BỆNH TẬT TẠI CHÂU MỸ
Các nền văn minh cao của châu Mỹ cung cấp khá nhiều tiêu điểm chuyên biệt để phân tích tác động của những đợt xâm nhập đầu tiên của châu Âu, tuy nhiên ảnh hưởng trên các dân tộc bản địa thì khó đánh giá hơn nhiều bởi vì cả một mạng lưới tiếp xúc rộng khắp và sự đa dạng rất lớn về dân số, văn hóa và môi trường. Những ý kiến khái quát hóa mang tính suy diễn vẫn còn tiếp tục, cũng như những nghiên cứu chi tiết của từng vùng và từng dân tộc. Ngay cả các phương thức định cư và toàn bộ dân số của châu Mỹ thời tiền Columbus vẫn còn là những vấn đề gây tranh cãi. Nếu hầu như không có tranh luận gì về thực tế là dân số của thổ dân châu Mỹ đã suy giảm ghê gớm sau khi tiếp xúc với người Âu, thì tầm vóc của sự sụp đổ, mức độ trầm trọng của các vụ dịch, cách thức mà những bệnh gây dịch lây lan, qua tiếp xúc trực tiếp và không trực tiếp với người Âu, và các yếu tố làm thêm nguy ngập, đều là không chắc chắn và gây tranh cãi. Mặc dù những bệnh của châu Âu rõ ràng là gây tác hại cho thổ dân châu Mỹ, nhưng tác động của bệnh lại tùy thuộc vào các yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế, định chế phức tạp cũng như diễn biến tự nhiên của bệnh.
Công cuộc chinh phục các đế quốc của người Aztec, Inca và Maya của người châu Âu đã mang lại cái mà các sử gia gọi là sự trùng hợp đầy tai họa của “những vụ dịch trên vùng đất trinh nguyên” (các trận dịch bệnh mới đối với một khu vực) và “sự xâm nhập của loài móng guốc” (môi trường bị thoái hóa khi du nhập động vật gặm cỏ vào các hệ sinh thái mới).
Sự du nhập các động vật gặm cỏ thuần hóa từ châu Âu đã làm thay đổi cảnh quan và kiểu thức tiếp cận các tài nguyên thiên nhiên. Lấy ví dụ, những con cừu hiền lành gặm cỏ, đã nuốt chửng các đồng cỏ và sinh sôi nhân giống vượt quá khả năng chịu đựng của vùng đất. Do phải đi tìm thêm đất cho súc vật và cây trồng, người châu Âu đã hủy hoại các tập quán nông nghiệp truyền thống, làm hỏng đất đai và buộc thổ dân phải di dời sang nơi khác ngày càng tăng.
Trong một vụ dịch trên vùng đất chưa hề có bệnh đó, không có người nào trong cộng đồng có được miễn dịch, bởi vì toàn bộ dân cư chưa hề tiếp xúc với bệnh. Nếu tất cả các thành viên của một cộng đồng mắc bệnh cùng lúc, thì tỷ lệ tử vong vọt lên rất nhanh bởi lẽ sẽ không người khỏe mạnh để chăm lo cho người ốm dù chăm sóc đơn giản nhất. Khi cha mẹ và ông bà bị bệnh hoặc chết, nhũ nhi và con nít sẽ chết vì kiệt nước và chết đói ngay cả khi chúng không mắc bệnh. Điều này không có nghĩa là những người chết có hệ thống miễn dịch yếu hoặc khiếm khuyết. Hơn thế nữa, do hậu quả của những bệnh gây dịch, nguồn cung cấp thực phẩm sẽ mất đi bởi lẽ không có người khỏe mạnh đủ sức trồng trọt hoặc thu hái mùa màng, hoặc chăm sóc gia súc.
Dĩ nhiên, Tân Thế Giới không phải là chốn thiên đường không có bệnh, nhưng những thứ bệnh của Cựu Thế Giới như đậu mùa và sởi đã hủy hoại thổ dân châu Mỹ và, vì thế, những bệnh này đã góp phần giúp cho người Âu chiếm đất của người bản địa làm thuộc địa. Một sự suy giảm dân số liên tục đầy thảm họa có thể đã xảy ra khi những trận dịch đậu mùa mang tính tàn phá đi trước và kéo theo sau là những đợt dịch bệnh bổ sung, rồi bị giáng thêm mùa màng thất bát và thiếu hụt thực phẩm. Những yếu tố như thế đã làm cho dân số tại đây không thể nào phục hồi được như đã từng xảy ra sau những trận đại dịch tấn công Cựu Thế Giới. Những bệnh của châu Âu lan truyền từ nơi này sang nơi khác ngay cả khi không có người Âu, đã để lại sự chết chóc và hỗn độn và làm mất đi kiến thức về những kiểu thức sinh hoạt đã từng hiện diện trước đó.
Đáp lại những than phiền về sự sụt giảm quá mức số dân da đỏ làm cho thiếu nhân công, vua Charles I của Tây Ban Nha chấp thuận cho mang nô lệ trực tiếp từ châu Phi tới. Từ đầu thế kỷ thứ 16 đến cuối thế kỷ 19, có khoảng 10 triệu người Phi được mang đến Tân Thế Giới qua việc buôn bán nô lệ. Do số nô lệ chết quá cao trong những đợt vận chuyển kinh hoàng sang châu Mỹ đến nỗi một số sử gia ước tính có lẽ chỉ còn 25% số nô lệ bị cưỡng bức xuống tàu là sống sót khi đến được Tây bán cầu. Tuy nhiên, người Âu lại tin rằng dân Phi thích ứng tốt hơn với điều kiện lao động tại Tân Thế Giới so với thổ dân châu Mỹ, chủ yếu là nhờ họ đã có miễn dịch đối với sốt vàng và sốt rét. Các hậu quả y học của việc buôn bán nô lệ châu Phi khá phức tạp, có thể là do sự pha trộn chưa có tiền lệ của các kho vi trùng từ châu Âu, châu Phi và châu Mỹ. Một số bệnh rất nguy hiểm cho người da đỏ, nhưng dường như lại không hề đụng đến người da trắng và da đen; một số khác dường như nguy hiểm cho người da trắng và da đỏ, nhưng lại tránh người da đen.
Các nhà quan sát thế kỷ 18 ghi nhận là một số bệnh - chẳng hạn như tiêu chảy và kiết lỵ, bệnh ký sinh trùng, bệnh hoa liễu, viêm phổi, áp-xe phổi, bệnh ăn đất (pica), ghẻ cóc, đậu mùa, uốn ván, ngứa, bệnh về mắt, các thứ sốt, và bệnh gây ngủ - đều có đặc trưng là liên hệ đến việc buôn bán nô lệ. Nhiều bệnh của châu Phi trở thành bệnh thường trú tại Tân Thế Giới, trừ bệnh gây ngủ bởi vì thiếu vectơ truyền bệnh là ruồi tsetse. Để điều trị bệnh kiết lỵ, người châu Âu chấp nhận ipecac, một thứ thuốc của người da đỏ điều trị các bệnh tiêu chảy và một số trường hợp ngộ độc. Những bệnh gây sốt “từng cơn” và “sốt đái ra nước đen từng cơn” có lẽ là sốt rét hoặc sốt vàng. Việc kiểm dịch đối với các nô lệ châu Phi mới không ngăn được sự du nhập một số bệnh: những bệnh có thời gian ủ bệnh dài, những bệnh được phát tán qua những người lành mang trùng, và những bệnh được lây truyền qua các trung gian truyền bệnh là côn trùng mà nơi nào cũng có. Vì thế, việc buôn bán nô lệ có thể gắn liền với sự tái phân bố trên phạm vi toàn cầu những bệnh như lỵ amip, giun móc, bệnh phong, bệnh giun chỉ, bệnh giun rồng (Guinea worm có tên khoa học là Dracunculus medinensis), ghẻ cóc, giang mai, mắt hột, sốt rét, sốt vàng và những bệnh khác.
Các vụ dịch có lẽ đã xảy ra trước khi các nhà thám hiểm Tây Ban Nha
Cabeza de Vaca (1490?-1557?) và Francisco Vásquez de Coronado (15101554), đi đến vùng Tây Nam và vùng Đồng Cỏ Lớn ở Bắc Mỹ. Các nhà thám hiểm đi sau de Vaca và Coronado chỉ thấy những vùng đất hoang vu dân cư thưa thớt. Những ghi nhận của họ đã tạo nên huyền thoại về vùng Đồng Cỏ Lớn là “một vùng săn bắn bao la không người ở”. Sự sụt giảm nhanh dân số rõ ràng là đã xảy ra trước khi người châu Âu xâm nhập vào nhiều vùng ở Bắc Mỹ có nghĩa là người Âu không thấy được những nền văn hóa của vùng này vào thời cực thịnh với tính đa dạng và dân cư đông đúc. Vào những năm 1730, những toán thợ săn bắt đầu tham gia buôn bán với người châu Âu, từ đó họ sử dụng ngựa và súng và cũng thay đổi luôn hình thức săn bắn, giao dịch, chiến trận và các kiểu bệnh tật.
Mặc dù phương pháp chủng ngừa đậu mùa theo Jenner đã được đưa vào châu Mỹ từ đầu thế kỷ 19, nhưng những vụ dịch rải rác và thường xuyên gây tử vong vẫn còn là một mối đe dọa, đặc biệt cho thổ dân châu Mỹ khắp vùng Tây bán cầu. Tại nước Mỹ, đạo luật chủng ngừa năm 1832 giao nhiệm vụ cho chính quyền liên bang bảo vệ người da đỏ khỏi bệnh đậu mùa, nhưng kinh phí và các nguồn lực lúc nào cũng thiếu. Ngay cả khi có tiêm vaccine, thì thường xuyên cũng không hiệu quả bởi vì việc chuẩn bị tiêm hoặc bảo quản vaccine không đúng cách. Trong một số vụ dịch, vaccine cũng không hề được cung cấp, chẳng hạn như vụ đại dịch năm 1837-1839. Các trận dịch xảy ra với người da đỏ bộ tộc Pueblo và Hopi tại New Mexico và Arizona, từ năm 1898 đến 1899 là những vụ dịch đậu mùa lớn cuối cùng trong lịch sử của người da đỏ châu Mỹ.
Ảnh hưởng của châu Âu lên các nhóm dân bản địa châu Mỹ dần dà lên tận phía bắc, đến những khu vực là Alaska và Canada ngày nay, một vùng bao la gồm nhiều khu vực địa lý và khí hậu khác nhau nơi hình thành các nền văn hóa đặc thù của người Aleut, Eskimo và da đỏ. Trước khi tiếp xúc nhiều với người châu Âu, các vấn đề sức khỏe chính của họ chủ yếu là bệnh ngoài da và bệnh đường ruột, cũng như các bệnh hô hấp, phong thấp và một số bệnh khác. Các nhà thám hiểm và buôn bán đầu tiên, cả Nga lẫn Mỹ, đã đem đến rượu, thuốc là, bệnh đậu mùa, bệnh hoa liễu, bệnh lao và nhiều thứ bệnh khác. Trong thập niên 1860, một trận dịch đậu mùa tại British Columbia đã giết đi quá nữa số dân da đỏ và tiêu diệt người da đỏ tại đảo Queen Charlotte. Các tỷ lệ tử vong này đặc biệt kinh hoàng bởi vì lúc này việc tiêm phòng đậu mùa đã khá phổ thông rồi. Theo thống kê dân số từ những năm 1880 trở đi, số dân da đỏ đã giảm trên 20% so với lần thống kê 1839-1842 tại Hudson Bay.
Không phải người Âu nào cũng thống nhất cách nhìn về sự sụt giảm số dân bản địa, mặc dù họ đều nhất trí rằng sự biến mất của người da đỏ là điều không thể tránh khỏi. Người Tây Ban Nha một mặt mong chờ thu được thuế và lao động cưỡng bách từ người da đỏ, một mặt lo cứu rỗi linh hồn của đám dân này, thấy rằng viễn cảnh biến mất của họ thật là đáng thương xót. Bọn thực dân Anh nhìn nhận các tác động hủy diệt của những thứ bệnh mà người Âu đã mang tới cho thổ dân vùng New England. Một nhà quan sát mộ đạo của thế kỷ 17 đã viết: “Bàn tay của Chúa phù hộ sự khởi nghiệp của chúng con bằng gieo bệnh đậu mùa để quét sạch đám thổ dân nhung nhúc”. Mặc dù với những hậu quả mang tính hủy diệt của những thứ bệnh từ Cựu Thế Giới và những lời dự đoán về sự biến mất không thể nào khác đi được của người da đỏ châu Mỹ, khi tần suất bệnh đậu mùa và những bệnh dịch khác bắt đầu giảm, thì dân số thổ dân châu Mỹ trở nên ổn định dần và bắt đầu tăng trở lại. Sự quan tâm về ngôn ngữ bản địa, tôn giáo, y học, các nền văn hóa và những nền văn minh cổ xưa cũng bắt đầu tăng lên.
Những cuộc phỏng vấn với các thầy shaman da đỏ, người làm thuốc và các trưởng tộc vào thế kỷ 19 và 20 đã cung cấp những kiến thức về các tín niệm truyền thống, dù rằng không thể tránh khỏi sự pha trộn với những quan niệm và thực hành y học của châu Âu kể từ khi gặp gỡ người Âu. Lấy ví dụ, những bài thuốc chữa vết thương do đạn và các thứ thuốc có chứa những phần cơ thể của gà con và lợn rõ ràng là không phát xuất từ thời tiền Columbus. Dĩ nhiên, nhiều cách điều trị cổ truyền có sử dụng thân thể và sản phẩm của động vật, như mai rùa, đá bezoar trong dạ dày hươu, nai sừng tấm và chồn, và túi xạ của chồn hương (skunk).
Mặc dù những khác biệt về văn hóa, môi trường và trải nghiệm lịch sử, các lý thuyết về bệnh tật, cách dự phòng và điều trị giữa các nhóm thổ dân châu Mỹ lại có nhiều điểm giống nhau. Bệnh thường được gán cho tính xung khắc với nguyên mẫu linh hồn (spirit prototype) của một số loài động vật, nhưng người ta cũng cho rằng động vật cũng gợi ra cách điều trị một số bệnh nào đó. Một số bệnh được coi là do ma quỷ hoặc phù thủy gây ra, hoặc các nghi thức cúng tế. Các nghi lễ, bài hát và thuốc thảo mộc đều được coi là những thành phần quan trọng để chữa lành bệnh. Các thảo dược, lá, rễ và vỏ được dùng để làm thuốc bổ, băng bó vết thương, thuốc giải độc khi bị ếm và nhiều thứ khác. Một ý kiến có thể làm cho các thành viên của cộng đồng y học hiện đại chú ý đó là người bộ lạc Seminole tại Florida tin rằng nếu không trả tiền cho bác sĩ thì bệnh không khỏi được.