnh tranh mạnh mẽ cho sinh viên và các khoa.

Trong khi các học giả nhân văn nói chung chú ý đến nghệ thuật và văn chương nhiều hơn là khoa học, thì tầm nhìn xa mới của họ đồng thời cũng đã giúp ích cho các ngành y khoa. Là những người ủng hộ kiên định cho các tài liệu của Galen được tuyển chọn lại, các học giả nhân văn loại bỏ các bản dịch bị sai lệch thời Trung cổ. Tuy vậy do quá kính nể các tác giả cổ đại cho nên họ cũng hoài nghi khả năng xây dựng được một ngành y học mới độc lập với các tác giả Hy Lạp cổ đại. Công trình của Thomas Linacre (1460?-1524) và John Caius (1510-1573), là những nhà nhân văn y học xuất sắc người Anh, đã tiêu biểu cho bản chất của học thuật và giáo dục y khoa trong thời kỳ này. Thomas Linacre học tiếng Hy Lạp tại Florence và Rome trước khi nhận bằng Tiến sĩ y khoa tại đại học Padua năm 1496. Ngoài công việc học thuật ra, Linacre có một phòng mạch tư nhân phát đạt, dạy tiếng Hy Lạp, và cũng là thầy thuốc riêng của vua Henry VII. Linacre biên tập và dịch các tài liệu của Galen về vệ sinh, điều trị, các triệu chứng của bệnh, mạch, và nhiều thứ nữa. Ông ta cũng là một nhà nghiên cứu về ngữ pháp được đánh giá cao. Quyển sách cuối cùng nghiên cứu về cú pháp tiếng Latin được xuất bản sau khi ông mất. Là người sáng lập và là ngọn đèn hướng dẫn của Học viện các thầy thuốc, Linacre có công trong việc định hình đặc điểm của nghề y nước Anh. Linacre và các thầy thuốc ưu tú người Anh nắm được quyền quyết định ai có thể hành nghề y hợp pháp tại vùng Greater London. Học viện Hoàng gia các thầy thuốc có quyền phạt và bỏ tù các thầy thuốc hành nghề không có giấy phép. Những người tốt nghiệp Cambridge và Oxford, trong đó có Linacre, thì không phải chịu những hình phạt khắc nghiệt. Dưới sự lãnh đạo của người học trò tận tụy của Linacre là John Caius, Học viện các thầy thuốc lớn mạnh và uy tín, giành được quyền kiểm soát việc cấp phép hành nghể từ các cấp thẩm quyền tôn giáo, và sử dụng các quy định nghiêm ngặt để nâng cao vị trí của các thầy thuốc được công nhận. Tuy nhiên, Caius cũng cảm thấy phiền lòng khi thấy rằng tính nhân văn trong nghề y của nước Anh giảm sút dần.

Về mặt phát triển các cơ sở đào tạo bậc cao, nước Anh đã đi sau nhiều trường đại học và trường chuyên nghiệp tại châu Âu. Vì vậy, cũng như các học giả người Anh khác, Caius phải ra nước ngoài học tập. Sau khi từ bỏ những môn học thần học, Caius trở thành sinh viên y khoa tại đại học Padua, nơi đây ông gặp Andreas Vesalius (1514-1564), ngôi sao đang lên của ngành giải phẫu học thời Phục hưng. Cả hai tham gia vào việc biên tập và xuất bản các bản dịch mới bằng tiếng Latin những tác phẩm của Galen, nhưng phản ứng của mỗi người trước sự sai lệch giữa giải phẫu học theo Galen và xác người lại rất khác nhau. Nếu Vesalius kiên trì quay về “quyển sách thực sự của cơ thể con người” thì Caius lại tin tưởng rằng một khi tất cả các công trình của Galen được biên tập nghiêm túc, thì tri thức về y học dường như hoàn tất.

Năm 1546, Caius được bổ nhiệm làm người trình bày giải phẫu cho Công ty Hợp nhất các thợ hớt tóc và phẫu thuật viên. Từ năm 1540, công ty này cứ mỗi năm cung cấp 4 cái xác tội nhân bị hành hình dành cho việc trình bày giải phẫu học. Sau khi Caius và các thầy thuốc ưu tú khác vận động nhiều lần, học viện các thầy thuốc cũng nhận được một di sản tương tự vào năm 1565. Trong khi các chủ tịch khác của học viện các thầy thuốc thường bỏ lơ các thầy thuốc chưa đủ tiêu chuẩn, nhất là những người nằm bên ngoài London, thì Caius lại muốn kiểm soát việc cấp phép hành nghề y khoa trên toàn nước Anh. Mặc dù mục đích nâng cao chuẩn đào tạo và hành nghề của Caius đáng hoan nghênh, nhưng các nỗ lực nhằm hạn chế số lượng thầy thuốc bằng cách buộc họ phải có chứng chỉ lại có các hiệu quả không mong đợi, nhất là cho phụ nữ và người nghèo. Rõ ràng là, nếu chỉ dựa vào một số nhỏ các thầy thuốc vốn là những người thuộc giới quý tộc trong ngành y, mà cũng không hẳn là những người có tài năng xứng đáng, thì không thể nào đáp ứng được nhu cầu của dân thường. Vì lẽ phụ nữ không được thu nhận vào các trường đại học, các thầy thuốc nữ giới là đối tượng dễ dàng của các cải cách về giấy phép hành nghề. Ngoài các chiến dịch chống lại các thầy thuốc không được cấp phép, lang băm, phù thủy và mê tín, Caius còn thách thức những ai dám phê bình Galen.

Lòng tôn kính các bậc tiền bối cổ đại không làm nhụt đi khả năng của Caius quan sát và mô tả các hiện tượng mới, như được chứng minh trong phần ghi nhận một chứng bệnh gọi là bệnh chảy mồ hôi nước Anh. Tài liệu xuất sắc của ông “Boke hoặc là những lời tư vấn đối với Bệnh chảy mồ hôi (1522)” là tài liệu độc đáo đầu tiên về bệnh này được viết bằng Anh ngữ tại Anh. Chắc hẳn, Caius sẽ không vui khi biết rằng tài liệu mô tả “bệnh đổ mồ hôi” bằng tiếng Anh của mình ngày nay được coi là công trình y học quan trọng nhất của ông. Có ít nhất 5 vụ dịch Bệnh đổ mồ hôi nước Anh (Sudor Britanica, hoặc sudor anglicus) rõ ràng đã xảy ra giữa những năm 1480 và 1580. Bệnh này có các đặc trưng như đổ mồ hôi dầm dề, sốt, buồn nôn, nhức đầu, vọp bẻ, đau ở lưng và các chi, cuồng sản, ảo giác và ngủ sâu. Trong vòng 24 giờ, bệnh lên đến giai đoạn nặng nhất, lúc đó hoặc là bệnh nhân chết hoặc bệnh ngưng ngay. Ngay cả với những người khỏe mạnh, tỷ lệ tử vong cũng cực kỳ cao. Nhiều bệnh nhân đi vào hôn mê và chết trong vòng 24 đến 48 giờ. Ngoài ra, bệnh này dường như chỉ lựa riêng người Anh ngay cả khi chung quanh có người Tô Cách Lan, Ái Nhĩ Lan, người xứ Welsh.

Theo Caius, thành phố bị dịch được coi là may mắn nếu chỉ có một nửa số dân ngã bệnh. Sau khi nghiên cứu kỹ càng kiểu thức lâm sàng và diễn biến tự nhiên của bệnh, Caius kết luận rằng bệnh đổ mồ hôi là một bệnh mới. Một số sử gia tin rằng bệnh này được mang về London năm 1485 khi bọn lính đánh thuê của vua Henry VII trở về từ nước Pháp và vùng Flanders. Bệnh này có thể là một dạng độc của bệnh cúm, bệnh ngộ độc nấm cựa loã mạch, ngộ độc thức ăn, hoặc một bệnh hoàn toàn chưa biết và hiện tại không còn, nhưng bản chất chính xác của những vụ dịch này và lý do vì sao chỉ khu trú vào một vùng địa lý nhất định như thế đến nay vẫn còn bí ẩn.