← Quay lại trang sách

NỀN VĂN MINH MAYA

Người châu Âu có thể đã nhìn thấy Maya qua chuyến đi cuối cùng của Columbus vào năm 1502, nhưng họ hầu như không biết gì về nền văn minh này mãi đến năm 1517 khi một trận bão cuốn ba chiếc tàu Tây Ban Nha đến mỏm đất đông bắc của bán đảo Yucatan. Những người sống sót mang về những câu chuyện về những thành phố bí ẩn với các đền thờ chứa đầy châu báu. Cuộc chạm trán giữa người Tây Ban Nha và người Maya được Bernal Diaz del Castillo (khoảng 1492-1581), một binh sĩ Tây Ban Nha tham gia chinh phục Mexico và Diego de Landa (1524-1579), là Giám mục Yucatan, ghi lại. Từng nghiên cứu người Maya để tìm cách cải đạo cho họ, Diego de Landa đã thu gom và hủy đi nhiều thư tịch của họ. Sau công cuộc chinh phục, những người Maya cải sang Thiên Chúa giáo đã ghi chép lại những truyền thống lịch sử và tôn giáo được truyền miệng hoặc qua các tài liệu tượng hình. Có nhiều nghi ngờ về tính chân thực và sự tin cậy của các tài liệu Mayan thời tiền Columbus, nhưng một số câu chuyện trong các bản văn này dường như trùng hợp với những bản khắc tìm thấy trong các đền thờ cổ của người Maya.

Những thành viên của nhóm văn hóa và ngôn ngữ Maya chiếm lĩnh các khu vực nhiệt đới của những vùng hiện nay là Mexico, Guatemala, Belize, Honduras, và El Salvador. Vào thời cực thịnh, nền văn minh Maya đã có những thành phố tráng lệ, những đền thờ, kim tự tháp, tượng đài, các trung tâm lễ lạc, các tài liệu ghi bằng chữ tượng hình, các tính toán phức tạp khi làm lịch, hệ thống thủy lợi công phu, các khu chợ búa trù phú, và một hệ thống đường lát đá rộng khắp. Nền văn minh Maya đã phát triển rực rỡ khoảng 1.000 năm trước khi bước vào thời kỳ suy thoái lớn. Khi người Tây Ban Nha đến vào đầu thế kỷ 16, thì các phế tích của nhiều đô thị Maya đã chìm sâu trong rừng già Guatemala và miền nam Mexico. Một số cộng đồng Maya sống trong các vùng xa xôi hẻo lánh vẫn còn giữ được ngôn ngữ và văn hóa của họ nhiều năm sau Công cuộc chinh phục. Các nhà nhân chủng học và sử gia đã tìm hiểu được lịch sử của người Maya khi nghiên cứu văn hóa của con cháu họ.

Những nghiên cứu gần đây về đồ tạo tác và các công trình tạc bằng đá tại các phế tích của các thành phố cổ đã không nhất trí với các ý kiến trước đây về việc xác định thời điểm của những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ Maya cổ điển. Lấy ví dụ, các phế tích tại Cival, một thành phố cổ ở Guatemala, đã phát hiện toàn bộ những đặc trưng của các đô thị Maya cổ điển: phức hợp kiến trúc, các kim tự tháp, đền đài, các đồ gốm và văn bản khắc trên đá. Điều ngạc nhiên là, có lẽ Cival đã có người ở vào khoảng năm 600 trước CN và đã đạt đỉnh cao vào khoảng 150 năm trước CN. Các nhà khảo cổ học trước đây cho rằng thời kỳ Maya cổ điển bắt đầu vào khoảng năm 250 trước CN. Tại các đô thị khác trước kia được xếp vào thời tiền-cổ điển, người ta cũng đã phát hiện bằng chứng rất sớm của một nền văn hóa phát triển khá cao.

Thời kỳ cổ điển của nền văn minh Maya chấm dứt vào thế kỷ thứ 9 với sự sụp đổ đầy bí ẩn của các đô thị lớn. Mặc dù có nhiều yếu tố - dân số quá tải, suy dinh dưỡng, dịch bệnh, chiến tranh, thay đổi khí hậu, phá rừng, xói mòn đất, hạn hán và mất mùa- chắc chắn đã góp phần làm suy tàn nền văn minh Maya, nhưng chiến tranh và sự thay đổi khí hậu chắc chắn đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Cả một thế kỷ dài với những đợt khô hạn nghiêm trọng bắt đầu vào thế kỷ thứ 7. Sự hiện diện của vô số bộ xương người trong các giếng sâu dùng để hiến tế (cenote) và hang động thiêng liêng của người Maya chứng tỏ rằng để ứng phó vơi các đợt khô hạn tàn khốc, người Maya đã phải đem người ra hiến tế các vị thần càng ngày càng nhiều khi những lời cầu khẩn xin mưa mỗi lúc càng trở nên vô vọng.

Các nhà thám hiểm thế kỷ 18 hình dung về người Maya là những người có trình độ văn minh cao, đô thị hóa và hòa bình, là những người luôn nghĩ tới nghệ thuật, vũ trụ quan, thiên văn, toán học và cách tính toán lịch. Người ta nghĩ rằng nền văn minh cổ điển của người Maya là một liên minh các thành bang hợp tác, hòa bình, dưới sự cai trị của các tu sĩ nhiều thế lực và giới quý tộc giàu có, bên dưới là đám nông dân chăm chỉ làm ăn. Nhưng khi các nhà khảo cổ phát hiện nhiều vị trí và bắt đầu giải mã nghệ thuật và các văn khắc trên bia của họ, thì mới nhìn ra một hình ảnh rất khác biệt của đế quốc Maya. Các chứng cứ mới cho thấy người Maya luôn sống trong hoàn cảnh chiến tranh; chiến tù bắt được đều bị hành hạ và đem tế sống cho các vị thần.

Phần lớn các văn khắc trên bia của người Maya là tài liệu biên niên của các bậc vua chúa, thần thánh, các huyền thoại và các nghi thức, nhưng một số là các kiến thức giúp ta hiểu được các tín niệm của họ về sức khỏe và bệnh tật, cũng như các nghi thức trích huyết và hiến tế con người. Như được mô tả trong các tác phẩm nghệ thuật Maya, trích huyết là một phần quan trọng của các nghi lễ tôn giáo và chính trị. Vua chúa và giới quý tộc được cho thường xuyên và hăng hái thực hiện nghi lễ tự hiến sinh, bởi vì máu của họ được đánh giá cao. Với lòng nhiệt thành với nghi thức tôn giáo và có lẽ dưới tác dụng của thuốc, làm cho họ không còn cảm thấy đau đớn, họ sẽ đâm xuyên qua lưỡi, dương vật, hoặc dái tai và xoi một đoạn dây thừng qua vết thương. Sau đó máu được thu thập và dâng lên các vị thần. Một hình khắc mô tả một nghi lễ trong đó một phụ nữ quý tộc, kéo một khúc dây thừng có móc đầy gai xuyên qua lưỡi của mình trong lúc đó máu chảy ròng ròng vào một cái giỏ dưới chân bà ta.

Sự tranh giành khốc liệt giữa các nhà nước đã được phản ánh trong các nghi lễ từ đó quyện vào các công trình xây dựng và cư dân. Tại nhiều đền thờ và dinh thự hoang phế khắp vùng Trung Mỹ, các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều thứ khó giải thích bao gồm đồ gốm bể nát, tượng nhỏ, dụng cụ, đồ trang sức và các đồ tạo tác khác. Các học giả cho rằng những hội hè cúng tế có thể đi trước những “nghi lễ tận diệt” dữ dội trong đó các công trình xây dựng và đồ đạc bên trong đều bị phá hủy tất tần tật, chắc là để tượng trưng cho sự thất bại về vật chất và tinh thần của kẻ địch. Những mảnh vụn còn lại trong đống đổ nát các công trình của người Maya trước đây được cho là của đám hôi của đến chiếm ngụ những nơi này sau khi các vị vua chúa và quý tộc lìa bỏ. Các sử gia và nhà khảo cổ học cố đưa ra một quan điểm hài hòa hơn về nền văn minh của người Maya, có lẽ nằm ở giữa huyền thoại không có cơ sở về một thế giới Maya an bình và một thế giới mới quá thiên về bạo lực và tàn ác.

Những nghiên cứu về các học thuyết sinh học-dân tộc học của các nhóm dân nói tiếng Maya đã cung cấp những tri thức sâu về đời sống, các quan niệm văn hóa và kiến thức thực vật của người Maya cổ xưa. Các quan điểm của người Maya về phân loại thực vật có một tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhà khoa học chuyên về dược lý học hiện nay. Các bài thuốc của người Maya gồm có một loạt các thảo dược địa phương, khoáng chất, và các phần cơ thể và sản phẩm của động vật, cũng như nhiều thứ thuốc pha chế có chứa thuốc lá. Người châu Âu lần đầu nhận thấy người Aztec có một phong tục mà họ gọi là “uống thuốc lá”, nhưng sau đó họ phát hiện ra người Maya còn có những cách sử dụng thuốc lá lạ lùng hơn nữa. Một đơn thuốc có chứa thuốc lá và một thứ chiết xuất đặc biệt là đem ngâm con cóc sống vào rượu thảo dược. Thuốc lá là thành phần chính trong các bài thuốc chữa đau nhức, cảm cúm, mụn nhọt, đau răng, áp-xe, sốt, mệt mỏi, bị rắn độc cắn. Phụ nữ dùng thuốc lá để tránh sẩy thai, để tống nhau thai và còn nhiều thứ nữa.

Thuốc lá trộn với coca và vôi làm từ vỏ sò hầm được dùng làm thuốc kích thích hoặc chất gây say. Ngoài việc chống mệt mỏi, những bài thuốc này được dùng để bảo vệ chống lại rắn và những con vật có nọc độc khác. Trong các nghi thức chữa bệnh, các thầy shaman và người làm thuốc thường nhai một số lượng lớn thuốc lá rồi phun nước bọt có chứa thuốc lá lên khắp người bệnh nhân. Khi say thuốc, thầy shaman có thể nhìn vào tận bên trong cơ thể bệnh nhân. Thuốc lá cọng với những thứ lá làm say khác cũng được dùng để làm thuốc thụt tháo, như được mô tả trong nghệ thuật Maya. Uống nước thuốc lá và thụt tháo bằng khói thuốc lá chẳng bao lâu sau được chấp nhận tại châu Âu. Mặc dù một số thầy thuốc châu Âu kết tội việc sử dụng thuốc lá, nhiều người lại ca tụng các tác dụng xổ, gây ngủ và gây say của nó.

Các thầy thuốc châu Âu cũng có phần mơ hồ về cây cocoa, một sản phẩm đầy thú vị được người Maya dùng như thực phẩm và thuốc bổ. Bột cocoa và chocolate được làm từ hạt quả cocoa. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng người Maya lấy cocoa làm thức uống từ những năm 600 trước CN, tức là sớm hơn khoảng 1.000 năm so với cách suy nghĩ trước đây. Các nhà thám hiểm người Tây Ban Nha nhận xét là người Maya thích đổ hỗn hợp cocoa từ bình này sang bình kia để tạo ra bọt. Hạt cocoa có thể rang, xay và pha với hương liệu và nước. Thứ đồ uống cổ xưa này có thể làm tăng lực nhưng vị hơi đắng. Cacao được đem về Tây Ban Nha trong những năm 1520, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 17, thứ đồ uống mới xa lạ này chỉ trở nên phổ biến tại châu Âu. Thậm chí nhiều người còn nghi ngờ chocolate, nhiều người khác lại ca ngợi những đặc tính làm thuốc có thể có của chất này.

NỀN VĂN MINH INCA

Cuzco tại Peru là trung tâm của đế quốc Inca, có thời bao gồm những phần thuộc các vùng hiện nay là Argentina, Bolivia, Chile, Colombia, và Ecuador. Người Inca đã chinh phục những lãnh thổ rộng lớn, bao trùm nhiều môi trường khác nhau và khuất phục các dân tộc thuộc nhiều nền văn hóa rất khác biệt. Hệ thống đường bộ xuất sắc của họ, nhờ các tay chạy bộ tiếp sức và các nhà trạm, cho phép vua chúa Inca liên lạc với các quan chức trong khắp đế quốc. Các phế tích gồm nhiều nền ruộng, các hệ thống dẫn nước và các đô thị tại Peru ra đời trước đế quốc Inca cho thấy các xã hội phức tạp có thời đã phát triển phồn thịnh tại vùng này. Có nhiều bằng chứng khảo cổ học đáng kể tại khu vực cho thấy nhiều thời kỳ dân số phát triển cùng với sự hưng thịnh của các hệ thống xã hội, tiếp đến là những thời kỳ suy tàn và sụp đổ xảy ra từ lâu trước khi người châu Âu xuất hiện.

Nền văn minh Inca kéo dài chỉ khoảng 100 năm, thời điểm huy hoàng là lúc Francisco Pizarro (1475?-1541) cùng với nhóm người đi lùng kho báu đến đó vào năm 1532. May mắn cho Pizarro, là ban lãnh đạo của đế quốc Inca mới vừa bị suy yếu do tranh giành ngôi báu sau khi vua chết và những thành viên quan trọng nhất của giới quý tộc Inca, có lẽ là do bệnh đậu mùa. Trong vòng hai năm, Pizarro đã bắt được và hành quyết Atahualpa (1502?-1533), là vua của xứ này từ năm 1525 và Pizarro đã phá hủy các nền móng của đế quốc Inca. Thành công của Pizarro rõ ràng là có sự tiếp tay tàn phá của những thứ bệnh gây dịch đã xảy ra trước khi trực tiếp gặp người Âu. Một vụ dịch tai hại, có lẽ là đậu mùa, đã càn quét vùng này vào giữa thập kỷ 1520, làm cho đế quốc trở thành miếng mồi ngon trước các kế hoạch chinh phục Peru của Pizarro. Những vụ dịch sau đó, có lẽ là sốt chấy rận, cúm, đậu mùa và sởi, đã tàn phá vùng này vào cuối thế kỷ 16. Vào thập niên 1550, con cháu các quý tộc Inca kể lại lịch sử và các truyền thống của tổ tiên họ để cho những người chép sách như Juan de Betanzos ghi lại ký ức mà sau này được xuất bản dưới hình thức Truyện kể của người Inca.

Không giống người Maya và Aztec, người Inca không xây dựng hệ thống chữ viết, nhưng các vị “ghi nhớ” chuyên nghiệp đã mã hóa và ghi lại các thông tin bằng quipu (hoặc khipu), tức là những khúc dây nhiều màu sắc được thắt nút. Các nhà chinh phục và truyền giáo người Tây Ban Nha, do nghi ngờ rằng quipu có thể chứa các tài liệu về tôn giáo và lịch sử của người Inca, cũng như các ghi chép trần tục hơn về tài chính, nên đã cho đốt toàn bộ thư viện quipu. Các nhà khảo cổ học lúc đầu cho rằng quipu là những bảng tính bằng vải hoặc dụng cụ để nhắc nhớ, nhưng một số học giả tin rằng một số quipu phức tạp có thể chứa nhiều thông tin hơn là các số liệu tài chính và thống kê dân số. Nếu quipu chép lại được lời nói cũng như số thì đây là một hệ thống chữ viết độc đáo, nhưng khả năng này vẫn là chủ đề tranh cãi. Không có “phiến đá Rosetta” nào được phát hiện cũng như không có quipu nào được giải mã.

Các nhà khảo cổ học đang thu thập nhiều thông tin mới về nền văn minh Inca qua các cuộc thám sát những nơi thiêng liêng và các thành phố bị chôn vùi mới được phát hiện gần đây, cũng như qua các phân tích những đồ tạo tác và hài cốt tại các địa điểm khảo cổ nổi tiếng như Machu Picchu. Năm 1911, Hiram Bingham III phát hiện Machu Picchu, một đô thị cách Cuzco 50 dặm. Bingham phổ biến từ “thành phố bị lãng quên” qua những quyển sách đầy uy tín của mình, Machu Picchu: Một pháo đài và một thành phố bị lãng quên của người Inca. Machu Picchu có lẽ là một trong nhiều điền trang và nơi nghỉ dưỡng thôn dã tư nhân của giới quý tộc Inca. Các hài cốt được các nhà khảo cổ học khảo sát cho thấy rằng có nhiều gia đình đã sống và chết đi tại Machu Picchu. Tuy nhiên, qua các đồ dùng giản dị tìm thấy trong mộ, chứng tỏ rằng hài cốt đó thuộc về những người làm việc tại điền trang hơn là của giới quy tộc chọn nơi này làm chỗ ẩn dật. Qua những hài cốt cho thấy công nhân được nuôi dưỡng khá tốt, mặc dù chế độ ăn của họ chủ yếu là bắp, và sâu răng khá phổ biến. Công nhân rõ ràng là từ nhiều nơi, vì xương sọ của họ có hình dạng khác nhau. Nhiều nhóm dân tộc tạo ra các biến dạng sọ rất rõ bằng cách bó chặt đầu của nhũ nhi.

Việc phát hiện một nghĩa địa cổ ở ngoại thành Lima, Peru, có lẽ phát hiện nhiều điều về cuộc sống, y tế, bệnh tật, và tổ chức xã hội của người Inca hơn là việc phát hiện ra một “thành phố bị lãng quên” khác. Sự khô cằn của vùng sa mạc duyên hải của Peru tạo nên điều kiện bảo tồn tuyệt hảo, mặc dù các thi thể không được ướp xác. Năm 2003, các nhà khảo cổ học đã khai quật hài cốt của trên 2.000 người Inca, nhưng nghĩa địa còn chứa nhiều ngôi mộ nữa cũng như các đồ tạo tác vô giá. Các xác ướp thuộc đủ các thành phần xã hội và các nhóm tuổi. Nhiều xác còn nguyên tóc, da, mắt. Nhiều xác được chôn lại thành từng bó, có bó chứa đến 7 xác và cân nặng khoảng 200kg. Trong những bó xác này, xác được bọc lại bằng vải bông thô và đồ dệt theo từng lớp. Một số bó có người lớn và trẻ em, cũng như các đồ tùy táng như dụng cụ, vũ khí, đồ gia dụng, đồ gốm, vải, dụng cụ để khâu và dệt, đồ trang sức và nhiều thứ khác. Một số xác ướp có kiểu tóc cho biết họ thuộc tầng lớp quý tộc. “Những chiếc đầu giả” (những chiếc túi nhét đầy bông vải, lấy tóc bao lên trên), là một dấu hiệu khác cho biết địa vị cao trong xã hội, cũng được tìm thấy trong khoảng 40 bó xác ướp. Các xác ướp được bảo tồn kỹ cũng được tìm thấy tại các nơi khác ở Peru và Chile.

Các tượng bằng gốm tìm thấy tại các địa điểm khảo cổ cho thấy là người Inca bị bệnh Carrión giai đoạn phát ban rất phổ biến. Các nhà quan sát người Tây Ban Nha mô tả bệnh này phù hợp với những tổn thương phát ban ngoài da (Verruga peruana) của bệnh và giai đoạn cấp tính có sốt gọi là sốt Oroya. Vi khuẩn gây bệnh Carrión có thể tìm thấy trên nhiều động vật nhỏ tại Nam Mỹ. Con người bị nhiễm qua trung gian truyền bệnh là ruồi cát. Mãi cho đến thập niên 1870, khi hàng ngàn công nhân chết vì dạng sốt cấp tính khi xây dựng tuyến đường sắt từ Lima đi Oroya, thì bệnh này là một trong nhiều bệnh gây sốt và bệnh ngoài da còn bí hiểm tại các vùng nông thôn. Năm 1885, Daniel A. Carrión (18591885), chứng minh tính đồng nhất cơ bản của bệnh Verruga peruana và sốt Oroya bằng cách lấy máu của một bệnh nhân verruga tiêm vào chính mình. Ông ta chết vì sốt Oroya, là bệnh có tỷ lệ tử vong rất cao khi chưa có kháng sinh. 10 năm sau, Ernesto Odriozola (1862-1921), công bố một ghi chép về các thí nghiệm của Carrión, và lấy tên ông để đặt cho bệnh này. Bệnh ruồi cát (Leishmaniasis) có lẽ đã được mang tới châu Mỹ theo con đường buôn bán nô lệ, nhưng một số tượng gốm ở Peru mô tả những khuyết tật ở mũi và môi tiêu biểu cho một bệnh địa phương, bệnh uta, hoặc bệnh ruồi cát châu Mỹ.

Kiến thức y học và thực hành phẫu thuật, cũng như sự tổ chức cộng đồng y học của người Inca rõ ràng là đã đạt đến mức độ cao. Một nhóm các thầy thuốc ưu tú cha truyền con nối phục vụ cho Hoàng đế Inca, còn các thầy thuốc, phẫu thuật viên khác, thầy thuốc chữa bệnh bằng thảo dược, và thầy lang phục vụ cho đại chúng. Các phương pháp điều trị gồm có thuốc thảo dược, tắm, trích máu, xoa bóp, điều trị vết thương nhiều loại và nhiều thứ khác. Ngoài việc xử lý vết thương, gãy xương và trật khớp, các phẫu thuật viên Peru còn thực hiện các cuộc mổ lớn chẳng hạn như cắt chi và khoan sọ, có lẽ với sự giúp sức của lá coca. Hàng ngàn chiếc sọ bị khoan tìm thấy tại các địa điểm khai quật, là những bằng chứng hùng hồn chứng tỏ tài nghệ mổ xẻ của các thầy thuốc thổ dân châu Mỹ.

Coca, một loại cây bụi được người Inca coi là thiêng liêng, từ đó trích ra cocaine và các alkaloid khác. Các nhà quan sát thế kỷ 16 ghi nhận rằng thổ dân Peru trồng cây coca trong rừng trên dãy Andes, lấy lá, rồi trải ra trên vải phơi khô ngoài nắng. Lá khô được đem trộn với tro bếp hoặc vôi sống và đem nhai để chống mệt mỏi, làm bớt buồn ngủ, làm đầu óc hưng phấn và giúp cho cơ thể chịu được những hoàn cảnh cần phải gắng sức mặc kệ đói, khát, hoặc lạnh. Lá coca trộn với thuốc lá và những chất khác có thể tạo ra một trạng thái say thuốc. Các nghiên cứu hiện đại về sinh lý học ủng hộ tín niệm truyền thống cho rằng thổ dân da đỏ ở Peru sử dụng lá coca vì lẽ thứ lá này giúp cho cơ thể thích ứng tốt hơn khi bị đói, lạnh và mệt mỏi ở độ cao.

Trong những năm 1860, một nhà ngoại giao Mỹ đến viếng Cuzco, tại đây ông sưu tập được một số đồ cổ ngoạn trong đó có một chiếc sọ người bị khoan, ông ta bèn gởi cho Paul Broca (1824-1880), là một nhà nhân chủng học người Pháp. Ý kiến của Broca về chiếc sọ trong hội nghị của Hội nhân chủng học Paris năm 1867 đã kích thích việc tìm kiếm nhiều ví dụ khác về phẫu thuật thời tiền sử. Những chiếc sọ bị khoan về sau được tìm thấy tại châu Mỹ, châu Âu, châu Phi và châu Á, đã dẫn đến những cuộc tranh luận phải chăng kỹ thuật này được một nền văn hóa phát triển rồi phổ biến sang nơi khác hoặc tiến hóa một cách độc lập tại từng vùng riêng biệt. Nguồn gốc của các hình thức khoan sọ khác nhau vẫn còn chưa rõ, nhưng thủ thuật này có lẽ đã xuất hiện tại châu Mỹ và Cựu Thế Giới trước khi có các chuyến du hành của Columbus.

Có lẽ trên một nửa số sọ cổ xưa bị khoan trên thế giới đã được tìm thấy tại Peru. Trước khi khoan, cả thầy thuốc và bệnh nhân có lẽ đều nhai lá coca để làm cho tinh thần hưng phấn và phẫu thuật viên có thể bôi một thứ chiết xuất từ coca lên sọ để gây tê tại chỗ. Mặc dù đây là một phẫu thuật dài và khó, nhiều bệnh nhân hồi phục và sau đó sống một cuộc đời bình thường. Một số người trải qua hai hoặc ba phẫu thuật, vì thấy trên sọ có nhiều lỗ khoan và có bằng chứng lành xương. Phẫu thuật này có lẽ được thực hiện để điều trị các chứng nhức đầu trầm trọng, động kinh và chấn thương sọ, chẳng hạn như vết thương lún sọ khi bị đập bằng gậy, bị ném đá hoặc chùy có gai trong chiến trận. Khoan sọ để lấy đi các mảnh xương vỡ và làm giảm áp lực cho não bộ.

Nghiên cứu hàng trăm chiếc sọ bị khoan tại Peru, có niên đại từ năm 400 trước CN đến thập niên 1530, người ta phân biết được 4 phương pháp khoan sọ: nạo xương, cắt xương hình chữ nhật, cắt xương hình tròn và khoan rồi cắt. Nạo xương là cạo mỏng dần xương tại một khu vực cho đến khi đụng tới màng cứng. Cắt xương hình chữ nhật là cắt 4 rãnh tạo thành một hình vuông và nạy mảnh xương ra. Cắt xương hình tròn cho tỷ suất thành công và sống sót cao nhất. Phẫu thuật viên cắt nhanh một rãnh hình vòng càng lúc càng sâu vào sọ cho đến khi tách được một mảnh xương. Khoan một loạt những lỗ nhỏ kề nhau rồi cắt lấy ra từng mảnh xương là một kỹ thuật ít gặp và rất nguy hiểm bởi vì có thể đâm trúng vào não.

Các nhà nghiên cứu thấy rằng nhiều yếu tố của y học cổ truyền trên 500 năm đã được truyền lại cho người dân của vùng Andes tại Peru và Bolivia. Giống như phần lớn các hệ thống cổ truyền, nghệ thuật chữa bệnh đặt nền tảng trên ma thuật, kinh nghiệm và tôn giáo. Một sự pha trộn hiếm hoi giữa Tây y và y học cổ truyền của người da đỏ đã xuất hiện trong thập niên 1930 tại Puno, một vùng núi hẻo lánh thuộc vùng đông nam Peru. Vào thời đó, sự quan tâm về các quan niệm và thực hành y học bản địa được khuyến khích qua sự xuất hiện một phong trào quốc gia gọi là indigenismo, phong trào này nhấn mạnh và tôn vinh các truyền thống và văn hóa bản địa. Phong trào này thúc đẩy hoạt động của Manuel Nunẽz Butrón (1900-1952), một thầy thuốc đứng ra tổ chức đội xung kích vệ sinh nông thôn cho thổ dân tại Puno. Mục tiêu của đội xung kích vệ sinh này là tôn trọng các giá trị bản địa, sử dụng người địa phương, thúc đẩy việc tiêm vaccine phòng đậu mùa, cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường, chống lại bệnh sốt chấy rận và nhiều thứ khác. Điều tra dân số năm 1940 cho thấy ở vùng này tỷ số cán bộ y tế trên số dân là 1 trên 24.000 dân. Tỷ số tại Lima là 1 trên 350 dân. Đội viên xung kích làm việc như các bác sĩ lưu động, nhưng chỉ sau hơn một thập niên, do yêu cầu hiện đại hóa đã thay thế yêu cầu lý tưởng hóa văn hóa truyền thống cho nên những đội xung kích này không tồn tại nữa.