← Quay lại trang sách

8-Sự Mỹ hóa nền y học của Cựu Thế Giới

Những câu chuyện do Columbus và các nhà thám hiểm đầu tiên kể lại về việc phát hiện ra Tân Thế Giới đã làm thay đổi nghiêm trọng các tư tưởng của châu Âu về bản chất của thế giới và các dân tộc, cây cỏ và động vật hiện hữu trên đó. Nhưng chỉ trong thời gian khá ngắn, người châu Âu đã tìm cách tiếp thu và đưa các báo cáo về tình hình thám hiểm, chinh phục và định cư châu Mỹ vào cả hệ thống tín ngưỡng lâu đời lẫn ý thức chung về quyền được thụ hưởng của họ. Được nghe các câu chuyện về châu Mỹ giống như cảnh của một Vườn Địa đàng, những người đến các thuộc địa Bắc Mỹ của Anh ngay từ đầu thế kỷ 17 đều có các ý tưởng không thực tế về viễn cảnh tìm sự an lạc kinh tế và vật chất tại Tân Thế Giới.

Sau một chuyến đi muôn phần vất vả, ngay cả những ai không bị kiệt lực vì say sóng, thiếu ăn và bệnh tật, họ đều đối diện với một thứ khí hậu thường xuyên khắc nghiệt, các loại thực phẩm lạ, đói kém và khó khăn xây dựng những chốn định cư mới với các nguồn lực ít ỏi. Tỷ lệ tử vong cao của nhóm dân định cư vào giai đoạn thuộc địa đầu tiên đã phản ánh những tác động của nhọc nhằn và bệnh tật. Không tính tới những lời than phiền ở đâu cũng có về môi trường khắc nghiệt và lạ lẫm, kiểu bệnh tật xuất hiện trong thời thuộc địa thay đổi tùy theo từng vùng. Dân định cư tại tất cả các thuộc địa của Anh đều báo cáo mắc những bệnh hô hấp và dạ dày-ruột, sốt, bệnh trẻ em và các bệnh mạn tính thường gặp tại châu Âu. Thời tiết khắc nghiệt được coi là nguyên nhân của nhiều bệnh ở miền bắc, còn ở miền nam là sốt rét, giun móc và sốt vàng trở thành bệnh lưu hành. Những bệnh gây suy mòn cơ thể này, thường bị suy dinh dưỡng làm nặng thêm, được coi là các dấu hiệu của sự tụt hậu và thấp kém của miền nam.

Tuy nhiên, không giống với những người Âu ra sức chinh phục và chiếm lấy châu Phi và tiểu lục địa Ấn Độ làm thuộc địa, những người đến Tân Thế Giới lúc đầu bị sự đói khát chứ không phải những bệnh mới quấy rầy. Dân định cư châu Âu đầu tiên gánh chịu nhiều nhọc nhằn, nhưng có nhiều khả năng là các vấn đề chính của họ là do thiếu dinh dưỡng và thiếu thực phẩm. Nếu không muốn tìm sự chỉ bảo của thổ dân, họ có thể không biết được là nhiều loại thực phẩm có sẵn trước mắt họ và các nguy cơ có thể gặp đối với các loại cây cỏ và động vật có độc.

Bất luận những thiếu thốn và bệnh tật giáng xuống dân định cư đến từ châu Âu, sự tác động của sự nhập cư đã gây ra nhiều hậu quả lớn lao hơn nhiều cho thổ dân châu Mỹ. Dân khai hoang người Anh nhận thức rõ ràng tác động tàn phá mà những bệnh của châu Âu đã mang lại cho thổ dân vùng New England. Một nhà quan sát sùng đạo đã viết: “Bàn tay của Chúa đã chiếu cố buổi khởi nghiệp của chúng ta khi quét sạch đám thổ dân nhung nhúc bằng bệnh đậu mùa”. Dân lập nghiệp tại vùng New England và bọn binh lính Anh bị tố cáo đã cố ý lây truyền bệnh đậu mùa cho người da đỏ thông qua hàng hóa trao đổi, chẳng hạn như mền đắp bị vấy bẩn vi khuẩn, nhưng các cuộc tiếp xúc giữa thổ dân và các thủy thủ, ngư phủ và nhà buôn châu Âu cũng đủ phát sinh các trận dịch khá lâu trước khi người châu Âu đến lập nghiệp vĩnh viễn.

Ý tưởng cho rằng cơ thể con người vừa là một quan niệm văn hóa-xã hội cũng như là một thực thể đã được giới học thuật quan tâm nhiều từ những năm cuối thập kỷ 1980. Các sử gia đã sử dụng cách tiếp cận này để phân tích phong cách và các phương pháp mà đám dân lập nghiệp người Anh đi đến chỗ hiểu được những dị biệt sinh lý học giữa chính họ và thổ dân châu Mỹ. Khi mà bệnh tật của Cựu Thế Giới đã gây nên sự tàn phá, làm tiêu hao dân số bản địa, thì người châu Âu thấy rằng sự lập nghiệp thành công của họ tại Tân Thế Giới là bằng chứng cho thấy thổ dân châu Mỹ thực ra thích ứng kém đối với các đòi hỏi của môi trường châu Mỹ. Khả năng hiển nhiên không chống chọi các bệnh tật và vũ khí châu Âu của thổ dân đã khẳng định xu hướng về quyền thừa hưởng mà đám dân lập nghiệp châu Âu cho rằng thuộc về họ mọi thứ như châu báu, tài nguyên và “những vùng đất còn nguyên sơ và trống trải” của Tân Thế Giới. Vào cuối thế kỷ thứ 17, dân lập nghiệp người Anh nghĩ rằng cơ thể của họ đã đề kháng thành công đối với môi trường bệnh tật châu Mỹ. Thành công này khẳng định điều mà họ tin tưởng rằng chính họ chứ không phải là người da đỏ mới là cư dân thực sự của châu Mỹ.

Lúc đầu, dân định cư gốc Anh, Pháp và Tây Ban Nha thử ứng phó với bệnh tật bằng các phương pháp họ quen dùng ở Cựu Thế Giới. Tại các thuộc địa Tây Ban Nha và Pháp, chính quyền thử thành lập các cơ sở y tế kiểu châu Âu, nhưng do số lượng thầy thuốc ít quá nên không thể nào lặp lại cái khuôn mẫu trên dưới chặt chẽ của Cựu Thế Giới. Tại các thuộc địa Anh, người ta không làm gì mấy để di thực những định chế nghề nghiệp và giáo dục của mẫu quốc sang. Do phần lớn các thị trấn của thuộc địa Anh đều quá nhỏ cho nên khó mà lôi kéo được các thầy thuốc lành nghề. Trong đầu thế kỷ thứ 18, các thuộc địa Anh đều không có hội đoàn y khoa, trường y hoặc các bệnh viện lớn cố định.

Tại châu Mỹ thuộc địa, thầy thuốc, luật sư và giới tăng lữ có thể không giàu có nhưng họ có chung vinh dự là thành viên của một tầng lớp có học. Mặc dù vai trò chuyên môn khác nhau, do có học vấn cho nên họ có một trình độ học thuật hiểu biết chuẩn về thần học, triết học, khoa học và y học. Giới tu sĩ, là những người có được trình độ học vấn cao và được kính trọng nhất trong cộng đồng, cho nên họ cũng giải quyết những nhu cầu về y học cũng như về tinh thần cho người dân tại đây. Như Đức Cha Cotton Mather (1663-1728) giải thích, đó là “một cơ hội trùng hợp thiên thần” giữa nhiệm vụ và lòng trắc ẩn dẫn dắt các tu sĩ chăm lo phần hồn và phần xác cho các tín đồ. Ngoài ra, tu sĩ không cần phải bon chen trên thị trường chăm sóc sức khỏe, bởi vì vị trí của họ trong xã hội đã được bảo đảm bởi sứ mạng tôn giáo của họ. Mặc dù các tu sĩ và thầy thuốc có thể được kính trọng vì kiến thức lý thuyết và trình độ học vấn, nhưng thị trường y tế của châu Mỹ thời thuộc địa bao gồm cả người bán thuốc, phẫu thuật viên và phẫu thuật viên - thợ cạo, hộ sinh, điều dưỡng, thầy chữa bệnh bằng thảo mộc, thầy thuốc dân gian, và thầy thuốc lang thang chữa đủ thứ bệnh.

Thầy thuốc - thầy giảng được coi là có khiếu khi giải quyết những vấn đề về ốm đau và đau khổ trong các bài giảng của mình. Biết rõ tình trạng thiếu thầy thuốc tại các thuộc địa của Anh, nhiều tu sĩ thuộc thế kỷ 17 và 18 bổ sung học vấn thần học của mình bằng các bài giảng về giải phẫu học và sinh lý học. Ngay cả nếu một tu sĩ có trình độ học vấn cao nhất cũng không có kinh nghiệm lâm sàng khi đến vùng thuộc địa, thì ít nhất ông ta cũng cầu nguyện và đưa ra lời an ủi. Có lẽ ví dụ rõ nhất về thầy thuốc - thầy tu là trường hợp của John Winthrop, Jr. (1606-1676), vốn được người đương thời kính nể như là một thầy chữa bệnh và nhà khoa học. Mặc dù được đào tạo làm luật sư, nhưng Winthrop lại quan tâm đến giả kim thuật, thiên văn học, hóa học, học thuyết y khoa, lịch sử tự nhiên và dược học. Thư viện của ông chứa các công trình của Hippocrates, Galen, Avicenna, Paracelsus, von Helmont, và nhiều người nữa. Sau khi di cư đến New England năm 1631, Winthrop rời Massachusetts năm 1646 để lập nghiệp tại Connecticut. Vào lúc đó, tại vùng New England chỉ có vài bác sĩ, và không có bệnh viện chính thức. Có học vấn cao, có tiền bạc và được kính trọng, Winthrop chữa bệnh cho dân lập nghiệp và người da đỏ, và trả lời những thắc mắc cho các bệnh nhân ở xa. Có phần chiết trung trong cách chữa trị, Winthrop kê các đơn thuốc bao gồm những thứ thuốc theo kiểu Paracelsus cũng như các thứ thảo dược và động vật làm thuốc. Nói chung, mặc dù trong các dụng cụ hành nghề có những thứ cốc giác hơi, ông tránh rạch tĩnh mạch và sử dụng con đỉa để trích huyết. Khi sang Anh để xin một đặc quyền cho thuộc địa Connecticut, Winthrop được bầu vào Hội Hoàng gia London.

Không phải chỉ có các tu sĩ mới đảm nhiệm vai trò thầy thuốc. Một ví dụ, Benjamin Franklin (1706-1790), thú nhận rằng ông đã từng kê đơn thuốc và cảm thấy thoải mái khi đưa ra các lời khuyên y học. Tuy nhiên khi người thân trong gia đình bị bệnh, ông đưa đến thầy thuốc và theo sự chỉ dẫn của người này. Tuy nhiên ông vẫn cho rằng điều quan trọng đối với những ai tìm đến bác sĩ là phải suy nghĩ cho chính mình trước thay vì chỉ mù quáng nghe theo lời hướng dẫn của họ. Do số lượng thầy thuốc còn hiếm và phải trả tiền công khám bệnh, cho nên đa số dân lập nghiệp đều dựa vào các bài thuốc cổ truyền tại gia hoặc tìm trong các sách niên giám hay cẩm nang y học. Những tài liệu phổ thông như quyển Mỗi người tự điều trị cho chính mình: hoặc Thầy thuốc cho nông dân nghèo của John Tennet, quyển Thuốc men sơ khai của John Wesley (1747), quyển Tư vấn sức khỏe cho mọi người của Samuel-Auguste-André-David Tissot (1761), quyển Mọi người tự làm bác sĩ của Theobald, và Y học tại gia của William Buchan (1769). Sách Niên giám và báo chí cũng cung cấp các thông tin y học. Dần dần, các thầy thuốc trị bệnh bằng thảo dược cũng học được tác dụng điều trị của các cây cỏ địa phương và thay thế cho các loại thuốc nhập khẩu.

Không có nhiều thầy thuốc được đào tạo chính quy, nhưng ngay cả vào thế kỷ 18, họ cũng đòi hỏi những đặc quyền chuyên nghiệp và tìm cách áp dụng các luật hành nghề y ngặt nghèo. Tuy nhiên, những cố gắng nhằm hạn chế nghệ thuật chữa bệnh cho một nhóm nhỏ các thầy thuốc ưu tú lại đụng chạm đến các nguyên tắc bình đẳng đang thịnh hành, và bản thân nó không tác động mấy lên thị trường y khoa của Mỹ. Bên ngoài các thành phố lớn, tại các thuộc địa cũng như tại nước Anh, những người hành nghề thầy thuốc và bệnh nhân không đếm xỉa đến những nỗ lực nhằm chuyên nghiệp hóa và kiểm soát việc hành nghề chữa bệnh. Nhất là các thầy thuốc được đào tạo bài bản than phiền về sự cạnh tranh của đám lang băm, thầy thuốc gia truyền, và phụ nữ lớn tuổi, nhưng các bệnh nhân tiềm năng của họ thường chọn cái lý lẽ thông thường thay vì những lý thuyết trừu tượng. Dân lập nghiệp không tin vào những kẻ ngoan cố khăng khăng cho rằng cứ uyên bác là có địa vị, được kính trọng và được độc quyền trên thị trường y tế. Ý tưởng cho rằng người thầy thuốc chính hiệu là các quý ông, những người không làm công việc chân tay, nhưng được nể trọng vì có kiến thức lý thuyết không phù hợp với thực tế nước Mỹ lúc ban sơ.

Ngược lại với thang thứ bậc chặt chẽ vốn là đặc trưng của châu Âu, tại các thuộc địa của Anh, người làm nghề bán thuốc, phẫu thuật hoặc chữa bệnh đều được gọi là “bác sĩ”. Tại các thuộc địa, phần lớn những người trở thành bác sĩ đều trải qua thời gian học việc với một thầy thuốc có kinh nghiệm và còn lý thuyết thì học trong những sách y khoa chuẩn. Các gia đình giàu có có thể gởi con qua châu Âu để học chính quy ngành y và kinh nghiệm lâm sàng. Một số ít bác sĩ thời thuộc địa đã theo học các trường y khoa tại châu Âu, nhưng di cư sang Mỹ trước khi hoàn tất việc học hoặc lấy được tấm bằng chính thức.

Phụ nữ có thể được công nhận tài năng chữa bệnh trong các lĩnh vực như chữa bệnh bằng thảo dược, hộ sinh hoặc điều dưỡng, nhưng họ không được gọi là “bác sĩ”. Tương tự, những người có tài khéo riêng, như nắn xương hoặc nhổ răng, cũng không được nhận danh hiệu trên. Mặc dù phụ nữ có thể kiếm được tiền nhờ bán thuốc hoặc chữa bệnh, nhưng phần lớn các hoạt động chữa trị của họ chỉ xoay quanh trong gia đình, bạn bè hoặc hàng xóm. Hộ sinh thường được thực hiện không chính thức, nhưng một số cộng đồng bắt chước truyền thống châu Âu ban hành các quy định kiểm soát sự hành nghề của các nữ hộ sinh. Để bảo vệ trật tự xã hội, năm 1738 thành phố New York ban hành các quy định cấm các nữ hộ sinh không được che dấu khai sinh của trẻ không được thừa nhận, dấu lý lịch người cha, hoặc để cho đàn ông tham gia đỡ đẻ trừ trường hợp cấp cứu. Tuy nhiên, từ thập niên 1750, các bác sĩ nam giới được phép đỡ đẻ tại New York.

Vào cuối thế kỷ thứ 18, dân di cư từ nước Anh bắt đầu giảm và cung cách sống tại các thuộc địa Anh cũng ổn định dần. Mặc dù cấu trúc cộng đồng y học kiểu Anh được coi là khuôn mẫu và lý tưởng, nhưng dân định cư tin rằng cần phải thay đổi sự hành nghề y khoa tại Mỹ để phù hợp với các điều kiện về môi trường và xã hội của Mỹ. Các thành phố và thị trấn thuộc địa có thể cố làm theo các biện pháp y tế công cộng châu Âu như cô lập người bệnh, đưa ra các quy định kiểm dịch và loại trừ những nơi sinh ra chất bẩn nhưng việc thực thi các quy định về y tế công cộng và vệ sinh môi trường nói chung không chặt chẽ và kém hiệu quả. Khi các cộng đồng thuộc địa bị bệnh dịch đe dọa, bác sĩ và các nhà lãnh đạo không biết làm gì hơn ngoài việc cùng với các tu sĩ khuyến khích mọi người cầu nguyện, ăn chay và tham gia chăm sóc từ thiện cho người ốm.

Mặc dù tại vùng New England thuộc địa mật độ dân số thấp, các bệnh dịch lại xảy ra tuy thường xuyên nhưng mức độ nặng nhẹ không đoán trước được. Vì vậy, khi truy tìm nguồn gốc lan truyền các bệnh truyền nhiễm gây dịch có thể phát hiện những mắt xích xã hội, tôn giáo và thương mại vẫn còn dấu mặt ở đâu đó. Bệnh đậu mùa là một kẻ thù quen mặt, nhưng các bác sĩ thuộc địa quan tâm tới một bệnh được gọi là “rối loạn ở cổ họng” (throat distemper), cả hai đều là bệnh mới và nguy hiểm. Tại một số thành phố và làng mạc, có đến một nửa số trẻ em chết vì bệnh này. Hầu như phần lớn các gia đình tại vùng New England trong những năm 1730 đều sống rất cô lập và tự cung tự cấp, nhưng các bệnh lây vẫn trở thành dịch được. Ngay cả những người sống tại các thị trấn nhỏ và vùng thôn quê cũng thường xuyên tiếp xúc với người khác ở nhà thờ, trường học và chợ búa và các người bán hàng xén dạo, bác sĩ và tu sĩ đến thăm các gia đình bị cách ly. Cách ứng phó truyền thống đối với các bệnh truyền nhiễm gây dịch là cách ly người ốm và bố trí kiểm dịch cho những người mới đến, nhưng những biện pháp này được coi là vô ích bởi vì sự lây truyền từ người sang người không rõ ràng. Khi cho rằng bệnh rối loạn cổ họng không lây, các bác sĩ và thầy thuốc-mục sư có lẽ đã cho phép chính mình đóng một vai trò quan trọng trong việc làm cho bệnh phát tán.

Vụ dịch tạo nên sự căng thẳng giữa người dân và thầy thuốc tại Boston và những thị trấn bị dịch. Nhiều thầy thuốc tại Boston cho rằng bệnh phát triển mạnh là do các thầy thuốc nông thôn không đủ năng lực. Các bác sĩ được đào tạo khá hơn tại Boston tin chắc rằng họ có thể chẩn đoán và điều trị được bệnh nếu bệnh đi vào thành phố. Không ai ngạc nhiên, khi bệnh được phát hiện tại Boston, thì các bác sĩ tại đây cũng chẳng thành công gì hơn khi điều trị cho người bệnh. Các nhà dịch tễ học lưu ý đến phần mô tả chi tiết của BS William Douglass (1691-1752) khi ông đề cập đến cái bệnh gọi là “một thứ sốt phát ban có chấm mang tính dịch, kèm theo viêm amydan (angina ulcusculosa), một tác phẩm y học cổ điển của Mỹ thời ban sơ. Tuy nhiên các sử gia y học vẫn tranh cãi liệu có phải chứng bệnh xảy ra tại New England từ năm 1735 đến 1736 là bệnh sốt tinh hồng nhiệt hoặc bạch hầu, hoặc cả hai bệnh dịch cùng xảy ra tại New England trong thời gian đó.