CÁC NỀN VĂN MINH BẢN ĐỊA TẠI CHÂU MỸ LATIN
Nhiều thế kỷ trước khi người châu Âu đến Tây bán cầu, thì những nền văn hóa nói chung thỏa mãn các tiêu chuẩn được dùng để định nghĩa nền văn minh đã hình thành, chủ yếu tại các vùng đất hiện nay là Mexico, Guatemala, và Peru. Ta không thể nào hiểu được những nền văn minh và các nền văn hóa bản địa này sẽ phát triển ra sao nếu không bị chinh phục và thực dân hóa, nhưng các nghiên cứu về các thành phố của người Maya tại Copán, Palenque, Chitchén Itzá, và Uxmal, thành phố Tenochtitlán của người Aztec, những thành phố Cuzco và Machu Picchu của người Inca, và những nơi khác, phản ánh sự tiến hóa của các tổ chức xã hội phức tạp và chính quyền, các liên bang và đế quốc, nghệ thuật và kiến trúc, chữ viết và bảo quản tài liệu, toán học, thiên văn học, và những phép tính lịch phức tạp. Các ngôn ngữ có chữ viết của các nền văn minh châu Mỹ trước Columbus là những ký hiệu giống như chữ tượng hình có bản chất là những hình vẽ, những chữ ghi ý hoặc ngữ âm. Các tài liệu được khắc trên tượng đài bằng đá hoặc ghi trên giấy hoặc da thú. Rủi thay, hầu như mọi thứ bản thảo tiền-Columbus đều bị bọn chinh phục người Tây Ban Nha phá hủy hết. Người châu Âu thường chê bai các nền văn hóa Tân Thế Giới, ngay cả văn hóa của người Aztec, Maya, và Inca, bởi vì họ không sử dụng sắt, cày, cổng hay cửa vòm hoặc mẫu tự. Vua chúa của họ có thể đã thâu tóm nhiều tiền của và các đế quốc rộng lớn, nhưng người châu Âu cho rằng tôn giáo và chính quyền của thổ dân chỉ là những thứ bán khai, hoang dã, hoặc man rợ.
Tại châu Mỹ, sự chuyển tiếp từ lối sống săn bắt và hái lượm du mục sang tĩnh tại có lẽ đã bắt đầu tại vùng duyên hải Peru và lòng chảo Mexico khoảng 6.000 năm trước Công nguyên. Các thung lũng vùng Trung Mỹ và phần tây bắc của Nam Mỹ cung cấp các điều kiện thích hợp cho sự sản xuất nông nghiệp, dân số phát triển nhanh, đa dạng hóa việc giao thương và kỹ nghệ, sự hình thành các thị trấn và đô thị, và sự xuất hiện những tầng lớp đặc quyền như tu sĩ, vua chúa, quý tộc và chiến binh. Vùng Trung Mỹ là nơi hưng thịnh và suy tàn của nhiều nền văn minh hùng mạnh của các dân tộc Olmec, Zapotec, Toltec, Mixtec, Aztec, và Maya. Họ là những người trồng trọt nhiều thứ cây lương thực quan trọng, cũng như thuốc lá và cây cao su, và sản xuất ra thuốc chữa bệnh, độc chất, các thức uống lên men, thuốc nhuộm, vải và đồ gốm. Các nhà khoa học nghĩ rằng bắp được thuần hóa chậm hơn nhiều sau các ngũ cốc chính khác chẳng hạn như lúa mì và gạo, nhưng có bằng chứng cho thấy bắp ngô được trồng tại Mexico trên 7.000 năm trước. Tại một số vùng, thực phẩm chính là bắp, đậu, khoai tây, khoai mì, cây ngọc giá (yucca), cà chua và ớt, cộng với gà tây, vịt, cá, sò ốc, và thậm chí chó và chuột lang.
Các nghiên cứu trên hài cốt của những người sống tại Tây bán cầu trong 7.000 năm gần đây cho thấy rằng sức khỏe của thổ dân châu Mỹ đã xấu đi trong nhiều thế kỷ trước năm 1492, nhưng vẫn còn nhiều điều không chắc chắn. Hàng ngàn bộ xương khai quật tại nhiêu nơi ở Bắc và Nam Mỹ đã được đem phân tích tìm bằng chứng các bệnh nhiễm trùng, suy dinh dưỡng, bệnh thoái hóa khớp, bệnh về răng, tầm vóc, thiếu máu, xương bị ngưng phát triển, và các chấn thương do tai nạn. Các chỉ số cho biết sức khỏe xấu đi dường như có liên quan đến sự ra đời của nông nghiệp và các nền văn hóa thành thị tại Nam và Trung Mỹ. Bằng chứng khảo cổ học cũng cho thấy có nhiều thời kỳ tăng, giảm dân số trước khi tiếp xúc với châu Âu. Vì thế việc gán cho công cuộc chinh phục của người châu Âu làm tan rã hoàn toàn các đế quốc của Tân Thế Giới có thể là do quá theo quan điểm lấy châu Âu làm trung tâm. Mặt khác, tác động của các bệnh của châu Âu và công cuộc chinh phục bằng quân sự rất là sâu sắc và đột ngột đến nỗi các hình thức phát triển có thể có của dân bản địa đều bị biến đổi hoặc chấm dứt thình lình.
Người châu Âu nhanh chóng nhận ra và lợi dụng sự chia rẽ và thù nghịch giữa các nhóm dân bản địa vốn bị các đế quốc đối nghịch đối xử tàn tệ. Xung đột nội bộ và những cuộc nổi loạn của các bộ lạc cùng với đám xâm lăng châu Âu, đã góp phần làm sụp đổ các đế quốc Aztec và Inca. Những hậu quả do tiếp xúc với châu Âu đối với người Aztec, Maya, và Inca thật là bi thảm, chủ yếu là do Mexico và Peru có mật độ dân số cao nhất và có hệ thống giao thương và vận chuyển phát triển nhất châu Mỹ. Những yếu tố này tạo điều kiện lý tưởng để các bệnh dịch lan truyền. Những câu chuyện truyền kỳ về sự sụp đổ các đế quốc Aztec, Maya và Inca cho thấy rằng các vũ khí tấn công gây hủy diệt nhất của châu Âu là những bệnh phát ban lây nhiễm cao như đậu mùa và sởi, cùng với sự kinh hoàng và sợ hãi theo sau những bệnh dịch có độc tính cực kỳ cao. Thiếu ăn, đói kém và sự sụp đổ các nền móng xã hội lâu đời đã làm nặng nề thêm tác động của các bệnh truyền nhiễm.
NỀN VĂN MINH AZTEC
Đế quốc Aztec là đơn vị cuối cùng của một loạt các nền văn minh bản địa-Olmec, Mixtec, Zapotec, Toltec, và những nền văn minh khác- đã một thời rực rỡ tại Trung Mỹ, vùng đất hiện nay của Mexico, Guatemala, Belize, Honduras, và El Salvador. Mặc dù với những chấn động gắn liền với sự hưng thịnh và suy tàn của nhiều nền văn minh cổ đại khác nhau, hệ thống tín ngưỡng chung và các truyền thống của vùng Trung Mỹ gồm có một hệ thống lịch thiêng và lịch Mặt trời, chữ viết tượng hình và một loạt các loại thần thánh và những lễ hiến sinh bằng máu.
Sau khi các nền văn minh Toltec suy tàn, người Aztec xây dựng một đế quốc ngự trị vùng đất này từ thế kỷ 14 đến 16. Thủ đô của họ là Tenochtitlán, nay là Mexico City, với số dân có lẽ trên 200.000 người. Thành phố vườn cây tráng lệ của người Aztec được dựng trên các hòn đảo đầm lầy trong một cái hồ cạn. Khi công cuộc chinh phục của người Tây Ban Nha bắt đầu vào năm 1519, Hernán Cortés (1485-1547) đã khéo léo lợi dụng sự chia rẽ và xung đột giữa các bộ lạc bên trong đế quốc Aztec. Theo các tài liệu Tây Ban Nha, thì Tenochtitlán được xây dựng với quy mô lớn, qua các công trình xây dựng lớn, đền thờ, kim tự tháp, tượng đài, đường sá, hệ thống cống nước, vòi phun, nhà tắm, nhà tiêu công cộng và vườn hoa. Người Tây Ban Nha cố phá hủy điện thờ lớn tại Tenochtitlán và tất cả các di tích tôn giáo của người Aztec, nhưng một số các phế tích cổ vẫn còn tồn tại tại trung tâm Mexico City.
Xử lý nước luôn là một trong các vấn đề chính của việc phát triển đô thị. Nhiều quan sát và các bằng chứng khảo cổ học của người Tây Ban Nha cho thấy nước uống cung cấp cho cư dân Tenochtitlán còn tốt hơn nước uống tại phần lớn các thành phố châu Âu. Sự sạch sẽ cho bản thân được đánh giá cao đến mức dân thường cũng tắm hàng ngày. Tắm hơi được coi là cần thiết để thanh tẩy, làm thư giãn, và là một phương tiện để xua đuổi bệnh sốt và thuốc độc.
Để phù hợp với giá trị cao mà người Aztec dành cho sự sạch sẽ, các đường phố tại Tenochtitlán được hàng trăm phu quét đường quét, rửa mỗi ngày dưới sự giám sát của nhân viên y tế và thanh tra. Luật lệ và phong tục cấm để rác thải vào hồ hoặc kênh nước. Phân người được thu lại và chở đến các nông trại trong đất liền. Nước tiểu được thu lại để dùng vào việc nhuộm màu các thứ vải bông. Trước khi tiếp xúc với người châu Âu, sự quan tâm đặc biệt đến tính sạch sẽ có thể đã làm giảm đi sự lan truyền các bệnh bản địa. Tuy nhiên, kiết lỵ, các bệnh dạ dày-ruột, phong thấp, và nhiễm trùng hô hấp hẳn là khá phổ biến, những hình vẽ, các chân dung trên đồ gốm sứ dường như vẽ một người bị gù lưng tiêu biểu cho bệnh lao cột sống.
Người Aztec đã đưa ra nhiều biện pháp và định chế nhằm tuyên truyền cho sức khỏe và sự an bình cho cư dân của thủ đô và những vùng xa xôi. Những nhà trọ hoặc bệnh viện dành cho chiến binh, cho người ốm, và người nghèo khó, có các bác sĩ do nhà nước trả lương, đã được xây dựng khắp đế quốc. Người châu Âu ghi nhận rằng, thói ăn xin vốn rất phổ biến tại châu Âu, hầu như không có trong đế quốc Aztec. Chính quyền tập trung cao độ thu nhận cống vật từ các chư hầu dưới dạng bắp, cocoa, và các thực phẩm khác cũng như bông vải, cao su, vàng và lông chim. Một cơ quan hỗ trợ xã hội phân phát bắp cho người nghèo và phát thực phẩm cần thiết khi xảy ra mùa màng thất bát. Để ngăn chặn các bệnh hay lây, vua chúa Aztec đưa ra một hệ thống kiểm dịch chặt chẽ và buộc các thầy thuốc phải đưa bệnh nhân vào các trung tâm cách ly.
Về mức độ giàu có, quyền lực, tính phức tạp và mức độ phát triển kỹ thuật của đế quốc Aztec, thật là khó để hiểu được bằng cách nào mà Hernán Cortés, người đã dẫn khoảng 600 lính với một lực lượng nhỏ ngựa và súng ống đến Tân Thế Giới năm 1519, đã chiếm được thủ đô Aztec vào năm 1521 và triệt phá các nền móng của một nền văn minh quan trọng. Mặc cho những lợi thế về vũ khí, nhưng căn cứ vào sự chênh lệch về người của đám lính Tây Ban Nha và các chiến binh Aztec, thì một cuộc đối đầu quân sự chắc chắn phần thắng sẽ nghiêng về phía người Aztec. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố thuận lợi cho kẻ xâm lược, trong đó những mối căng thẳng ngày càng tăng trong đế quốc Aztec. Nhiều học giả lập luận rằng bệnh đậu mùa, một bệnh truyền nhiễm lây lan cao do virus trước đây chưa hề có mặt tại châu Mỹ, là đồng minh mạnh nhất của Cortés. Mặc dù Cortés và các đồng đội của hắn dường như không hề biết đến sự tàn phá do một chứng bệnh vốn rất quen thuộc tại Cựu Thế Giới gây ra, các thổ dân châu Mỹ sống sót cho rằng trận dịch đậu mùa năm 1520 là một điểm ngoặt trong lịch sử của họ. Các sử gia biên niên Aztec xem thời kỳ trước khi có người Tây Ban Nha đến giống như thiên đàng, khi mà người dân chưa hề mắc bệnh đậu mùa và những bệnh chết người khác. Khi người châu Âu tới, sự sợ hãi và bệnh tật cũng kéo theo những nơi nào họ đặt chân đến. Các nhà quan sát người Tây Ban Nha cho rằng Chúa Trời đã trừng phạt Mexico với những dịch bệnh khủng khiếp giống như đã tả trong Kinh Thánh làm cho hàng ngàn thổ dân chết vì những bệnh đậu mùa, sởi, chiến tranh, đói kém, nô dịch, làm việc trong các hầm mỏ và nhiều hình thức áp bức khác.
Một con tàu của Tây Ban Nha dường như đã mang bệnh đậu mùa đến Tân Thế Giới năm 1516. Nhằm chặn đứng dịch đậu mùa tại Santo Domingo năm 1519, nhà chức trách Tây Ban Nha đã dựng lên các quy định kiểm dịch. Vào thời gian đó, bệnh này đã xuất hiện dưới hình thức các trận dịch trong thổ dân châu Mỹ dọc theo duyên hải Mexico, khi Cortés và quân đội của mình chuẩn bị tấn công đế quốc Aztec. Bệnh đậu mùa nhanh chóng lan ra khắp vùng trung tâm Mexico, và di chuyển ra phía bắc và phía nam xuyên qua những vùng dân cư đông đảo nhất châu Mỹ. Người châu Âu không trực tiếp thấy được hậu quả của những trận dịch đầu tiên tại Bắc Mỹ, nhưng khi Hernando de Soto (1496?-1542) thăm dò Florida năm 1539, ông ta tìm thấy bằng chứng cho biết nhiều vùng không còn dân cư sinh sống nữa. Những đợt dịch đậu mùa đầu tiên đã lan đến đâu thì còn chưa rõ, mặc dù một số sử gia cho rằng những bệnh của châu Âu chỉ mãi đến đầu thế kỷ 17 mới đến được vùng tây bắc của Bắc Mỹ. Tuy nhiên, bằng chứng khảo cổ học cho thấy những đợt sụt giảm dân số do bệnh tật gây ra đã xảy ra tại một số vùng ở Bắc Mỹ từ đầu thế kỷ thứ 16, tức là khá xa trước khi có sự tiếp xúc trực tiếp có ý nghĩa giữa thổ dân châu Mỹ và người Âu. Vì thế, các báo cáo của người châu Âu gởi từ châu Mỹ sau những trận dịch đậu mùa năm 1520 có thể đã phản ánh những xã hội thực ra đã bị bệnh dịch tàn phá từ trước.
Một số sử gia cho rằng Công cuộc chinh phục thực hiện được là do người Aztec quá đông đúc, thiếu ăn, đói khát và không thể nào chống chọi với bệnh tật. Để củng cố giả thuyết này, họ cho rằng người Aztec lấy con người làm lễ hiến sinh nhằm đáp ứng nhu cầu về protein của họ. Những người khác lập luận rằng người Aztec đã rất thành công cho đến thời điểm bị chinh phục và việc hiến sinh con người là để phục vụ các mục đích chính trị và tôn giáo quan trọng vốn không có liên hệ gì đến protein trong chế độ ăn cả. Mặc dù các người Tây Ban Nha đi chinh phục tạo ra hình ảnh là người Aztec theo một tôn giáo dã man đòi hỏi phải có hiến tế và tiêu thụ một số lượng lớn chiến tù binh, các bằng chứng độc lập đều phù hợp với kết luận là sự hiến tế con người và tục ăn thịt người theo nghi lễ thực ra là những thành phần không thể thiếu được trong tôn giáo của người Aztec.
Theo những tín niệm của người Aztec, con người có trách nhiệm phải tham gia vào sự cân bằng cơ bản của vũ trụ bằng cách hiến máu của mình cho các vị thần và lấy người làm vật hiến tế. Để thực hiện hiến tế bằng máu, người Aztec dùng lưỡi đá chai, xương cá, gai cá đuối độc hoặc gai cây thùa (agave) để rạch đứt lưỡi, dái tai, hoặc cơ quan sinh dục. Những người thuộc tầng lớp ưu tú có thể hăng hái thực hiện nhiều nghi thức, nhịn ăn, và tự hiến sinh nhiều hơn là dân thường, bởi lẽ máu của họ cao quý hơn nhiều.
Lấy con người làm vật hiến tế không phải là ít gặp trong các nền văn hóa cổ xưa, nhưng mức độ hiến sinh con người ở người Aztec rõ ràng là không có tiền lệ. Tuy nhiên, nhiều tài liệu xa xưa của người Tây Ban Nha về mức độ ghê rợn của tục ăn thịt người đều dựa trên tin đồn từ kẻ thù của người Aztec. Dù vậy, kết tội người Aztec đem người ra làm vật hiến tế và ăn thịt hàng ngàn chiến tù chỉ là cái cớ để người Tây Ban Nha dựa vào đó mà tiêu diệt nền văn hóa và tôn giáo của người Aztec.
Một số học giả cho rằng cơ sở dinh dưỡng, kinh tế và xã hội của đế quốc Aztec khuyến khích tục ăn thịt người. Theo giả thuyết “ăn thịt người vì đói”, do người Aztec đã cạn kiệt các tài nguyên cho nên tầng lớp ưu tú quay sang ăn thịt người để lấy protein chất lượng cao. Vì vậy, chiến tranh và sự hiến tế là một cách để giải quyết nạn nhân mãn, sự suy thoái môi trường, thu hoạch mùa màng không ổn định và thiếu hụt protein.
Những người phê phán giả thuyết này lại cho rằng tất cả các tầng lớp trong xã hội Aztec-quý tộc, thường dân và nô lệ - thường có đủ calorie và tìm đủ lượng protein từ động vật và thực vật. Vì thế, lấy người làm vật hiến tế không phải là một đáp ứng đối với nạn đói kém và áp lực dân số. Hơn thế nữa, những người tham gia tục ăn thịt người theo nghi lễ đều có vị trí cao nhất trong xã hội và có lẽ họ là những người ít có khả năng thiếu hụt protein nhất. Người Aztec bị tố cáo đã làm nhiều việc hung bạo, nhưng họ không phải là những kẻ bị tố là ăn thịt các xác chết trong chiến trận, hoặc thực hành tục ăn thịt người trong những thời điểm thiếu thốn lương thực. Nói chung, các nghi lễ hiến sinh và ăn thịt người thường xảy ra nhất vào thời điểm thu hoạch mùa màng, cho thấy rằng đây là những nghi thức tạ ơn. Mặc dù người Aztec lành nghề trong việc lấy người làm vật hiến tế, và khi thực hành nghi lễ, họ moi tim, lóc da và các hành động cắt xẻo khác trên những tù nhân kém may mắn, nhưng dường như họ không có một sự quan tâm trừu tượng nào về giải phẫu học và sự mổ xác. Hệ thống nông nghiệp của người Aztec cung cấp một chế độ ăn chắc chắn là khác với người châu Âu cùng thời nhưng không hẳn là thua kém. Các kỹ thuật nông nghiệp được người Aztec sử dụng có thể nuôi sống một số lượng lớn dân chúng bởi vì họ có nhân lực hùng hậu, có nhiều loại cây trồng phù hợp, thay đổi luân phiên các chất dinh dưỡng, sử dụng hiệu quả các nguồn nước, và luân canh ngô, đậu, và bầu bí, là bộ ba thực phẩm truyền thống của người da đỏ. Ngô, cây thực phẩm cơ bản của các nền văn minh Aztec, Inca và Maya, có thể mọc ở những nơi quá khô đối với lúa và quá nhiều nước đối với lúa mì. Các nghi thức tôn giáo, tranh vẽ, và các tượng đất gốm đều ghi nhận tầm quan trọng của ngô trong xã hội Aztec. Sự phụ thuộc quá mức vào ngô sẽ dẫn tới một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng, chẳng hạn như bệnh pellagra, nhưng một chế độ ăn kết hợp ngô, đậu và bí sẽ tạo ra sự cân bằng dinh dưỡng. Ngoài ra, thổ dân châu Mỹ còn chế biến ngô theo nhiều cách để làm tăng thêm những chất nuôi dưỡng cơ bản. Chế độ ăn của người Aztec cũng bao gồm nhiều loại rau củ, trái cây, rong, những thứ cây thích hợp vùng khô hạn như rau dền (amaranth), cây đời (mesquite), cây thùa (maguey), thứ cây được lấy nhựa để cất rượu tequila. So với người châu Âu, người Aztec tương đối nuôi ít gia súc, nhưng họ cũng có lạc đà không bướu llama, chó và chuột lang. Họ bổ sung vào chế độ ăn cơ bản những thứ như côn trùng, cá, lưỡng cư, bò sát, chim hoang và những loài có vú nhỏ chẳng hạn như - châu chấu, kiến, ếch, nòng nọc, rồng lửa salamander, cá sấu iguana, tê tê, chồn và chuột. Mặc dù người Tây Ban Nha cho rằng những món ngon của người Aztec đều là kinh tởm, nhưng thực ra nhiều loại côn trùng và lưỡng cư rất bổ dưỡng.
Người châu Âu không đánh giá cao tính vượt trội các tiêu chuẩn của người Aztec thời tiền Columbus về y tế công cộng, vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân, nhưng họ rất ngạc nhiên về kiến thức của các thầy thuốc và thầy thuốc thảo dược người Aztec. Cortés ghi nhận rằng các thầy thuốc bản địa rất giỏi và ông ta đặc biệt đánh giá cao sự hiểu biết của họ về cây cỏ làm thuốc. Các vua chúa Aztec thành lập các sở thú và vườn bách thảo để cho các thầy thuốc thảo dược trồng các cây cỏ thu thập từ các nơi với mục đích là pha chế và nghiên cứu các bài thuốc có tiềm năng. Trước khi đưa ra những bài thuốc mới cho tầng lớp cai trị sử dụng, họ đem thuốc thí nghiệm trên các nạn nhân hiến tế hoặc những người hạ tiện. Những thông tin mà thầy thuốc thảo dược và thầy lang thu thập được có thể đã nằm trong những bộ sách chép tay thời tiền Columbus, nhưng bọn lính và thầy tu Tây Ban Nha đã tiêu hủy toàn bộ những sách vở của người Aztec mà họ tìm được. Về sau, một số thầy tu Tây Ban Nha làm việc với những cộng sự người Aztec để phục hồi phần nào khối kiến thức y học cổ.
Do bộ máy thống trị kinh tế và quân sự của người Aztec bao trùm phần lớn vùng Mexico, cho nên các nghi thức tôn giáo và y học của họ được phổ biến ra khắp cả vùng. Vì thế, điều mà ta không biết nhiều là liệu những tín niệm và thực hành của người Aztec có truyền bá sang những nền văn hóa khác tại Trung Mỹ hay không. Giống như phần lớn các nền văn minh cổ xưa, người Aztec tin rằng các tác nhân gây bệnh có thể là siêu nhiên, ma thuật hoặc tự nhiên. Vì thế, sự hành nghề y học là một sự trộn lẫn giữa ma thuật, tôn giáo và kinh nghiệm. Đối với những chứng bệnh mà không đáp ứng với những thứ thuốc có sẵn hàng ngày, thì người bệnh sẽ tìm đến các cộng đồng thầy thuốc. Mặc dù những người hành nghề y rõ ràng là có phát triển kiến thức và các kỹ thuật chuyên môn, nhưng các thầy lang lại duy trì cả những đặc tính y học và tôn giáo. Các tu sĩ, thầy shaman và những loại thầy lang khác trục xuất hoặc khống chế các loại ma quỷ gây bệnh bằng cách cầu nguyện, dùng bùa mê, bùa chú, và những thứ đồ ma thuật khác. Các nghi thức chữa bệnh của người Aztec bao gồm thú tội, lễ thanh tẩy, xoa bóp và rà soát cơ thể để tìm những “vật được cấy vào” là những thứ gây ra bệnh nặng.
Các thầy lang tìm ra manh mối chẩn đoán bằng cách quan sát diện mạo người bệnh, hành vi và giấc mộng. Sau khi xem xét bộ lòng của một con vật giết để lấy điềm bói (animal oracle), thầy lang có thể cho đơn “thuốc” là người bệnh phải mang bùa, phù làm bằng vỏ sò, pha lê, đá hoặc tạng của một con vật. Nếu việc mang các thứ bảo vệ này không đem lại kết quả, thầy shaman có thể giúp bệnh nhân chuyển bệnh của mình sang một nạn nhân mới. Các nghi thức chữa bệnh có thể là hành xác chuộc lỗi, tự cắt xẻo thân thể, tắm, niệm thần chú, hít thuốc khói, hoặc ăn những hình tượng các vị thần nặn bằng bột nhào rau dền. Các chất gây ảo giác có vai trò quan trọng trong quy trình chẩn đoán và điều trị của một số bệnh. Thầy shaman có thể nuốt các chất gây ảo giác và thăng sang các thế giới khác để hỏi ý kiến các bậc siêu nhiên và sau đó đem về một chẩn đoán và có lẽ một cách điều trị. Các nghi thức nhằm tán dương tượng trưng các vị thần, chẳng hạn như đốt nhiều thứ dầu và nhựa cây để tạo ra khói thơm, cũng có tác dụng thực tế là xua đi các côn trùng độc hại.
Các tu sĩ Aztec thờ phụng nhiều vị thần, nam và nữ, trong số đó một số vị có liên quan đến một số bệnh, một số bài thuốc chuyên biệt, và những người hành nghề y. Nhiều vị thần cai quản đời sống hàng ngày và nhiều vị đòi hỏi phải dâng vật hiến tế là người và động vật. Những vị thần này có thể làm cho người hoặc toàn bộ xã hội bị bệnh để trừng phạt những vi phạm của cá nhân hoặc tập thể. Có những vị thần gắn kết với các cây cỏ làm thuốc, những bệnh ngoài da, bệnh hô hấp, kiết lỵ, giấc ngủ và việc giải mộng, những bệnh của phụ nữ, sinh con. Chẩn đoán nguyên nhân những bệnh siêu nhiên và tiến hành nghi thức xoa dịu cơn thịnh nộ đòi hỏi sự phụng tự của các thầy lang phục vụ cho từng vị thần phù hợp. Về mặt phân công theo chức năng, thì các thầy lang Aztec có thể phân ra là người trích máu tĩnh mạch, phẫu thuật, hoặc nội khoa chủ trị những bệnh ở mắt, dạ dày, bàng quang, và nhiều thứ khác. Nha sĩ Aztec điều trị chứng viêm lợi, nhổ răng sâu, và làm các thủ thuật thẩm mỹ. Nghệ thuật chữa trị có thể truyền từ cha sang con qua cách học việc hoặc học tập tại một số đền thờ có tu sĩ dạy cho học trò mối liên hệ giữa các vị thần, bệnh tật, và cách chữa bệnh cũng như về chiêm tinh học và cách đoán tử vi.
Thuật phù thủy có thể là nguyên nhân gián tiếp gây các thương tổn chấn thương, nhưng những nguyên nhân trực tiếp gây bong gân, trật khớp, gãy xương và bị trúng độc do rắn độc cắn hoặc côn trùng đốt thường là quá rõ ràng. Nói về việc điều trị gãy xương và bong gân, thì các thầy lang Aztec so tài ngang ngửa với các đồng nghiệp châu Âu. Họ sử dụng các lưỡi dao bén bằng đá chai trong phẫu thuật, trích huyết và các nghi thức tự cắt xẻo thân thể. Những nhà nghiên cứu khi quan sát các vũ khí và dụng cụ bằng đá chai cho rằng sự hữu dụng của những đồ tạo tác này là một trong những lý do vì sao nền văn hóa tiền Columbus không phát triển được kỹ thuật luyện kim theo kiểu châu Âu được.
Một lợi thế lớn trong phẫu thuật và sản khoa của người Aztec là sự quan tâm chung đến tính sạch sẽ. Những chế phẩm chứa thảo mộc và vi nấm gây nghiện chẳng hạn như jimson weed (thuộc họ cà độc), marijuana, mescaline, và peyote (một loại cây xương rồng), có lẽ là để làm giảm đau. Các vết thương, nhọt, và áp-xe đều được rửa và đắp bằng nhiều loại cỏ, dầu, thuốc đắp và thuốc mỡ. Các phẫu thuật viên nắn gãy xương, sử dụng thanh nẹp và bó bột, và lấy tóc người làm chỉ may các vết thương hở. Các phẫu thuật viên người Aztec và Maya thực hiện khoan sọ, mặc dù người Inca là những người được biết nhiều nhất đã làm phẫu thuật này. Các vết thương ở đầu được điều trị bằng cách che lại với những thứ thuốc cao làm bằng nhựa cây, lòng trắng trứng, lông chim, máu và tro. Ngoài các thứ thảo dược, các bài thuốc Aztec có chứa các khoáng chất như ngọc bích và than chì, và những phần cơ thể và sản phẩm của động vật chẳng hạn như mật, nọc độc, nước tiểu, sừng, bột xương nghiền và mật ong. Một thứ nhựa dẻo, sau này được biết là cao su, được dùng để làm ống bơm thụt tháo phân ở ruột.
Những tài liệu biên niên do các nhà quan sát Tây Ban Nha trong đó có thầy thuốc vào giới tăng lữ, đã ghi lại những nhận xét đầu tiên về bệnh tật và nghề y tại Tân Thế Giới, nhưng những tài liệu này chứa nhiều điều bị bóp méo. Do không thể và không muốn chấp nhận các học thuyết lạ, người châu Âu cố nhồi nhét các quan niệm của Tân Thế Giới vào các lý thuyết cổ điển của châu Âu. Mặc dù một số nhà truyền giáo chú ý đến nền văn minh Aztec, mục đích của họ là thu thập thông tin về các tập quán thời tiền - Columbus nhằm đẩy nhanh việc cải hóa người da đỏ theo đạo Thiên Chúa. Các nhà truyền giáo muốn hiểu rõ các tôn giáo, thần thánh và nghi lễ của người da đỏ để phát hiện những nghi lễ bị cấm có ngụy trang thành sự thờ cúng Thiên Chúa giáo hay không. Các tu sĩ thậm chí còn cấm sử dụng và trồng cây dền (amaranth), một thứ hạt cốc có chứa protein chất lượng cao chủ yếu của người Aztec, bởi vì cây này được dùng trong các nghi lễ chữa bệnh của người địa phương. Điển hình, hình tượng các vị thần bản địa được nặn bằng bột dền nhào và sau đó đem ra ăn trong các lễ hội tôn giáo. Đối với các tu sĩ và nhà chinh phục người Tây Ban Nha, điều này rất giống như sự chế nhạo việc ăn bánh thánh của đạo Gia tô. Sau khi bị chinh phục, cây dền trở thành rất hiếm, nhưng trong thập niên 1970, các nhà dinh dưỡng đã phát hiện lại giá trị của nó.
Sau Công cuộc chinh phục, sự bén rễ các phái bộ truyền giáo của người Tây Ban Nha đã dẫn tới những vụ dịch mang tính tàn phá như đậu mùa, sởi và những bệnh khác trong số những dân da đỏ bị bắt đi khỏi các làng mạc của họ và bị buộc phải lao động cho các ông chủ mới. Các phái bộ truyền giáo do các tu sĩ Tây Ban Nha lập ra để gom góp các thổ dân trước đây bị ly tán nhằm giúp cho họ cải sang đạo Thiên Chúa thuận lợi hơn. Những người da đỏ cải đạo đã chịu đựng sự sụp đổ các hệ thống xã hội truyền thống, điều kiện sống thiếu vệ sinh, chen chúc, thiếu ăn do chế độ ăn càng ngày càng bị thu hẹp, các dịch bệnh, lao động nhọc nhằn, tất cả những thứ đó đưa tới sự giảm sút tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ tử. Những khảo sát do chính quyền thực dân tiến hành trong thế kỷ 17 đã ghi nhận sự sụt giảm liên tục số lượng dân da đỏ, những đòi hỏi cống nạp và lao động càng ngày càng tăng và sự tan rã các cộng đồng thổ dân châu Mỹ.
Từ những năm 1530, các nhà truyền giáo đã thành lập trường học tại vùng Tây Ban Nha mới, tại đây họ đào tạo người Aztec thành người chép sách và thông dịch nhằm thu thập các thông tin về chủng tộc học và đẩy nhanh việc cải đạo của người da đỏ. Vì vậy, ghi chép về thuốc của người Aztec được bảo tồn trong một số ít tài liệu viết bằng tiếng Nahuatl, ngôn ngữ của người Aztec và được dịch sang tiếng Tây Ban Nha hoặc Latin. Lịch sử tự nhiên quan trọng của vùng Tây Ban Nha mới cũng được các thầy thuốc Tây Ban Nha biên soạn. Năm 1570, vua Philip II cử Francisco Hernández (1517-1587) đến Tân Thế Giới để thu thập các thông tin về những “thứ tự nhiên” tìm thấy tại đế quốc Tây Ban Nha mới. Hernández được cho là đã hỏi ý các thầy thuốc bản địa, người làm thuốc, thầy thuốc trị bệnh bằng thảo dược, để khảo nghiệm những đặc tính của thứ cây, cỏ và thảo dược của Tân Thế Giới, và xác định thứ nào có thể cho ra thuốc mới. Mặc dù Hernández chủ yếu chỉ quanh quẩn gần Mexico City, các bác sĩ bản địa và thầy thuốc trị bệnh bằng thảo dược đã cung cấp cho ông này hàng trăm thứ cây, con mà châu Âu chưa hề biết đến. Hernández thử xác định những đặc tính được nhắc đến của những thứ thuộc Tân Thế Giới này qua các thử nghiệm lâm sàng tại các bệnh viện của Mexico City. Khi quay về Tây Ban Nha, Hernández mang theo hàng trăm minh họa và ghi chú bằng tiếng Náhuatl, Tây Ban Nha, Latin mô tả khoảng 3.000 cây cỏ. Được ca ngợi là Pliny của Tây Ban Nha, Hernández biên soạn bộ sách gồm nhiều quyển về lịch sử tự nhiên vùng Tây Ban Nha mới và một báo cáo về lịch sử và phong tục của thổ dân.
Theo Hernández, người Aztec biết được các đặc tính chữa bệnh và kinh tế của khoảng 1.200 cây thuốc. Ngoài những thuốc gây xổ, cắt sốt, thuốc bổ và nhiều thứ khác, Tân Thế Giới còn đưa ra nhiều thứ thuốc gây độc mới mà về sau các nhà hóa học đã phân lập được nhiều chất gây ảo giác, thuốc thần kinh, thuốc tê, thuốc giảm đau và thuốc gây nghiện. Mặc dù Hernández đánh giá các dược liệu và cách điều trị của người Aztec dựa trên các học thuyết thể dịch cổ điển châu Âu, ông ta cũng ghi nhận sự đắc dụng của hệ thống phân loại Náhuatl. Để tạo điều kiện cho công trình của mình được phổ biến rộng rãi hơn, Hernández cho dịch từ tiếng Latin sang Tây Ban Nha và Náhuatl. Tiếc rằng, bộ chuyên luận lớn mà ông dự tính đã không được xuất bản khi ông còn sống. Các nhà tự nhiên học khác trình bày những tóm tắt và trích dẫn lại được nhiều thế hệ thầy thuốc đánh giá cao.
Sau khi Mexico rơi vào tay các nhà chinh phục năm 1521, và trở thành thuộc địa Tây Ban Nha của vùng Tây Ban Nha cùng với phần lớn vùng Trung Mỹ, Texas, California, Arizona, New Mexixo và những vùng khác. Đến năm 1523, thủ đô của người Aztec được xây dựng lại với các lâu đài và pháo đài dành cho chính quyền quân sự mới; các nhà thờ, bệnh viện và trường học được xây dựng trên đống đổ nát các đền thờ và cung điện của người Aztec. Trong khoảng 300 năm dưới ách thuộc địa, các nhà cai trị và lập nghiệp Tây Ban Nha đã cố đem cấy các định chế và tư tưởng y khoa châu Âu vào một thế giới bị tàn phá bởi sự chinh phục quân sự, bệnh dịch và sự sụp đổ cấu trúc xã hội bản địa. Không thèm chú ý đến các điều kiện địa phương, họ cố đưa vào vùng Tây Ban Nha mới những luật lệ hà khắc, các yêu cầu về cấp phép, và các cấu trúc tổ chức tương tự như những thứ quản lý các thầy thuốc, dược sĩ và hộ sinh tại Tây Ban Nha.
Trừ những tri thức về cây cỏ làm thuốc, nền y học bản địa bị lên án, truy bức và hầu như tàn rụi. Tuy nhiên, có lúc một hình thức y học độc đáo đã phát triển trên cơ sở kết hợp các yếu tố của sự thực hành bản địa và các truyền thống Hippocrates.
Mặc dù người Tây Ban Nha đã tàn phá hệ thống xã hội và quyền lực của đế quốc Aztec, nhưng họ không thể thay đổi được ngay những tín niệm dân gian của thổ dân. Thật vậy, những tín niệm cơ bản nhất của người dân lại còn cổ xưa hơn đế quốc Aztec và đã trải qua biết bao nhiêu cuộc thăng trầm từ những kẻ chinh phục trước đó. Tại Mexico ngày nay, các thầy thuốc cổ truyền, gọi là curanderos và brujos vẫn còn có khách hàng. Những người theo y học hiện đại thường xem các thầy thuốc y học cổ truyền như là vật cản đối với sự tiến bộ y học và là mối đe dọa cho nền y tế công cộng. Những cách điều trị của các thầy lang curanderos và brujos có thể phản ánh sự pha trộn giữa nghề y của người Aztec với phong tục và các lý thuyết của y học Hippocrates.