CÁC KHOA HỌC HUYỀN BÍ: KHOA CHIÊM TINH VÀ GIẢ KIM THUẬT
Các nhà khoa học và học giả có lúc đã nhìn thế kỷ 16 và 17 như là thời kỳ mà “chủ nghĩa duy lý” bắt đầu thay chỗ cho nguồn tư tưởng ma thuật và thậm chí tôn giáo nữa, hoặc ít nhất cũng đẩy lùi được chủ nghĩa thần bí ra xa. Từ thập niên 1970, nhiều sử gia đã hết sức cố gắng đi tìm bằng chứng để chứng minh rằng các khuôn mặt lớn có thời đã được coi như là những người sáng lập một phương pháp duy lý, thực nghiệm và khoa học, nhưng thực ra đã quan tâm nhiều về khoa chiêm tinh, giả kim thuật và các hình thức khác của chủ nghĩa thần bí và các hiện tượng huyền bí. Để cho chính xác về mặt lịch sử, thật là không hợp thời khi dùng những từ như “khoa học” và “nhà khoa học” cho thời kỳ này, nhưng các sử gia ghi nhận rằng khoa chiêm tinh và ma thuật tự nhiên có thể được coi là các ví dụ thích hợp cho “khoa học ứng dụng”.
Có thời các sử gia nhấn mạnh đến những thắng lợi về khoa học và nghệ thuật của thời Phục hưng, nhưng gần đây các học giả đã tập trung vào nhiều phương diện mà sự mê tín và khoa học huyền bí đã phát triển mạnh mẽ. Y học, cùng với các ngành nghệ thuật và khoa học khác, vẫn còn bị ràng buộc với khoa chiêm tinh, giả kim thuật và nhiều ngành khác liên quan đến chủ nghĩa thần bí. Từ mớ hổ lốn nghệ thuật, khoa học và ma thuật này nảy sinh nhiều thách thức mới đối với lý thuyết y học, triết học và thực hành. Một hình thức để đoán tiên lượng của bệnh gọi là y học chiêm tinh dựa vào giả định cho rằng những chuyển động của các thiên thể đều tác động đến công việc và sức khỏe của con người. Nhìn rộng hơn thì khoa chiêm tinh là một dạng của bói toán. Trong thực hành, y học chiêm tinh đòi hỏi thầy thuốc phải biết chính xác giờ giấc bệnh nhân đổ bệnh. Lấy được thông tin này kèm với việc nghiên cứu bầu trời, thầy thuốc có thể đưa ra dự đoán về diễn biến của bệnh với mức độ chính xác toán học và để tránh các tình huống nguy hiểm. Trong trị liệu, những nhận định về chiêm tinh học quyết định cho tính chất và thời điểm điều trị, chọn lựa thuốc và sử dụng bùa chú. Lấy ví dụ, Mặt trời chủ quản các bệnh mạn tính, chứng sầu muộn là do sao Thổ, và mặt trăng tác động đến thủy triều và sự lưu thông của máu trong các tĩnh mạch, gây ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật, trích máu, xổ ruột và các bệnh cấp tính. Những mối liên hệ giả định giữa các thiên thể và cơ thể con người rất rối rắm, đa tạp và mâu thuẫn đến nỗi trong thực hành không có phẫu thuật nào được thực hiện mà không vi phạm một quy định nào đó. Nếu môn chiêm tinh y học có chiếm một vị trí nổi bật vào thời Phục hưng, thì đó chỉ là một sự kế tục của các học thuyết dân gian thời Trung cổ nhưng không nhất thiết có sự gắn kết với lý thuyết y học bác học. Tuy các thầy thuốc có thể vẫn còn nghiên cứu và sử dụng môn chiêm tinh y học, nhưng nhiều trước tác y học thời Phục hưng không thèm nhắc đến qua hoặc thậm chí còn kết tội cho môn chiêm tinh học nữa.
Ngay cả đến thế kỷ thứ 21, khi làm một khảo sát nhanh qua các kệ sách của các nhà sách lớn người ta thấy rằng môn chiêm tinh học còn lôi cuốn nhiều độc giả hơn là môn thiên văn học. Các nhà hóa học, an tâm khi biết rằng ngày nay chẳng còn mấy ai theo đuổi môn giả kim thuật, lấy làm thích thú khi theo dõi sự tranh đấu không ngừng nghỉ của các nhà thiên văn học nhằm chống lại những điều mê tín. Tuy nhiên, các nhà giả kim thuật đóng vai trò không rõ ràng trong lịch sử của y học và khoa học, khi thì được ca tụng có công khởi đầu cho môn hóa học hiện đại, khi thì bị chê là lang băm, hoặc được tôn sùng là có công đem lại một cách khác để hiểu được vũ trụ.
Mục đích đầu tiên của giả kim thuật thường được cho rằng là nhằm chuyển đổi các kim loại cơ bản thành ra vàng, nhưng giả kim thuật là một thuật ngữ bao hàm một phạm vi rộng rãi các học thuyết và thực hành. Nhất là với y học Trung Quốc, giả kim thuật gồm có việc tìm thuốc trường sanh, thuốc chữa bệnh và sự bất tử. Trong lịch sử phương Tây, ý tưởng cho rằng nhiệm vụ của ngành giả kim không phải làm ra vàng hoặc bạc, mà chính là chế thuốc, có thể tìm thấy trong các tác phẩm của Philippus Aureolus Theophrastus Bombastus von Hohenheim (1493-1541), là nhà giả kim thuật, thầy thuốc và nhà dược lý học. May mắn thay, ông ta thường được gọi là Paracelsus (nghĩa là cao hơn Celsus), một từ được các đồ đệ của ông vào thế kỷ thứ 17 chấp nhận. Những đồ đệ này tin rằng trị liệu có thể được cải cách qua sự phát triển của các thuốc hóa chất hoặc thuốc phân nhập (spagyric drugs; chữ spagyric có nguồn gốc Hy Lạp có nghĩa là tách ra và nhập lại). Không mấy ai biết rõ về thời thơ ấu cũng như việc học hành của ông. Mặc dù ông ta đã để lại một kho tàng đồ sộ, nhưng rời rạc, các trước tác về y học, triết học tự nhiên, chiêm tinh học và thần học, nhưng giờ đây chỉ có một bức ảnh thực sự của ông lưu cho hậu thế. Vị trí của ông trong lịch sử y học còn mù mờ, nhưng trong lịch sử nước Đức hiện đại, Paracelsus là một hình ảnh văn hóa chủ yếu của thời Đức quốc xã.
Sau một thời gian ngắn theo học tại đại học Basel, Paracelsus cảm thấy chán cái tinh thần giáo điều hàn lâm, và quay sang miệt mài nghiên cứu giả kim thuật. Thay vì hỏi ý các học giả và các giáo sư, Paracelsus đi tìm các kiến thức bí mật về giả kim thuật của các nhà chiêm tinh, người lang thang, phù thủy, thợ mỏ, nông dân và các nhà giả kim thuật. Mặc dù không có bằng chứng cho thấy ông đạt được một trình độ hàn lâm chính quy, nhưng Paracelsus tự phong cho mình học vị “có hai bằng tiến sĩ” có lẽ là những bằng danh dự do Chúa và tự nhiên cấp cho ông. Tuy nhiên, Paracelsus được bổ nhiệm chức Giáo sư Y học và thầy thuốc của thành phố Basel. Mặc dù có những chức tước hàn lâm mới, nhưng dường như ông ta chỉ quan tâm đến việc dàn dựng các vụ việc mà ngày nay ta gọi là sự kiện truyền thông. Để bày tỏ sự khinh ghét của mình đối với học thuyết cổ xưa, ông ta đem đốt các công trình của Avicenna và Galen trong lúc bài bác các dược sĩ và thầy thuốc là “lũ lừa đần độn được giao quyền”. Khoác cái tạp dề bằng da của nhà giả kim thuật thay vì áo chùng của giáo sư, ông ta lên bục giảng bài bằng tiếng địa phương thay vì tiếng Latin. Mặc dù những màn phô trương trước công chúng này chọc giận các đồng nghiệp uyên bác của ông, chính việc tranh chấp về tiền công cho các dịch vụ y tế đã làm cho ông phải bỏ chạy khỏi Basel. Các kẻ thù của ông khoái chí khi biết rằng ông ta bị chết bất ngờ, đầy bí ẩn nhưng chắc chắn là không bình thường khi mới có 48 tuổi trong khi Hippocrates và Galen, những ông tổ của hệ thống y học mà ông ta chối bỏ, đã sống lâu hơn và cống hiến nhiều hơn Paracelsus.
Trái ngược với quan niệm về bệnh học các dịch thể, nhất là các học thuyết của Galen và Avicenna, Paracelsus tìm cách thay thế với học thuyết cho rằng cơ thể chính là một phòng thí nghiệm hóa học, trong đó các chức năng quan trọng được điều khiển bởi một lực bí ẩn gọi là archaeus, một dạng giả kim thuật nội sinh. Vì thế, bệnh là kết quả của những xáo trộn về chức năng hóa học của cơ thể chứ không phải là do sự mất cân bằng thể dịch. Do đó, người thầy thuốc nên nghiên cứu về mặt hóa học của giải phẫu học của các bệnh tật hơn là giải phẫu học nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu giải phẫu học không hề liên hệ gì đến việc hiểu thấu những vấn đề sâu xa nhất liên quan đến các chức năng sống của cơ thể con người. Do sự sống và bệnh tật là các hiện tượng hóa học, cho nên các hóa chất chuyên biệt phải đóng vai trò thuốc chữa bệnh. Tác dụng chữa lành bệnh của một cách điều trị nào đó nằm ở các tính chất hóa học, chứ không phải ở các đặc tính như ẩm ướt, khô ráo, và những thứ khác theo học thuyết chất dịch cơ thể.
Tràn trề lạc quan, Paracelsus tuyên bố rằng tất cả các bệnh tật đều có thể chữa được bằng giả kim thuật khi nào mà con người hiểu được bản chất của sự sống và cái chết. Vẫn còn một thách thức khó vượt qua là tìm một phương thuốc chuyên biệt cho từng chứng bệnh, đó không phải là do thiếu thuốc mà bởi vì thiên nhiên là một cửa hàng dược phẩm lớn. Khi có quá nhiều thứ tốt của thiên nhiên để lựa chọn, nhà giả kim thuật có thể căn cứ theo phương pháp tách rời, học thuyết ăn gì bổ nấy (Doctrine of Signature), và các dấu hiệu tương ứng về mặt chiêm tinh học giữa 7 hành tinh, 7 thứ kim loại và các phần của cơ thể.
Bác bỏ nguyên lý chữa bệnh bằng sự trái nghịch, Paracelsus chuộng quan niệm dĩ độc trị độc (like cures like). Nhưng việc phát hiện ra bản chất thực sự của một phương thuốc vốn dĩ là một hỗn dịch phức tạp theo truyền thống chỉ có thể thực hiện được khi phân tách cái tinh khiết từ cái pha tạp, cái hữu dụng từ cái vô dụng giống như trong giả kim thuật. Trong số nguồn dược vật học to lớn mà các thầy thuốc thế kỷ 16 biết đến, thuốc độc luôn được đặc biệt quan tâm vì lẽ đây là những chất có tác dụng rất mạnh. Paracelsus lập luận rằng giả kim thuật có khả năng giúp tách ra được các tính chất chữa bệnh nằm ẩn trong những chất nguy hiểm này. Những đồ đệ phái Galen tố cáo đồ đệ của Paracelsus là bọn quá khích nguy hiểm vì lấy thuốc độc làm thuốc chữa bệnh. Đáp trả những lời tố cáo đó, Paracelsus chế giễu những kẻ công kích mình đã sử dụng những thứ thuốc xổ nguy hiểm, những thứ trà giá cắt cổ, và những hỗn dịch độc hại trộn nào là bột xác ướp, phân bò và nước tiểu. Ông ta tuyên bố rằng, thứ nào cũng là thuốc độc, nhưng giả kim thuật có thể “làm mất tác hại” của chất độc.
Thay vì dùng các chế phẩm thảo dược bào chế theo cách cổ truyền, Paracelsus và đệ tử ưa dùng những thứ thuốc được tinh chế, nhất là các khoáng chất như thủy ngân, antimony, sắt, thạch tín, chì, đồng, các loại muối của những chất này, và lưu huỳnh. Việc xác định liệu các phương thuốc điều trị mới bằng hóa chất thực sự có tác dụng trị liệu hay không rõ ràng là rất nguy hiểm. May thay, nhiều loại hóa chất độc hại gây tác dụng xổ nhanh nên không bị hấp thu đủ liều gây độc. Hơn thế nữa, trong một số trường hợp, các tiến trình thanh lọc theo giả kim thuật có thể loại đi mọi thứ trừ dung môi. Mặt khác, khi thử làm thanh khiết hóa một số chất lại tạo ra những chất mới đáng chú ý. Lấy ví dụ, khi người ta thử chưng cất rượu vang thì được rượu mạnh dùng để pha vào thuốc. Có khi, những thứ thuốc hoàn toàn mới, đầy thú vị xuất hiện từ sự lộn xộn của phòng thí nghiệm giả kim thuật. Điều đặc biệt thú vị, có khả năng Paracelsus là một trong những người đầu tiên phát hiện ra tác dụng gây ngủ của ethyl ether. Không phải tất cả các thứ thuốc của Paracelsus đều phát xuất từ các kim loại độc hại, món thuốc “cồn laudanum” dùng để gây ngủ cho êm và giảm đau chính là thuốc phiện pha trong rượu.
Mặc dù Paracelsus chế giễu cách soi nước tiểu truyền thống, ông ta chấp nhận cái hàm ý là nước tiểu có chứa các chất cặn bã thu thập của nước tiểu bằng mắt thường, ông ta đề nghị làm phân tích hóa học, chưng cất và các thử nghiệm làm đông lại để chẩn đoán. Tuy nhiên căn cứ vào tình trạng phân tích định tính và định lượng, sự mổ xẻ hóa học của ông cũng chỉ mang lại những kết quả như khi quan sát bằng mắt thường. Trong việc phân tích nước tiểu, cũng như trong các nghiên cứu về các cách điều trị tiềm năng, nhiều đồ đệ theo Paracelsus bỏ qua các chất cặn quan trọng mà chỉ tập trung chú ý đến chất chưng cất. Có một công trình được gán cho Paracelsus, nhưng thường được xem là không đúng, đó là hướng dẫn cách phân tích hóa học của nước tiểu bằng cách đo thể tích và trọng lượng riêng, bằng cách dùng một ống đong được chế tạo khéo léo có dạng như hình người.
Để thay thế cách phân loại bệnh tật dựa trên các dịch thể, Paracelsus thử xây dựng một hệ thống dựa trên tính tương đồng của các quy trình hóa học. Về đại thể, tuy các quan niệm hóa học của ông khá tối nghĩa và không nhất quán nhưng lại đặc biệt phù hợp với các bệnh chuyển hóa, các rối loạn về chế độ ăn, và một số bệnh nghề nghiệp. Lấy ví dụ, khi xếp loại bệnh gút là “bệnh chất cặn”, quả thật ông ta đã chọn ra một ví dụ về bệnh chuyển hóa trong đó thành phần hóa học của cơ thể bị lệch lạc: trên các bệnh nhân gút, một chất chuyển hóa lắng đọng chủ yếu ở các khớp, rất giống như trong rượu vang có cặn đóng lại dưới đáy thùng. Ông ta cũng chỉ ra được mối liên hệ giữa chứng ngu độn ở trẻ em (cretinism) với bướu giáp ở người lớn (những rối loạn do thiếu chất Iod trong chế độ ăn). Theo Paracelsus, thợ mỏ, thợ nấu kim loại và các thợ luyện kim đều có những triệu chứng ở phổi và ngoài da do hấp thu những chất nguy hiểm trong bầu không khí chung quanh có chứa các thứ bụi độc hại. Những hợp chất hóa học độc hại tạo ra sự đông đặc bên trong, kết tủa và tạo ra cặn lắng. Những ví dụ như thế có thể cho ta cảm tưởng rằng Paracelsus đã có lý khi công kích học thuyết của Galen và ông ta thực sự nắm được bí quyết của một hệ thống mới trong điều trị, nhưng điều này cũng dễ khiến ta đi sâu vào tài liệu của Paracelsus và càng đọc thì càng thêm mờ mịt. Tuy vậy, những người ủng hộ ngành y học hóa học hoặc y học kiểu Paracelsus đều tham gia trong công cuộc chuyển mình của dược lý học và sinh lý học, chẩn đoán và điều trị. Hội các thầy thuốc hóa học được thành lập năm 1665. Những ví dụ đầy thành công của các ngành y học hóa học đã buộc cả các thầy thuốc bảo thủ nhất cũng phải suy nghĩ về những hạn chế của học thuyết Galen và lôi kéo nhiều thầy thuốc chính thống tiến hành thử nghiệm các cách điều trị mới. Mặc dù có sự chống đối của Viện các thầy thuốc nhằm bóp chết việc sử dụng các cách điều trị mới bằng hóa chất, các thầy thuốc người Anh đồ đệ của Paracelsus đã được công nhận phần nào. Vào khoảng giữa thập niên 1670, ngay cả những người bác bỏ triết lý của Paracelsus cũng bắt đầu chấp nhận các phương pháp điều trị mới bằng hóa chất. Ngoài ra, những cuộc tranh luận về triết lý cuộc sống dựa trên hóa học đã thay thế cho các hệ thống thiên về cơ học đã thâm nhập vào các ngành khoa học y học theo sau cuộc cách mạng khoa học do Newton khởi xướng.
Tiểu vũ trụ - một biểu đồ giả kim thuật trình bày cơ thể con ngườ i dưới dạng linh hồn vũ trụ.
Những cuộc tranh luận giữa “các thầy thuốc cơ học” và “các thầy thuốc hóa học” còn tiếp tục đến tận thế kỷ 19. Mặc dù có chứng cứ về sự liên tục tri thức, các học giả thời Phục hưng dường như tin tưởng rằng họ đã tuyệt giao với cái dĩ vãng thời Trung cổ và Ả Rập, khi phục hồi và đồng hóa các văn bản cổ điển Hy Lạp. Tương tự như thế, nhiều thầy thuốc bị thuyết phục rằng y học đang trải qua những thay đổi nhanh chóng và có ý nghĩa. Các thầy thuốc và phẫu thuật viên đều thu nhận được kiến thức và tư tưởng về giải phẫu học và dược lý học góp phần nâng cao không ngừng các cuộc tranh luận phức tạp về bản chất của cơ thể con người và nguyên nhân của bệnh tật. Điều này không làm thay đổi ngay tính chất hoặc tính hiệu quả của các đơn thuốc và các quy trình điều trị, nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm các kiến thức sâu hơn và đáng mong ước hơn.