← Quay lại trang sách

Y HỌC VÀ PHẪU THUẬT

Có ít nhất một điểm quan trọng mà Galen và Vesalius hoàn toàn nhất trí với nhau. Cả hai đều cho rằng y học và giải phẫu học đã suy đồi bởi vì các thầy thuốc từ bỏ không làm phẫu thuật và mổ xác. Trong suốt thời Trung cổ, sự khác biệt giữa y học thực hành và lý thuyết đã bị các thầy thuốc thông thái phóng đại, và do các phân khoa của trường đại học nắm giữ quyền lực cho nên sự căng thẳng này càng thêm trầm trọng. Để nâng cao phẩm cách của khoa y, các tư tưởng lý thuyết, luận lý và phổ quát có liên quan đến bản chất con người đều được nhấn mạnh với cái giá phải trả là làm giảm giá trị của các mặt kinh nghiệm và quá mang tính máy móc của nghệ thuật chữa bệnh. Trong lúc cuộc Cách mạng Khoa học không mang lại mấy thay đổi trong thực hành y khoa, ngay cả các vị thầy thuốc được đào tạo uyên thâm nhất cũng bắt đầu tỏ ý hoài nghi. Thay vì thừa nhận những hạn chế của chính mình, các thầy thuốc lại cứ bám lấy cái ảo tưởng là các quy luật và nguyên tắc của y học là không thể nào sai được, còn các sai sót thì cứ đổ lỗi cho bệnh nhân và người bào chế thuốc.

Tuy nhiên trong giai đoạn này, người bệnh vẫn còn có thể chọn các dạng thầy thuốc chuyên biệt của một lĩnh vực nào đó sao cho phù hợp với túi tiền và cách cảm nhận của chính họ về tình trạng bệnh tật của mình. Có bằng chứng cho thấy người bệnh mong đợi thầy thuốc mà họ thuê đem lại các kết quả đáng kể. Lấy một ví dụ, trong các hồ sơ Protomedicato, một bộ phận pháp lý của trường Y khoa Bologna, có chứa hồ sơ những vụ án mà bệnh nhân kiện thầy thuốc đã phá vỡ hợp đồng. Tức là, người thầy thuốc ký kết trong hợp đồng là sẽ chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, nếu thầy thuốc đúng là bác sĩ, thì tòa án chuẩn y số tiền phải trả cho dịch vụ chứ không phải cho kết quả, vì lẽ bác sĩ là các nhà chuyên môn chứ không phải dân thợ thủ công.

Các thầy thuốc có thể tham gia vào những cuộc tranh luận ngày càng rắc rối về bản chất và nguyên nhân của bệnh, nhưng việc điều trị lại tụt hậu rất nhiều so với các lý thuyết mới mẻ nhất của họ. Những người dân thường thông thái và hoài nghi nhận xét là sự sống và cái chết dường như chẳng liên quan gì đến việc chữa trị y khoa. Một vị vua có thể có những thầy thuốc nổi tiếng nhất trên thế giới, nhưng khi bị bệnh, những cơ hội hồi phục của nhà vua cũng chẳng khá hơn gì một anh nông dân không tìm được bác sĩ. Khi trị liệu là khâu yếu nhất trong y học, thì sự an ủi tâm lý là đóng góp chính của thầy thuốc. Nếu thế, thì lang băm đem lại nhiều an ủi hơn, và giá cả cũng rẻ hơn.

Mặc dù phẫu thuật và y khoa không thể tách rời nhau hoàn toàn, nhưng truyền thống và luật pháp đã phân rõ cương vực quyền hạn của những người hành nghề. Theo quy định chung, các nhà phẫu thuật được yêu cầu giải quyết những gì nằm ở ngoài cơ thể còn thầy thuốc thì những thứ nằm ở bên trong. Các nhà phẫu thuật xử lý các vết thương, gãy xương, trật khớp, sỏi bàng quang, cắt chi, bệnh ngoài da và bệnh giang mai. Họ thực hiện việc trích huyết dưới sự hướng dẫn của thầy thuốc, nhưng lại phải hỏi ý kiến của thầy thuốc khi kê đơn chăm sóc hậu phẫu. Hành nghề ngoại khoa tự nó được phân theo các khu vực riêng rẽ tùy thuộc theo địa vị, khả năng và đặc quyền giữa các nhà phẫu thuật, phẫu thuật-thợ cạo và thợ cạo.

Các thầy thuốc được đào tạo từ trường đại học chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi những người truyền bá kiến thức về nghệ thuật điều trị, nhưng họ rất quan tâm đến địa vị của nghề y. Các thầy thuốc tự cho mình là người của văn học. Nhắc lời của Galen, họ lý luận “Người thầy thuốc giỏi trước hết phải là triết gia”. Các thầy thuốc cho rằng y học là một khoa học phải được học từ các tài liệu cổ điển, chứ không phải qua kinh nghiệm như thể một nghề thủ công. Thầy thuốc ưu tú có thể đòi hỏi mức lương cao hơn nhiều lần so với phẫu thuật viên. Sự cách biệt về địa vị giữa thầy thuốc và phẫu thuật viên cũng bộc lộ rõ trong các dịch vụ mà họ cung cấp. Lấy ví dụ, nghĩ rằng công việc tại các y viện chữa trị bệnh dịch hạch là một dạng của án tử hình, cho nên thầy thuốc đứng ở ngoài nhà và hô to các chỉ dẫn cho các phẫu thuật viên ở bên trong khám và điều trị cho bệnh nhân. Mặc dù nhiệm vụ đầy rủi ro như thế, thù lao cho các phẫu thuật viên không nhiều. Cụ thể, một phẫu thuật viên trẻ tập sự được bổ nhiệm tới y viện chữa bệnh dịch hạch năm 1631 (sau khi có hai phẫu thuật viên chết vì dịch hạch) sau đó chỉ được cấp đủ tiền mua một bộ quần áo mới để thay cho bộ quần áo cũ được đem đốt đi vì anh ta đã mặc qua 8 tháng khi làm việc tại y viện. Nếu người ốm không đủ tiền mời thầy thuốc hoặc phẫu thuật viên, thì họ có thể nhờ đến người bán thuốc, là người chạy được cái độc quyền bào chế và bán thuốc.

Tại nhiều địa phương, giấy phép hành nghề y được cấp dựa trên quá trình đào tạo hoặc qua một kỳ thi kiểm tra kỹ năng thực hành. Các thầy thuốc uyên bác xem hình thức cấp giấy phép sau này là một lỗ hổng qua đó những kẻ cạnh tranh vô học, dốt nát tìm cách được luật pháp công nhận. Lỗ hổng này - việc chứng minh khả năng và kinh nghiệm- tỏ ra rất quan trọng đối với phụ nữ, bởi vì họ không có con đường để lấy bằng cấp đại học. Phần lớn các thầy thuốc phụ nữ là vợ góa của các thầy thuốc và phẫu thuật viên, nhưng một số lại được phép hành nghề nhờ khả năng điều trị một số vấn đề nào đó. Thầy thuốc phụ nữ đôi khi còn được nhà chức trách y tế tuyển dụng để chăm sóc các bệnh nhân nữ bị quản thúc trong các y viện dịch hạch khi xảy ra các vụ dịch dịch hạch.

Ngày nay, chuyên khoa hóa được coi là một dấu hiệu trưởng thành trong sự tiến hóa nghề nghiệp. Tuy nhiên, trước đây không lâu, “bác sĩ chuyên khoa” như người chữa bệnh mắt, thầy nắn gân, và người lấy sỏi có nhiều khả năng chỉ là người làm quen tay hơn là các thầy thuốc được đào tạo. Các thầy thuốc được cấp phép luôn than phiền là bị một lũ các tay thợ dốt nát cạnh tranh. Không phải người dân thường có học nào cũng đồng ý với cách đánh giá của các thầy thuốc cho rằng có sự khác biệt giữa thầy thuốc và người chữa bệnh theo kinh nghiệm. Cụ thể, có nhận xét là trong những năm xảy ra dịch hạch, nhiều người tin rằng phần lớn những gì mà các bác sĩ uyên bác viết ra chỉ mang lại “nhiều khói mù” nhưng “ít ánh sáng”.

AMBROISE PARÉ VÀ NGHỆ THUẬT PHẪU THUẬT

Dĩ nhiên, sự giáo dục, đào tạo, vị trí xã hội và địa vị pháp lý của các thầy thuốc và phẫu thuật viên thay đổi khá nhiều tại châu Âu. Nhưng hầu như ở đâu cũng vậy, chiến tranh mang lại cơ hội vàng cho các phẫu thuật viên xông xáo; chiến trường bao giờ cũng là trường y khoa lớn nhất. Trong một môi trường như vậy, đã tạo điều kiện cho Ambroise Paré (15101590) vốn là một phẫu thuật viên-thợ cạo không được học hành, tự đào sâu suy nghĩ, học bằng kinh nghiệm và mang lại niềm kiêu hãnh và phẩm cách cho nghệ thuật ngoại khoa. Đối với Paré, ngoại khoa là một sứ mệnh thần thánh mặc cho địa vị xã hội thấp kém của những người hành nghề này. Được người cùng thời đánh giá là người độc lập, hòa nhã, hăng hái và nhiều tham vọng, Paré khá là trung thực khi thừa nhận rằng những đóng góp lớn của ông cho phẫu thuật thật ra khá đơn giản và cũng không thật sự độc đáo. Tuy nhiên, quyết tâm muốn tách rời khỏi truyền thống và can đảm thực hiện những phương pháp đi từ các nhận xét của chính mình đã dẫn tới sự Phục hưng chung trong ngành phẫu thuật. Khác với các thế hệ trước gồm những người thợ thủ công có nhiều sáng kiến, Paré và đồng nghiệp có thể bước ra khỏi chốn tối tăm là nhờ ngành in tạo điều kiện cho họ xuất bản những tài liệu phổ thông bằng tiếng địa phương. Sinh thời, các tài liệu của Paré được sưu tập và in lại nhiều lần và được dịch ra tiếng Latin, Đức, Anh, Hà Lan và Nhật. Là người luôn sẵn lòng học hỏi từ các bậc tiền bối thời cổ đại, các thầy thuốc và phẫu thuật viên cùng thời, hoặc thậm chí những lang băm có một cách điều trị hứa hẹn, nhưng Paré lại là người rất sùng đạo, chỉ thừa nhận có một thẩm quyền cuối cùng duy nhất.

Không có nhiều thông tin về thời thơ ấu cũng như quá trình đào tạo của Paré. Ngay cả ngày sinh và tôn giáo của Paré cũng không chắc chắn. Paré ít khi cho biết về việc đào tạo và học việc của mình, chỉ nói rằng ông đã sống ở Paris 3 năm trong khoảng thời gian 9 hoặc 10 năm ông theo học môn phẫu thuật. Mặc dù nói rằng tập sự là thời gian để học tập, nhưng học trò lắm khi lại bị các ông thầy lợi dụng thậm tệ mà quên đi nhiệm vụ phải dạy dỗ. Để có thêm kinh nghiệm thực hành, Paré làm việc tại bệnh viện Hôtel Dieu, nơi có nhiều dạng bệnh cũng như cơ hội để tham gia làm phẫu nghiệm và trình bày giải phẫu học. Bệnh viện hoạt động trong điều kiện rất tồi tệ, đến nỗi có một mùa đông nọ, 4 bệnh nhân bị lạnh cóng đầu mũi và Paré phải làm phẫu thuật cắt mũi.

Các tài liệu về phẫu thuật của Paré cho ta thấy những hình ảnh mạnh mẽ và mủi lòng về những cảnh hãi hùng của chiến tranh cũng như mô tả các loại vết thương do hỏa khí gây ra không có ở thời Hippocrates và Galen. Sau một trận chiến, mùi của xác chết thối rữa nồng nặc trong không khí, các vết thương lên mủ, bốc mùi và đầy giòi bọ. Quá thường gặp các trường hợp thương binh bị chết vì không có gì để ăn và không ai chăm sóc hoặc vì các phương tiện cứu chữa quá nghèo nàn. Lấy ví dụ, các phẫu thuật viên tin rằng cách điều trị tốt nhất cho các vết dập nhẹ là nghỉ ngơi, trích huyết, giác hút, và thuốc ra mồ hôi. Những cách trị liệu nhẹ nhàng và tốn nhiều thời gian như thế phù hợp cho các sĩ quan và quý tộc, nhưng với lính thường là đa số chỉ được quấn lại bằng vải, đắp lên ít rơm, và sau đó vùi trong phân ngập đến cổ để làm toát mồ hôi.

Như Francis Bacon nhận xét, các khí giới sử dụng thuốc súng là một trong những phát minh làm rung chuyển thế giới mà thời cổ đại chưa hề biết. Mặc dù thuốc súng được đưa đến châu Âu từ thế kỷ 13, nhưng mãi đến thế kỷ 14 thì hình ảnh những khẩu pháo thô sơ mới thấy xuất hiện. Vì vậy, để hợp lý hóa cách điều trị các vết thương do hỏa khí thuốc súng, các thầy thuốc phải dựa vào cách loại suy. John of Vigo (1460-1525), một trong những người đã viết chuyên về các vấn đề ngoại khoa của dạng chiến tranh mới, cho rằng các vết thương do hỏa khí đều bị ngấm thuốc độc. Theo truyền thống, thì các vết thương bị ngấm độc, chẳng hạn như vết rắn cắn, đều được trung hòa bằng cách đốt mô. Để bảo đảm cho các vết thương hỏa khí sâu, xuyên thấu được đốt toàn vẹn, Vigo khuyến cáo nên dùng dầu đun sôi. Khi Paré mới vào nghề phẫu thuật trong quân đội, ông đã theo phương pháp của Vigo cho đến ngày không được cung cấp dầu nên đành phải điều trị các thương binh còn lại bằng cách cho băng vết thương với trứng, dầu hoa hồng và dầu thông. Khi so sánh kết quả của các cách trị liệu, Paré phát hiện là bệnh nhân nào chỉ được băng bó nhẹ đều lành miệng tốt hơn những ai được điều trị bằng cách đổ dầu sôi vào vết thương. Căn cứ vào các nhận xét trên, Paré tự hứa là sẽ không bao giờ làm theo sách vở với những gì mà mình có thể học qua kinh nghiệm. Trong các tác phẩm viết ra, Paré khuyên các phẫu thuật viên khác nên theo gương của mình.

Khi cần thiết phải đốt mô, Paré thích cách đốt mô thực sự bằng cách dùng các que sắt nướng đỏ hơn là cách đốt mô khác như sử dụng các dung dịch acid, kiềm mạnh, dầu đun sôi. Đề cho phần thịt bị đốt mau lành, Paré khuyên nên băng lại bằng hành sống và muối. Một bà già làm thuốc chỉ cho Paré cách sử dụng củ hành sống băm nhỏ để điều trị các vết bỏng. Sau khi thử nghiệm lại, Paré công nhận cách điều trị này mang lại kết quả. Vào thập niên 1950, các nhà khoa học báo cáo rằng hành chứa một chất kháng sinh nhẹ. Vì vậy, khi chưa có các thuốc kháng sinh hiện đại, thì hành có giá trị ngăn ngừa các vết bỏng bị bội nhiễm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, Paré khuyên nên sử dụng dầu cao chó con (puppy oil palm). Tốn nhiều tiền của và rối rắm Paré mới nắm được công thức bí mật của thứ dầu cao này, nhưng ông ta công bố rộng rãi công thức trên để cho bệnh nhân và phẫu thuật viên đều thụ hưởng. Để làm ra băng gạc dầu cao chó con, người thầy thuốc lấy hai con chó mới đẻ nấu trong dầu hoa huệ tây cho đến khi xương tan ra hết. Dầu này đem trộn với dầu thông và nửa lạng giun đất, và rồi đem nấu trên lửa riu riu. Paré tin rằng dầu cao này làm giảm đau và làm cho vết thương mau lành.

Khi Hội đồng các thầy thuốc yêu cầu Paré giải thích vì sao có quá nhiều người bị chết vì các vết thương nhỏ do hỏa khí có thuốc súng, Paré khảo sát các thành phần của thuốc súng để xem liệu trong đó có nọc độc hoặc lửa. Ông ta kết luận rằng trong thuốc súng chẳng hề có nọc độc hoặc lửa gì cả. Thật vậy, các quân sĩ, nhờ trời vì không hề biết gì đến các lý thuyết y học, nên đã hòa thuốc súng vào rượu để uống nhằm kích thích vết thương mau lành, hoặc xoa thuốc súng vào vết thương để cho mau khô. Trích lời của Hippocrates trong quyển “Bàn về Không khí, Đất, và Nước” Paré lý luận rằng không khí độc hại của chiến trường đã làm hư hoại máu và các chất dịch trong cơ thể cho nên sau một trận chiến, ngay cả các vết thương nhỏ cũng mưng mủ và gây chết người. Cuối cùng, Paré cho rằng nhiều cái chết là do ý của Chúa. Nếu cho rằng Paré không công bằng khi đổ thừa sự nhiễm trùng vết thương cho Chúa, thì cũng nên nhớ rằng khi bệnh nhân khỏi bệnh, lúc nào Paré cũng bảo mình chỉ là người băng bó vết thương, còn Chúa mới chữa lành.

Ngoại khoa chiến trường luôn kèm theo việc cắt cụt tay hoặc chân, loại phẫu thuật này có thể gây tử vong vì mất máu. Nhiều bệnh nhân chết sau phẫu thuật đoạn chi bởi vì việc đốt mô cầm máu cũng hủy luôn phần da cần có để che chỗ chi bị cắt và làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Việc sử dụng dây garot để cầm máu khi mạch máu bị đứt tuy là phương pháp cũ, bị bỏ quên cho đến khi Paré nhắc lại cho các đồng nghiệp cùng thời chú ý và chứng minh giá trị của nó trong phẫu thuật cắt chi. Nếu phẫu thuật viên thực hiện khéo léo phẫu thuật này, các bệnh nhân giàu có thể gắn các chi giả đẹp đẽ và khéo léo cho phép cử động khá dễ dàng. Paré cũng đưa ra chân gỗ phù hợp cho người nghèo.

Khi Paré bị gãy xương hở chân trái, ông ta may mắn tránh được cách điều trị thông thường, đó là đoạn chi. (Với gãy xương đơn giản, vết thương không lộ ra bên ngoài. Gãy xương hở kèm theo rách da; vết thương ngoài da này thường gây ra nhiều biến chứng). Năm 1561, Paré bị con ngựa của chính mình đá; hai xương của chân trái đều gãy. Sợ bị ngựa đá tiếp, ông ta lùi lại và ngã quỵ xuống đất, làm cho chỗ xương gãy đâm xuyên qua thịt, ống quần và ủng. Những món thuốc tìm được trong làng - lòng trắng trứng, bột mì, muội khói bếp và bơ nóng chảy - không hề làm giảm cái đau xé ruột chút nào, nhưng Paré vẫn bình tĩnh cắn răng chịu đau. Biết rõ diễn tiến bình thường của những chấn thương kiểu này, Paré sợ rằng phải cưa chân để giữ mạng sống, nhưng sau đó xương gãy được nắn lại, vết thương được băng bó, chân được bó nẹp, và sau đó cứ đắp dầu hoa hồng cho tới khi ổ mủ được tháo sạch.

Mặc dù được tiếng là tử tế, nhưng Paré lại có tính hiếu kỳ không cưỡng lại được là cứ muốn sử dụng con người làm vật thí nghiệm. Khi vua Charles IX ca tụng các tính chất của một viên sỏi dạ dày (tức là một khối cứng không tiêu hóa được tìm thấy trong dạ dày hoặc ruột động vật) được biếu, Paré cho rằng những thứ sỏi như thế không có tác dụng giải độc. Để kết thúc việc tranh cãi, một tay đầu bếp của nhà vua được gởi cho Paré thí nghiệm, tên này bị kết tội treo cổ vì đã ăn cắp hai chiếc đĩa bạc. Kẻ có tội được viên dược sư của triều đình cho uống viên sỏi dạ dày cùng với thuốc độc. Tên đầu bếp này không gặp may mắn, Paré đã đúng khi chứng minh là mấy hòn sỏi dạ dày này không hề có tác dụng gì cả, cũng như nhiều thứ thuốc và thuốc giải độc cực kỳ đắt tiền và được kê đơn rộng rãi chẳng hạn như sừng kỳ lân và bột xác ướp. Giới quý tộc dùng sừng kỳ lân làm ly để uống và luôn mang sừng kỳ lân theo bên mình khi đi lại nhằm xua đuổi bệnh tật, cũng giống như các khách du lịch thời nay luôn mang theo những thứ thuốc như Quinine, Dramamine và Kaopectate. Sừng kỳ lân chính hiệu giá rất đắt bởi vì chỉ có một trinh nữ xinh đẹp mới có thể bắt được con vật nhút nhát này, nhưng nguồn cung cấp chính những chiếc sừng kỳ lân này thực ra chỉ là sừng tê giác và sừng kỳ lân biển (narwhale).

Để bày tỏ sự ngờ vực của mình về sự hiện diện của con kỳ lân, Paré đã tiến hành một loạt các thí nghiệm trên những thứ gọi là sừng kỳ lân, chẳng hạn như xem xét tác dụng của các bài thuốc sừng kỳ lân trên hành vi và sự sống sót của nhện, cóc, bọ cạp có nọc độc và bồ câu được tẩm thuốc độc. Không có trường hợp nào cho thấy tác dụng y học của sừng kỳ lân cả. Mặc dù với công trình của Paré và những câu hỏi của những ai còn hoài nghi, nhưng bọn bán thuốc vẫn cứ nhất quyết bảo vệ cho các đặc tính của sừng kỳ lân “thứ thiệt” (hàng tốt, giá cao). Căn cứ trên các lý do thẩm mỹ và y học, Paré bác bỏ việc sử dụng bột xác ướp; ông ta cho rằng thật đáng xấu hổ cho người theo đạo Cơ Đốc mà lại dùng các bài thuốc có xuất xứ từ xác chết của bọn tà giáo. Càng hoài nghi hơn nữa khi Paré phát hiện ra rằng những thứ thuốc đắt tiền được rao bán là xác ướp của người Ai Cập thực ra lại được ngụy tạo tại Pháp bằng các xác chết được làm khô quắt trong lò sưởi và sau đó nhúng trong hắc ín. Nhưng một số thầy thuốc lại khuyến cáo sử dụng xác ướp để điều trị các vết thương bầm, dập, vì họ nghĩ rằng thứ bột này có tác dụng không cho máu trong cơ thể đông lại. Những người ủng hộ với việc sử dụng xác ướp để làm thuốc lưu ý các thầy thuốc nên chọn những loại có chất lượng cao, đen bóng, bởi vì những xác ướp chất lượng kém đều chứa đầy xương và bụi bặm, bốc mùi hôi, là những thứ không mang lại tác dụng. Mãi đến thế kỷ 17, các thầy thuốc vẫn còn kê đơn nhiều loại thuốc kinh tởm, như xác ướp, sỏi dạ dày, các bộ phận khô của thú vật, nhau thai người, ruột ốc sên, và mạt giũa hoặc mốc trên sọ người không được chôn. Những bài thuốc quái dị như thế vẫn còn tìm thấy trên nhiều ấn bản của bộ Dược thư London (London Pharmacopoeia).

Chống đối lại việc sử dụng các cách điều trị lâu đời cần phải can đảm và độc lập. Khi Paré công bố những nghiên cứu của mình về thuốc độc và thuốc chống độc, thì các thầy thuốc và người bán thuốc lên tiếng công kích vì đã xâm phạm lĩnh vực của họ. Một người phản bác cho rằng phải tin vào các tính chất làm thuốc của sừng kỳ lân bởi vì những người có uy tín đều nói rằng nó có tác dụng. Paré trả lời rằng chẳng thà mình nhận là đúng dù phải đứng một mình hơn là gia nhập vào nhóm những kẻ sai lầm. Ông lập luận rằng có những tư tưởng đã được chấp nhận trong một thời gian dài không nhất thiết phải đúng bởi vì chúng thường được hình thành trên các ý kiến chứ không phải trên sự thực.

Mặc dù Ambroise Paré là hình ảnh tiêu biểu của nền y học nước Pháp thế kỷ 16, nhờ ở chứng bệnh mạch lươn hậu môn của vua Louis XIV (1638-1715), Charles - François Félix (1635?-1703) có một cơ hội hiếm có để chứng minh hiệu quả của nghệ thuật mổ xẻ. Trong nhiều tháng trời, các thầy thuốc đã hành hạ nhà vua nào là thuốc gây ói, thuốc xổ, cho đỉa hút máu, trích huyết và những bài thuốc nguy hiểm vô ích khác. Nỗi thống khổ của nhà vua là do một cục phân hóa đá nằm dính trong phần trực tràng của đấng vương giả. Cục phân này gây viêm nhiễm, tạo thành ổ mủ sau đó rò mủ ra ngoài. Vào ngày 18 tháng 11 năm 1686, nhà vua tuyệt vọng chuyển sang nhờ phẫu thuật thay cho nội khoa. Theo những kẻ thù của Félix, thì nhà phẫu thuật đã thực hiện cuộc mổ tại một bệnh viện ở Paris. Một số người bị đưa ra làm thí nghiệm không sống được, nhưng lý do chết thì quy cho ngộ độc và thi thể của họ được giải quyết một cách bí mật. Dù vậy, cuộc mổ cho nhà đã vua thành công hoàn toàn. Trút được bao đau khổ, nhà vua tỏ lòng cám ơn bằng cách ban thưởng tặng vật của Hoàng gia và đặc ân cho các nhà phẫu thuật, điều này rất làm phiền lòng các thầy thuốc nội khoa