MỔ XÁC, NGHỆ THUẬT VÀ GIẢI PHẪU HỌC
Trong khi các nghệ sĩ và nhà giải phẫu học của thời Phục hưng gắn kết chặt chẽ với sự cải cách về môn giải phẫu học, thì việc nghiên cứu cơ thể con người - từ cơ thể cũng như từ sách vở- không hẳn hoàn toàn bị quên lãng từ khi Galen chết đi. Trong suốt thời Trung cổ, tuy việc mổ xác người không được tự do thực hiện rộng rãi như trong giai đoạn ngắn ngủi dưới thời Herophilus và Erasistratus, nhưng lại không bị cấm đoán hoặc bỏ qua hoàn toàn. Sự quan tâm về mổ xác và mổ sống đã tăng lên dần giữa khoảng thế kỷ thứ 12 và thế kỷ 17, nhưng việc mổ xác khám nghiệm vào thời Trung cổ được tiến hành bình thường nhằm điều tra những cái chết nghi vấn hoặc các vụ dịch hạch bộc phát, hoặc thậm chí tìm kiếm các dấu hiệu đặc biệt bên trong cơ thể của các vị sắp được phong thánh. Những cuộc mổ xác sau khi chết như thế này có lẽ cũng mang lại nhiều thông tin như các nghi thức được tiến hành tại một số bộ lạc nguyên thủy nhằm xác định là cái chết có phải do ma thuật hay không.
Mổ xác người được thực hiện hạn chế trong suốt thế kỷ 13 và 14 tại các trường đại học miền nam châu Âu là những nơi có khoa y. Quy chế của trường đại học Bologna từ những năm 1405 đã thừa nhận việc mổ xác. Vào năm 1442, thành phố Bologna cho phép cung cấp hai xác chết mỗi năm để cho trường đại học mổ xác. Trong suốt thế kỷ 15, những điều khoản tương tự cũng được dành cho hầu hết các trường đại học lớn tại châu Âu. Như vậy, các sinh viên y khoa có thể quan sát một số hạn chế các trường hợp mổ xác người. Tuy nhiên, họ hiểu rằng khám bệnh và viết luận văn cần có kiến thức từ các tài liệu được công nhận, không phải chỉ ở khả năng thực hiện các phần trình diễn thực hành. Các sinh viên cố tham dự các cuộc mổ xác được chừng nào hay chừng ấy nhằm củng cố những gì mình đọc được từ các tác giả cổ điển và để chuẩn bị cho các kỳ thi. Các sinh viên thời Trung cổ và thời Phục hưng có thể không khác với các sinh viên ngày nay học bài thực hành giải phẫu học “kiểu vừa nấu vừa lật sách dạy nấu ăn” điển hình. Những bài thực nghiệm như thế là nhằm dạy một kỹ thuật chuẩn hoặc để xác nhận một sự kiện đã được thừa nhận chứ không phải để đưa ra các nhận xét mới mẻ.
Những cuộc mổ trình bày giải phẫu học trên khắp châu Âu khác nhau rất nhiều, nhưng phần giải phẫu học dành cho công chúng điển hình là trưng bày xác của một phạm nhân bị kết án phạm một tội ác ghê rợn đủ để nhận bản án “hành hình và xẻ xác”. Sau khi cám ơn sự rộng lượng của Giáo hoàng dành cho buổi lễ, vị giáo sư uyên bác sẽ đọc một bài diễn văn hùng hồn về cấu trúc cơ thể con người trong khi đó tay thợ cạo - phẫu thuật sẽ phá hủy xác chết. Nói chung, các cuộc tranh luận giữa những người theo Galen của khoa y và những người theo Aristotle của khoa triết lại làm cho người ta chú ý nhiều hơn là chính cái xác bị cắt xẻo. Những cuộc mổ trình bày giải phẫu học tiếp tục đóng vai trò giáo dục và mua vui cho công chúng, căn cứ theo những mô hình giải phẫu học nhìn thấy được bên trong được trình bày trước công chúng. Các cơ quan trong suốt được trình bày tại Triển lãm Vệ sinh Quốc tế lần thứ nhất (1911). Các viện bảo tàng tại châu Âu và Mỹ trưng bày nhiều hình mẫu Người đàn ông trong suốt và Người đàn bà trong suốt trong những năm 1930.
Từ 1400, việc mổ xác người đã là một phần trong giáo trình của phần lớn các trường y khoa. Giải phẫu cũng được thực hiện tại một số bệnh viện. Tuy nhiên, cho đến tận thế kỷ 16, các sinh viên y khoa cũng có chút ít nguy hiểm khi bị buộc phải đối diện với các tư tưởng cấp tiến mới về bản chất của cơ thể con người. Giáo trình y khoa của đại học thời Phục hưng phản ánh một sự ràng buộc nặng nề với các tác giả thời cổ đại. Sinh viên buộc phải rành các tác phẩm của Avicenna, Galen, và Hippocrates. Số lượng sinh viên y khoa khá nhỏ, nhất là tại phía bắc châu Âu. Trong suốt thế kỷ 16, số người dự thi lấy bằng Cử nhân Y khoa tại Paris ít hơn con số 20.
Đối với thầy giáo cũng như với sinh viên, mục đích của mổ xác là bổ sung cho việc nghiên cứu các tài liệu của Galen, nhưng do công trình của Galen khá rắc rối, cho nên cần phải có các tài liệu hướng dẫn giản lược. Một trong những sổ tay về mổ xác sớm nhất được nhiều người biết là quyển Giải phẫu học (1316) của Mondino de Luzzi (khoảng 1275-1326), vốn là giáo viên của đại học Bologna từ 1314 đến 1324. Quyển Giải phẫu học của Mondino mang tính thực tiễn và súc tích. Bản in đầu tiên của bản phổ thông xuất hiện vào năm 1478 và sau đó có ít nhất là 40 ấn bản nữa. Nhưng các nhà nhân văn học y học lại gạt bỏ nó và chuyển sang những ấn bản mới được phục hồi về nội dung giải phẫu học của Galen, nhất là quyển “Bàn về việc sử dụng các phần của cơ thể” và “Bàn về các phương thức giải phẫu học”. Một số trong các tài liệu đầu tiên có đưa ra các sơ đồ đơn giản, nhưng các hình ảnh này lại không giúp ích gì nhiều để làm rõ các nguyên tắc giải phẫu học. Sự thành thạo các nguyên tắc về phối cảnh nghệ thuật của thế kỷ 15 đã tạo điều kiện ra đời môn nghệ thuật mới là vẽ minh họa giải phẫu học.
Sự hình thành một mối liên hệ đặc biệt với các khoa học, nhất là môn giải phẫu học, toán học, và quang học cũng như cảm hứng của các lý tưởng Hy Lạp cổ điển, đã tạo cho nghệ thuật thời Phục hưng nhiều đặc trưng khác biệt. Họa sĩ và thầy thuốc đều muốn có kiến thức chính xác về giải phẫu học. Các họa sĩ đưa ra một điểm nhấn mới là làm thế nào tái dựng chính xác thú vật và cây cỏ, cách sử dụng khoa học luật phối cảnh, và trên hết là ý tưởng rằng cơ thể người đẹp đẽ và đáng để nghiên cứu. Để làm cho nghệ thuật của mình sát với cái sống và cái chết, các họa sĩ tham dự những buổi mổ xác công khai và hành hình và nghiên cứu các thi thể còn nguyên và bị lột da để xem các cơ và xương hoạt động như thế nào.
Nếu nhiều họa sĩ và nhà điêu khắc thời Phục hưng hướng về sự mổ xác, thì không ai vượt qua được Leonardo da Vinci (1452-1519) - họa sĩ, nhà kiến trúc, kỹ sư, và nhà phát minh - về mặt tưởng tượng khoa học và nghệ thuật. Từ những quyển sổ ghi chép của Leonardo cho thấy đây là một thiên tài vượt bậc, có lòng hiếu kỳ khoa học không ngừng nghỉ; những quyển sổ này cũng cho thấy sự lấn cấn khi xếp Leonardo vào vị trí nào trong lịch sử khoa học và y học. Trong những quyển sổ đó đầy rẫy các dự án, ghi chép, và giả thuyết xuất sắc về con người, động vật, ánh sáng, cơ học và nhiều thứ nữa. Freud là người “phân tích tâm lý” Leonardo, đã gọi họa sĩ là “người dẫn đường cho Bacon và Copernicus”. Nhưng các dự án lớn chưa bao giờ hoàn tất, và hàng ngàn trang ghi chép và phác thảo còn dang dở. Vốn là người kín đáo, thuận tay trái, Leonardo đã lưu lại những ghi chép của mình dưới dạng mật mã, đó là hình thức chữ viết ngược như đối xứng qua một tấm gương. Thật là thích thú khi suy đoán rằng nếu Leonardo mà hoàn tất các dự án đầy tham vọng và nếu có ý cho in và công bố công trình, thì hẳn ông ta đã cách mạng hóa nhiều ngành khoa học. Thay vào đó, di sản của Leonardo lại được đánh giá “là một tấm gương thất bại của sự vĩ đại”, bởi vì những cái gì chưa được biết, chưa hoàn tất và chưa sắp xếp thì không được coi là sự đóng góp cho khoa học. Dĩ nhiên, việc coi Leonardo là nhân vật điển hình cho thời đại là không thực tế, mặc dù ông ta có nhiều người cùng thời xuất sắc. Tuy nhiên, công trình của Leonardo cho thấy tầm vóc các tư tưởng và sự nghiệp của con người thiên tài này có thể đạt được từ các cơ sở vật chất hiện diện vào thế kỷ 15.
Leonardo, là đứa con không được thừa nhận của một phụ nữ nông thôn và một luật sư người Florence, đã lớn lên trong chính ngôi nhà của cha mình. Khi được 14 tuổi, Leonardo học việc với Andrea del Verrochio (1435-1488), là họa sĩ, điêu khắc và là bậc thầy lỗi lạc nhất về nghệ thuật tại Florence. Verrochio buộc mọi học trò đều phải học giải phẫu học. Trong vòng 10 năm, Leonardo được thừa nhận là một họa sĩ xuất sắc và tìm được nhiều nhà bảo trợ giàu có và quyền lực. Mặc dù có những lợi thế này, Leonardo sống một cuộc đời đầy hiếu động và phiêu lưu, phục vụ cho nhiều ông chủ, bị truy tố vì tội quan hệ đồng tính, bắt đầu rồi bỏ đi vô số các dự án về máy móc, tượng, và sách. Chính nghệ thuật trước hết đã đưa Leonardo vào lĩnh vực mổ xẻ, nhưng trong 50 năm ròng rã, với một sự say mê khác thường ông ta đã kiên trì theo đuổi việc nghiên cứu giải phẫu học động vật và con người, đã mổ xác lợn, bò, ngựa, khỉ, côn trùng và nhiều thứ khác. Được phép nghiên cứu các xác chết tại một bệnh viện ở Florence, người họa sĩ đã nhiều đêm không ngủ với các xác chết chung quanh. Khi lên kế hoạch soạn một chuyên luận có tính cách mạng về giải phẫu học, Leonardo đã mổ khoảng 30 cái xác trong đó có một thai nhi 7 tháng và một người đàn ông rất già.
Những nghiên cứ về giải phẫu học bên ngoài của cơ thể người chắc chắn sẽ khiến Leonardo phải khảo sát về giải phẫu học nói chung, giải phẫu học đối chiếu và các thực nghiệm sinh lý học. Qua mổ xác và thực nghiệm, Leonardo tin tưởng rằng mình có thể tìm ra được các cơ chế chi phối sự chuyển động và thậm chí của cuộc đời nữa. Leonardo dựng lên các mô hình để nghiên cứu cơ chế hoạt động của các cơ và van tim và thực hiện việc mổ sống xác để xem quả tim đập như thế nào. Chẳng hạn, ông ta xoi một cái lỗ qua thành ngực của một con lợn và lấy kim banh vết mổ ra, rồi quan sát sự co bóp của quả tim. Mặc dù công nhận rằng quả tim thực sự là một cơ quan rất mạnh, Leonardo chấp nhận quan điểm của Galen về chuyển động và sự phân phối máu, kể cả những lỗ thông tưởng tượng ở vách tim. Cũng giống như nhiều dự án khác của mình, quyển sách lớn Leonardo về giải phẫu học của “con người tự nhiên” vẫn còn dang dở. Khi ông chết đi, các bản thảo vương vãi tại nhiều thư viện, và một số có lẽ đã thất lạc.
Tin tưởng rằng tất cả mọi vấn đề đều có thể giản lược bằng cơ học và toán học, Leonardo coi thường môn chiêm tinh và giả kim thuật và không tin vào y học. Thật vậy, ông ta cho rằng cách dễ dàng nhất để duy trì sức khỏe là không nên gặp bác sĩ và dùng thuốc của họ. Giống như Cato và Pliny, ông tố cáo các thầy thuốc là những kẻ “hủy diệt sự sống”, những người chỉ theo đuổi sự giàu có dù không đủ sức đưa ra một chẩn đoán chắc chắn. Tuy nhiên, những quyển sổ tay của Leonardo chứa các đơn thuốc không kém phần kỳ dị như tất cả các bài thuốc Galenic, chẳng hạn như trộn nào là hạt dẻ, lớp vỏ cứng của hạt quả và đậu Hà Lan để làm vỡ sỏi trong bàng quang.
ANDREAS VESALIUS BÀN VỀ CẤU TRÚC CƠ THỂ CON NGƯỜI
Cũng giống như Copernicus và Galileo cách mạng hóa các tư tưởng về chuyển động của Trái đất và các thiên thể, Andreas Vesalius (15141564) đã làm thay đổi các quan niệm của phương Tây về cấu trúc cơ thể con người. Chuyên luận lớn của Vesalius, Cấu trúc cơ thể con người (De humani corporis fabrica), xuất hiện năm 1543, năm mà Nicolaus Copernicus (1473-1543) công bố công trình Bàn về chuyển động của các thiên thể (On the Revolutions of the Heavenly Spheres) trong đó đặt cho Mặt trời, thay vì Trái đất, giữ vị trí trung tâm của vũ trụ. Vesalius là người kế thừa truyền thống y học nhân văn là truyền thống đã phát hiện lại các công trình nguyên bản của Hippocrates và Galen. Ông cũng là người thuộc thế hệ đầu tiên các học giả có khả năng tiếp cận toàn bộ các công trình của Galen. Tác phẩm, The Fabrica, được coi là chuyên luận giải phẫu học đầu tiên dựa trên sự quan sát trực tiếp cơ thể con người, cho tới nay vẫn được nhìn nhận là một cột mốc trong lịch sử môn giải phẫu học. Để vinh danh vị trí của tác phẩm này trong lịch sử Tây y, năm 1998, các học giả bắt đầu công bố toàn bộ 5 tập bản dịch tiếng Anh của ấn bản The Fabrica đầu tiên.
Căn cứ trên tầm vóc của công trình, có thể xem Vesalius là một học giả và nhà nhân văn cổ điển, cũng như là một thầy thuốc, nhà giải phẫu và họa sĩ. Tuy nhiên, khác với Linacre và Caius, Vesalius có khả năng bác bỏ những sai lầm của các bậc tiền bối một cách minh bạch và công khai. Qua sự thông thái và tận mắt quan sát, ông ta nhận ra rằng cơ thể con người phải được đọc từ “quyển sách cơ thể con người”, chứ không phải từ những trang sách do Galen viết. Hết sức khiêm tốn, Vesalius cho rằng công trình của mình là một bước tiến thực sự đầu tiên về mặt hiểu biết giải phẫu học kể từ thời Galen.
Căn cứ theo lá số tử vi do một thầy thuốc Girolamo Cardano người Milan chấm, thì Andreas Vesalius sinh ngày 31 tháng 12 vào lúc 5 giờ 45 phút sáng tại Brussels, Bỉ. Vesalius sinh ra trong một gia đình có nhiều thầy thuốc, dược sĩ và được Hoàng gia bảo trợ. Bố là Dược sĩ triều đình cho vua Charles V và thường được tháp tùng Hoàng đế trong các chuyến đi. Từ khi còn trẻ, Vesalius đã bắt đầu tự nghiên cứu giải phẫu học bằng cách mổ xác chuột và các động vật nhỏ. Mặc dù từng học tại cả đại học Paris và Louvain, những trường vốn nổi tiếng vì có quan điểm bảo thủ cực đoan, nhưng tính tò mò bẩm sinh của ông không hề bị suy giảm vì được học cao.
Andreas Vesalius, Cấu trúc cơ thể con người.
Khi còn học tại đại học Paris, Vesalius làm trợ lý cho Jacobus Sylvius (1478-1555), người có quan điểm cực kỳ bảo thủ, coi việc mổ xác con người chỉ là một phương tiện để theo đuổi các nghiên cứu theo quan điểm của Galen. Đáng tiếc là do bầu không khí ở Paris quá bất ổn cho nên Vesalius đành phải lánh đi và không lấy được bằng cấp gì cả. Vào mùa thu năm 1537, Vesalius ghi tên vào trường y của đại học Padua, vốn là một trường có uy tín nhưng mới được khai sáng tương đối. Ông được cấp bằng bác sĩ vào tháng 12 năm 1537 và được bổ nhiệm làm giảng nghiệm viên về giải phẫu và phẫu thuật. Không làm theo các giáo sư truyền thống, Vesalius vừa mổ xác vừa giảng bài. Những bài học trong khi mổ xác đã làm bận rộn nhà giải phẫu và cử tọa từ sáng đến đêm khuya liền trong ba tuần lễ. Để hạn chế tối thiểu vấn đề thối rữa xác, các cuộc mổ xác được sắp xếp vào mùa đông. Nhiều xác chết được mổ cùng một lúc để cho nhiều bộ phận khác nhau được trình bày một cách rõ ràng. Các cuộc giải phẫu bắt đầu bằng việc nghiên cứu bộ xương, sau đó đến phần cơ, mạch máu, thần kinh, các tạng trong bụng và lồng ngực, và bộ não.
Đến năm 1538, Vesalius bắt đầu nhận thấy có sự khác biệt giữa giải phẫu học của Galen và những quan sát của chính mình, nhưng khi một nhà giải phẫu trẻ tuổi dám thách thức Galen, thì Vesalius chửi anh sinh viên này là “thằng điên”, đồ mang rác rưởi cặn bã, ma cô, đồ nói láo và nhiều tên gọi khác không thể in ra được ngay cả trong thời đại cởi mở của chúng ta hiện nay. Nhưng Vesalius lại bảo các học trò rằng họ có thể học nhiều điều ở tiệm bán thịt hơn là trong bài giảng của một số giáo sư đần độn. Khi nói về tài mổ xác của thầy mình, Vesalius nói rằng Sylvius và con dao của ông ta khéo léo trên bàn tiệc hơn là trong phòng mổ xác. Năm 1539, Marcantonio Contarini, một quan tòa của tòa hình sự Padua, thấy thích thú công trình của Vesalius đến nỗi ông tặng xác các phạm nhân bị hành hình cho trường đại học và sẵn lòng bố trí thời gian hành hình để thuận tiện cho công việc của nhà giải phẫu.
Cuối cùng để đánh dấu độc lập của mình đối với Galen, Vesalius bố trí một buổi giảng bài - mổ xác công khai để trình bày trên 200 điểm khác biệt giữa bộ xương của người và khỉ, và nhắc cho công chúng biết rằng công trình của Galen dựa trên việc mổ xác khỉ. Các phản ứng thù nghịch của những người theo Galen xảy ra là điều không tránh khỏi. Các nhà giải phẫu học theo Vesalius bị dèm pha là “Bọn Luther của ngành thuốc” vì lẽ những tư tưởng lệch lạc của các nhà sáng tạo y học này cũng gây nguy hiểm như các tư tưởng lạc đạo của Martin Luther’s (1483-1546) đối với tôn giáo. Chán với việc tranh luận, Vesalius đầu quân làm ngự y cho vua Charles V, là Hoàng đế đế quốc La Mã thần thánh và vua Tây Ban Nha, là người mà ông ta đề tặng bộ The Fabrica. Chẳng bao lâu sau đó, Vesalius phát hiện rằng công việc của triều đình cũng đáng ghét như trong thế giới hàn lâm đầy bão táp.
Sự bảo trợ của một vị vua, Giáo hoàng, hoặc một quý tộc giàu có có thể giúp cho nhà khoa học tiếp tục công việc của mình, nhưng những nhà bảo trợ đó lắm khi là những bệnh nhân khó tính và hay hạch sách. Vua Charles V bị bệnh thống phong, hen suyễn và một loạt các triệu chứng mơ hồ khác trở nặng do nhà vua ưa dùng thuốc của bọn lang băm. Hơn thế nữa, vua thường cho các triều đình khác mượn ngự y. Vì thế, khi vua Henry II của Pháp bị chấn thương khi cưỡi ngựa đấu thương, Vesalius và phẫu thuật gia người Pháp Ambroise Paré, là những thầy thuốc được mời tham vấn. Sử dụng 4 cái đầu của phạm nhân bị xử trảm, Paré và Vesalius tiến hành thử nghiệm để xác định bản chất của thương tổn. Họ đã dự báo đúng đây là vết thương gây tử vong. Theo một truyền thuyết đáng ngờ nhưng cứ tồn tại, Vesalius đi hành hương sang đất Thánh để rũ bỏ nhiệm vụ phục vụ Hoàng đế, hoặc để sám hối vì đã làm một cuộc mổ xác giảo nghiệm khi nạn nhân chưa chết hẳn. Vesalius có thể lấy cớ hành hương nhằm thăm dò khả năng quay trở lại chiếc ghế giáo sư tại Padua. Đáng tiếc là ông ta chết trên đường trở về.
Mặc dù đắm sâu trong môi trường học thuật hàn lâm đầy bảo thủ của thời đại, nhưng Vesalius đối đầu và gạt bỏ thẩm quyền của Galen và đòi hỏi các nhà giải phẫu học chỉ nghiên cứu “quyển sách con người hoàn toàn đáng tin cậy”. Sự vỡ mộng của Vesalius đối với Galen xảy ra khi Vesalius phát hiện rằng Galen chưa bao giờ mổ xác người. Tuy nhiên, một tác phẩm nhỏ, “Thư về cách trích máu”, cho thấy những vấn đề thực tiễn liên quan đến việc trích máu đã buộc Vesalius phải nhìn lại học thuyết của Galen. Trích máu là một chủ đề gây tranh luận kịch liệt giữa các thầy thuốc vào thế kỷ 16. Không ai đề nghị bỏ cách trích máu; đúng hơn là, các nhà nhân văn trong y học tấn công cái mà họ gọi là các phương pháp sai lệch của người Ả Rập và yêu cầu phải quay về với những lời dạy thuần khiết của Hippocrates và Galen.
Rủi thay, ngay cả sau khi “thanh lọc những nội dung không thuần khiết”, các lời dạy của Galen về hệ thống tĩnh mạch vẫn còn tối nghĩa. Khi các tài liệu của Hippocrates không thống nhất với nhau và đối nghịch với Galen, thì ai có thẩm quyền cho người thầy thuốc biết chọn chỗ nào để trích máu, lấy bao nhiêu máu, lấy máu nhanh hay chậm, và bao lâu thì lặp lại? Trăn trở với những câu hỏi này, Vesalius bắt đầu suy nghĩ liệu những thực tế căn cứ trên khảo sát giải phẫu học có thể được dùng để chứng minh các giả thuyết có đúng hay không. Không thể bỏ qua được các kết quả liên quan giữa các nghiên cứu giải phẫu học và kinh nghiệm lâm sàng của mình, Vesalius càng ngày càng khó chịu với các nhà nhân văn y học. Ông ta không thể nào dung thứ cái cách mà họ gạt bỏ những công trình chân chính về cơ thể con người trong khi tranh cãi về “lông vũ của ngựa và những chuyện tầm phào”.
Bộ sách Cấu trúc của cơ thể con người là một cố gắng mang tính cách mạng nhằm mô tả cơ thể con người như thực có mà không phải ngả theo Galen khi có thể học được chân lý qua cách mổ xác. Vesalius cũng chứng minh là sự chính xác về giải phẫu học có thể diễn đạt bằng lời và minh họa. Khoảng 250 bản khắc gỗ được chuẩn bị công phu và được đưa vào tài liệu để bổ sung và làm rõ những vấn đề được mô tả trong phần viết. Điều nực cười là những kẻ công kích về tài liệu giải phẫu học của Vesalius đã tấn công bộ sách The Fabrica, cho rằng các tranh minh họa không đúng, lệch lạc, và làm cho người học xao nhãng việc quan sát trực tiếp. Trên thực tế, tầm quan trọng của sự mổ xác được nhấn mạnh trong toàn bộ quyển sách và có những chỉ dẫn cẩn thận cách chuẩn bị xác để mổ như thế nào và các dụng cụ cần có để thực hiện chính xác cho từng mẫu nghiệm giải phẫu học.
Bộ The Fabrica chủ ý là dành cho các nhà giải phẫu học chuyên sâu, nhưng Vesalius cũng soạn ra một bộ ngắn, ít lời hơn, gọi là Sách Giản Lược (The Epitome) để giúp cho sinh viên y khoa có thể nhận thức được “sự hài hòa của cơ thể con người”. Sách giản lược có 7 bản khắc trình bày xương, cơ, các bộ phận bên ngoài, thần kinh, tĩnh mạch và động mạch, và tranh vẽ các cơ quan nhằm giúp cho người đọc có thể tra cứu, cắt ra và ghép lại. Các tài liệu viết và minh họa của Vesalius bị người ta đạo văn và phát tán rộng rãi, phần lớn đó là những bản dịch và bảng tóm tắt chất lượng kém và thường không trích dẫn nguyên bản.
Để trả lời với những ai công kích mình, Vesalius vạch mặt những kẻ
“tự phong mình là Prometheus” tức là những người cứ khư khư cho rằng Galen luôn luôn đúng còn những sai lầm trong tác phẩm của ông này là bằng chứng cho sự thoái hóa của cơ thể con người kể từ thời đại cổ điển. Vesalius tuyên bố, những người ủng hộ Galen, không phân biệt được giữa đốt xương cổ tay thứ 4 với hạt đậu Hà Lan, nhưng lại muốn tiêu hủy công trình của ông cũng giống như những người trước họ đã phá hủy công trình của Herophilus và Erasistratus. Nhớ lại mình đã từng chịu ảnh hưởng của Galen, Vesalius thừa nhận rằng ông ta thường giữ bên mình một cái đầu bò để chứng minh cái mạng lưới kỳ diệu (rete mirabile), một hệ thống mạch máu mà Galen đã xếp vào phần đáy của bộ não con người. Khi không thể tìm ra mạng mạch máu này trên các xác người, các nhà giải phẫu học đã chống chế sự không nhất quán này bằng cách quả quyết rằng cấu trúc này biến mất ngay sau khi chết. Cuối cùng khi Vesalius cho rằng Galen có thể sai lầm, ông mới công khai tuyên bố rằng mạng lưới mạch máu này không có ở người.
Ngược lại với thái độ cách mạng trong môn giải phẫu học, Vesalius không đi xa hơn Galen và Aristotle mấy về phương diện sinh lý học và phôi thai học. Ông đã mô tả hết sức chi tiết cấu trúc của quả tim, động mạch, tĩnh mạch, và nghi ngờ phát biểu của Galen cho rằng máu đi từ tim phải sang tim trái qua các lỗ thông ở vách tim, nhưng sự chuyển động của máu vẫn còn chưa rõ. Vì thế, nếu Galen bị thách thức về các chi tiết giải phẫu học, thì toàn bộ các học thuyết về sinh lý học và giải phẫu học vẫn không bị suy suyển. Lấy ví dụ, sau khi loại bỏ sự hiện diện của mạng lưới kỳ diệu (rete mirabile) trên người, Vesalius phải tìm một vị trí để thay thế nơi nào sinh ra sinh dịch (animal spirits).
Khi giải thích các tài liệu của Galen về tiến trình sinh ra linh hồn này, Vesalius kết luận rằng theo Galen chỉ có một phần của tiến trình này xảy ra ở mạng lưới kỳ diệu; những sự thay đổi cuối cùng có thể liên quan đến não bộ và các não thất. Vì thế, Vesalius có thể gán cái chức năng của mạng lưới kỳ diệu -vốn không hề hiện diện - cho toàn bộ các động mạch ở não nằm chung quanh.
Các sử gia đều nhất trí cho rằng việc nghiên cứu giải phẫu học đã là nền tảng của Tây y từ thế kỷ 16. Được nền giải phẫu học kiểu mới của Vesalius gợi ý, các thầy thuốc tập trung quan sát trực tiếp cơ thể con người như là phương tiện duy nhất cung cấp các kiến thức chính xác về giải phẫu học. Nhưng kiến thức về giải phẫu học và quyền được mổ xác người cũng đóng vai trò như một phương tiện để hình thành một bản sắc nghề nghiệp độc đáo và khẳng định quyền lực trên sự sống chết của người bệnh. Tuy nhiên, việc đặt nặng vấn đề giáo dục y khoa đòi hỏi phải có mổ xác người đã làm tăng thêm sự căng thẳng giữa cái nhu cầu lúc nào cũng cần có xác và thành kiến phổ biến phản đối việc mổ xác người. Mãi cho đến thời gần đây, các nhà giải phẫu học thường bị buộc phải sử dụng các phương pháp nguy hiểm và bất hợp pháp mới lấy được xác. Khi còn là sinh viên y khoa tại Paris, Vesalius phải giành giật với lũ chó hoang để nhặt lấy xương người trong Nghĩa địa những người vô tội (Cemetery of the Innocents). Tại Louvain, ông ta đánh cắp hài cốt của một tay cướp bị cột vào giá treo cổ và dấu xương của người này dưới áo khoác của mình để đem vào thành phố. Những trường hợp đào mộ lấy xác đã được báo cáo mỗi khi Vesalius thực hiện các bài giảng giải phẫu học nổi danh của mình. Một nhóm sinh viên tinh quái đã kiếm được một cái xác, cho mặc quần áo và dựng chiến lợi phẩm của mình vào phòng mổ xác như thể đấy là một sinh viên say xỉn được dìu vào lớp học. Mặc dù những câu chuyện trên nhằm thêu dệt tính bạo dạn của các nhà giải phẫu học xông xáo, đối với người dân thường thì việc bị cho là cá mè một lứa với bọn đao phủ và bọn đào mồ cướp xác là một sự sỉ nhục và nguy hiểm cho các nhà giải phẫu học. Khi đủ may mắn tìm được xác, thì họ phải đối diện với các nguy hiểm nghiêm trọng khi mổ xác, bởi vì với một vết đứt da dù rất nhỏ cũng có thể trở thành một nhiễm trùng chết người.
Nhiều năm sau khi đa số các nước châu Âu ban hành các điều luật liên quan đến việc nghiên cứu giải phẫu học, thì tại nước Anh, Canada và Mỹ phần lớn vật liệu dùng để giảng dạy giải phẫu học cơ bản vẫn dựa trên nguồn xác nhặt nhạnh. Các nhà giải phẫu học quá rụt rè không dám tự tìm xác đành phải nhờ vả đến những tay đầu nậu gọi là “lũ khai quật” hoặc bọn “cho vào bao tải” cung cấp xác chết bằng cách đào mộ, moi xác và giết người. Tại nước Anh, theo “Đạo luật về án mạng” do vua George II ban hành, thi thể của những tội phạm gớm ghiếc đáng tội chết và mổ xác thì được tặng cho Viện Phẫu thuật Hoàng gia như kiểu “một dấu hiệu ô nhục đặc biệt cộng thêm vào hình phạt”. Khi đạo luật về Giải phẫu học năm 1832 của nước Anh ra đời, cho phép nhà nước giao xác những dân đen chết vô thừa nhận cho các trường y khoa, thì sự nghèo khó dường như bị phân biệt đối xử nặng nề như sự phạm tội. Cũng khá là thú vị khi ghi nhận rằng Dự án Hiển thị Cơ thể Con người (Visible Human Project) bắt đầu qua việc sử dụng các xác của một phạm nhân 39 tuổi bị xử tử hình bằng cách tiêm thuốc độc vào năm 1993. Cái xác được làm đông lạnh, cắt thành từng lát và chuyển thành hình ảnh một con người đầu tiên được số hóa. Ngày nay, Dự án Hiển thị Cơ thể Con người của Thư viện Y học Quốc gia cung cấp ảnh quét và hình ảnh số hóa vô giá các lát cắt dọc của một xác đàn ông và một xác đàn bà.
Phần dưới của tiểu não được mô tả trong bộ The Fabrica, 1543.
Các thầy thuốc người Mỹ cũng cố gắng xây dựng một nét riêng về nghề nghiệp qua kiến thức giải phẫu học. Điều này giúp hình thành một thứ chợ đen xấu xa buôn bán xác chết. Theo gương nước Anh, các thầy thuốc đã vận động thành công các đạo luật cung cấp xác người nghèo cho các trường y khoa. Nhưng các câu chuyện đầy tai tiếng về giành giật xác và những trò đùa quái ác trong phòng mổ xác đã làm cho công chúng phẫn nộ. Những người ủng hộ việc nâng cao chất lượng đào tạo y khoa và phẫu thuật buộc phải nhắc nhở các nhà làm luật và dân chúng rằng nếu các bác sĩ không thực hành trên xác chết, thì sau này họ sẽ học nghệ thuật chữa bệnh bằng sự trả giá của các bệnh nhân của họ. Phương châm bằng tiếng Latin được các Bác sĩ Pháp y và Khoa Bệnh học khắp thế giới thường dùng - “Hic locus est ubi mors gaudet succurrere vitae” - (Đây là nơi mà người chết sẵn lòng giúp đỡ người sống) - đã nhấn mạnh được những tri thức mà các thầy thuốc và nhà nghiên cứu đạt được qua việc mổ xác.
Vào đầu thế kỷ 20, môn giải phẫu tổng quát đã là thành phần cơ bản trong chương trình đào tạo của mỗi trường y khoa tại Mỹ. Vào cuối thế kỷ 20, số giờ dành cho việc đào tạo chính thức về giải phẫu học đã giảm đi nhiều và tình trạng thiếu giáo viên trở nên quan trọng hơn là vấn đề kiếm cho ra xác để mổ. Nhiều nhà giáo dục y khoa lập luận rằng các hình quét số hóa và những hình thức trình bày cơ thể con người dạng ba chiều sẽ đóng vai trò giáo cụ tốt hơn là cách mổ xác truyền thống, mặc dù các mô hình được chuẩn hóa sẽ bỏ sót những điểm biến thiên của giải phẫu học con người. Những người khác thì nhấn mạnh rằng việc mổ xác người là một khía cạnh không thể thiếu được để truyền đạt bài học sự ngắn ngủi của đời người và ý nghĩa khi trở thành thầy thuốc. Nhà giải phẫu học người Pháp Marie François Xavier Bichat (1771-1802) nhấn mạnh tầm quan trọng khi làm phẫu nghiệm. Ông ta viết “Mở banh một vài cái xác ra, ngay lập tức anh sẽ xua đi sự tối tăm mà nếu chỉ có quan sát đơn thuần thì không thể làm được”.