← Quay lại trang sách

CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG VÀ NỀN CỘNG HÒA MỚI

Vào cuối thế kỷ thứ 18, dân số của các thuộc địa Anh đã tăng lên trên 1,6 triệu. Chiếm cứ và phát triển trên một vùng đất rộng lớn hơn nước Anh, đám dân lập nghiệp đều ý thức rõ sự thành công trong việc tạo dựng một cuộc sống kinh tế, chính trị, tôn giáo và thậm chí chính trị hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống tại mẫu quốc. Những mối căng thẳng ngày càng tăng với đỉnh điểm là Cuộc Cách mạng Mỹ, một cuộc chiến bắt đầu tại Lexington và Concord, Massachusetts, đã đưa tới việc ký kết Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 4 tháng 7, 1776 và cuối cùng chấm dứt 7 năm sau đó, năm 1781, khi người Anh đầu hàng tại Yorktown, Virginia.

Các hoạt động quân sự và tình trạng xáo trộn cuộc sống bình thường nói chung kết hợp với Chiến tranh Cách mạng rõ ràng đã làm tăng nhu cầu các dịch vụ về thầy thuốc, phẫu thuật viên, thuốc men, và bệnh viện. Trong chiến tranh việc cung cấp các thuốc men nhập khẩu bị giới hạn vì bị người Anh phong toả. Thiếu kinh nghiệm và hợp tác giữa các thuộc địa cũng như sự thiếu thốn kinh niên kinh phí và đồ tiếp tế, có nghĩa là về mặt tổ chức nền y học quân sự trong thời gian Cách mạng đã không đạt được kết quả gì nhiều. Tìm được người lãnh đạo có năng lực cho lực lượng y khoa cách mạng quả là điều cực kỳ khó khăn. Thực vậy, ba Tổng Giám đốc Dịch vụ Y tế đều nhanh chóng bị bãi chức do nhiều lý do khác nhau từ phản bội cho đến gian lận và đầu cơ đồ tiếp tế quân sự. Cuộc chiến năm 1812 cho thấy rằng tình trạng hỗn loạn trong chiến tranh cách mạng hầu như chẳng dạy gì cả cho một quốc gia mới về tầm quan trọng của việc tổ chức một lực lượng y học quân sự.

Bị cô lập nhiều không được tiếp cận với những thực hành y khoa chính quy, hệ thống giáo dục, những ràng buộc trong giấy phép hành nghề và các định chế nghề nghiệp của nước Anh, các hoạt động y tế công cộng tại các thuộc địa cũ hầu như không thay đổi gì nhiều kể từ sau cuộc cách mạng. Những người hành nghề y tại nước cộng hòa mới nói chung có thể chia ra làm hai nhóm: các thầy thuốc thuộc nhóm chính quy, chính thống và một nhóm hỗn tạp những người cạnh tranh, thường được gọi là những người hành nghề không chính thống hoặc không chính quy.

Các thầy thuốc chính thống cho rằng họ đại diện cho hệ thống thực hành và lý thuyết y học chủ đạo bác học, đáng kính, bắt nguồn từ Hippocrates. Không có nhiều bác sĩ Mỹ theo học tại các trường đại học châu Âu hoặc tham gia và nghiên cứu lâm sàng và khoa học, nhưng họ vẫn cứ cho rằng nền y học chính thống là đại diện cho tất cả các tiến bộ khoa học trong thời Phục hưng và Cuộc Cách mạng Khoa học. Tuy nhiên, trên thực tế, đa số dân ngành y đều noi theo một hệ thống y khoa khá giản lược được xây dựng bởi các nhà lý thuyết xuất sắc như Georg Stahl, Friedrich Hoffmann, Herman Boerhaave, William Cullen, và John Brown. Tuy chống đối quyết liệt với các thầy thuốc chính thống, nhưng các thầy thuốc trong nhóm cạnh tranh lại không có mấy điểm chung. Những thầy thuốc không chính quy thường dè bĩu các thầy thuốc chính thống là thành viên của một phái cạnh tranh mà họ gọi là y học dị căn (allopathic).

Trong thời kỳ phát triển và chuyển đổi xã hội sau - Cách mạng, các định chế dân sự, văn hóa, giáo dục và khoa học mới đã được thiết lập. Trong lúc hăm hở xây dựng các định chế bản địa, các thầy thuốc Mỹ thành lập các hội đoàn y tế địa phương, quận, tiểu bang. Các thầy thuốc ưu tú, những người đã theo học tại châu Âu, tin rằng sự quan sát và thí nghiệm sẽ dẫn tới những hiểu biết mới về sinh lý học con người, nhưng đa số các thầy thuốc đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự xét đoán thông thường và kinh nghiệm. Nhiều hội y học chấp nhận bộ quy tắc về đạo đức nghề nghiệp và các bảng giá dịch vụ chuẩn hóa cho các dịch vụ y tế coi đó là một cách để thống nhất ngành nghề, hạn chế sự cạnh tranh kinh tế, xây dựng các đặc quyền chuyên môn và loại bỏ những người hành nghề không chính quy. Các thầy thuốc cũng tổ chức các hội khoa học để bảo trợ cho các tạp chí và các cuộc thuyết trình. Nếu trong những tạp chí này không có gì độc đáo, thì ít nhất, chúng cũng cung cấp thông tin về các tiến bộ y khoa và khoa học tại châu Âu.

Y học và những sự kiện đề cao phúc lợi công cộng là những chủ đề được quan tâm nhiều đối với các người Mỹ thế kỷ 18. Nhiều người xuất sắc nhất trong số những người được kính trọng của quốc gia - các bậc Quốc phụ như Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, và Benjamin Rush

- rất quan tâm đến khoa học. 5 trong số các vị tham gia ký Hiến chương Độc lập: Josiah Bartlett, Matthew Thornton, Oliver Wolcott, Lyman Hall, and Benjamin Rush là các thầy thuốc rất quan tâm đến những vấn đề công cộng. Những chủ đề thực tiễn có thể đã chi phối nhiều cuộc thảo luận của xã hội Mỹ, như các quan niệm Khai sáng cũng ảnh hưởng đến các cuộc bàn cãi về mối liên hệ giữa tổ chức chính trị và xã hội của nền cộng hòa mới và sức khỏe của nhân dân. Những tác phẩm và hoạt động của Thomas Jefferson và Benjamin Rush (1745-1813) nói riêng cụ thể hóa đường lối mà các nhà lãnh đạo Cách mạng và những người xây dựng nền móng cho nền cộng hòa mới đã trăn trở về những vấn đề này.

Benjamin Rush, được biết trong lịch sử dưới tên “Nhà cách mạng ruồi trâu”, là thành viên của Hội nghị Lục địa, tham gia ký vào Tuyên ngôn Độc lập, và Giám đốc Ngân khố Mỹ. Là người chống đối quyết liệt nạn nghiện rượu, thuốc lá và chế độ nô lệ, ông lấy những lời của tiên tri Jeremiah để mô tả mình là “một người của sự xung đột và là một người của tranh luận”. Mặc dù tính cách không ngại đụng chạm của ông đã làm cho ông có lắm kẻ thù, John Adams ca tụng ông “là con người của khoa học, văn chương, có khiếu, có tri thức, triết học, lòng yêu nước, tôn giáo, đạo đức, có công trạng và hữu ích” mà ở Mỹ không có ai sánh kịp. Được nhiều người ái mộ kính trọng, Rush được coi là người thầy thuốc lỗi lạc nhất của nền cộng hòa mới và là người sáng lập ra ngành tâm lý học của Mỹ.

Là người uyên bác về mọi mặt, Rush đã theo học tại Trường Cao đẳng New Jersey và sau đó tập sự 5 năm với BS John Redman (1722-1808), vốn là môn đồ của Herman Boerhaave (1668-1738). Rush nhận bằng y học tại Edinburg năm 1768 và bỏ ra thêm một năm lưu lại London và Paris để học hóa học và y khoa. Quay về Philadelphia, Rush được bổ nhiệm một loạt các chức danh giáo sư về hóa học, lý thuyết và thực hành điều trị, sinh lý học, bệnh lý học và y học lâm sàng. Ông cũng làm thầy thuốc cho Bệnh viện Pennsylvania.

Cả Jefferson và Rush đều tin rằng chỉ có một xã hội nông nghiệp mới tạo ra một nền tảng chân chính về sức khỏe và thịnh vượng. Jefferson tuyên bố “Người nào lao động trên đất đai, người đó là con dân được Chúa chọn”. Ngược lại, sự đô thị hóa và công nghiệp hóa dẫn tới sự nghèo khó, bệnh tật, bất bình đẳng chính trị, bất công xã hội. Các ngành công nghệ khiến con người làm việc trong nhà, ít di chuyển sẽ không tốt cho sức khỏe. Nếu người ta không hưởng được những lợi ích của không khí trong lành và năng vận động, thì họ dễ bị bệnh còi xương và các bệnh làm suy mòn sức khỏe. Tuy nhiên, phụ nữ và trẻ em, khá thích hợp với công việc tĩnh tại, trong nhà. Những vụ dịch ở đô thị, dù rằng có phần bi thảm, đã mang lại sự khẳng định và niềm an ủi cho các bậc Quốc phụ, bởi vì, như Jefferson nói trong một lá thư gởi cho Rush, những vụ dịch như thế sẽ “ngăn chặn không cho các thành phố lớn mạnh là ổ dịch đối với đạo đức, sức khỏe và các tự do của con người”. Rush đồng ý với Jefferson khi cho rằng các đô thị giống như “những ung nhọt trên cơ thể con người” nhưng ông ta lại sống và làm việc giữa khoảng 40.000 cư dân của Philadelphia.

Do sự tự do chính trị có liên hệ với tình hình sức khỏe của cá nhân và xã hội, Rush khẳng định những người ái quốc tận hưởng sức khỏe tốt, tâm trạng vui vẻ, và hôn nhân thành công. Ngược lại, những kẻ thù của Cách mạng, sẽ bị suy sụp về tinh thần và thể chất. Các nguyên tắc chính trị tốt khuyến khích sức khỏe tốt, nhưng, Rush cảnh báo, tự do quá lố sẽ làm cho xã hội mất ổn định và vô chính phủ, có thể gây nên bệnh tật và mất trí. Cho dù tự do và chính phủ tốt đề cao sự an lạc chính trị, thể chất, tinh thần của người Mỹ đi nữa, họ cũng không thể nào thanh toán hết mọi dạng bệnh tật và tàn tật. Vì thế, các thầy thuốc phải đưa ra các cách điều trị cho các rối loạn tinh thần và thể chất phù hợp với môi trường kiểu Mỹ. Quyển “Tra cứu và quan sát y học về các chứng bệnh tâm thần” (1812) của Rush, chuyên luận đầu tiên về tâm lý học được viết tại Mỹ, được dùng làm sách hướng dẫn việc quản lý các cơ sở đầu tiên của Mỹ chăm sóc người mất trí. Ngoài lời khuyên phải giữ cố định các bệnh nhân bệnh thần kinh khi cần, Rush thường chỉ định những cách điều trị thông thường, đó là trích huyết và xổ ruột.

Theo Rush, thì tất cả các thứ bệnh đều do sự tích tụ các chất thối làm cho các mạch máu co lại theo cơ chế thần kinh. Các triệu chứng dường như liên quan đến nhiều thứ bệnh khác nhau thực sự chỉ là những biến đổi của cùng một rối loạn ban đầu, mà ta có thể giải thích đó là “một tác động sai hoặc co giật bất thường” của hệ thống bị bệnh, hoặc là một “sự kích thích bệnh hoạn” của hệ thống mạch máu. Vì thế, các biện pháp điều trị hiệu quả là giải phóng cơ thể khỏi các chất có hại và đem lại sự thư giãn cho hệ thống thần kinh bị kích động. Trên thực hành, điều này có nghĩa là lúc nào cũng phải tống các chất độc hại ra khỏi cơ thể bằng cách trích huyết, giác lể, gây ói, xổ, cho đổ mồ hôi và tăng tiết nước bọt. Tuy thế, Rush nhấn mạnh rằng việc điều trị nên biến cải theo từng điều kiện địa phương và các đặc điểm của người bệnh. Trong một thời đại mà bệnh tật đầy rẫy, không đoán trước được, lắm khi gây chết người, các thầy thuốc thường cho rằng nếu không có sự can thiệp tích cực thì kết quả tự nhiên của bệnh là tử vong. Do ít bệnh được thừa nhận như là những thực thể riêng biệt, và giai đoạn đầu của nhiều chứng bệnh lại rất giống nhau, cho nên bác sĩ có thể dễ dàng thuyết phục chính mình và bệnh nhân rằng họ đã ngăn ngừa được cái chết trong khi có thể người bệnh chỉ bị một chứng bệnh nhẹ. Mặc dù mọi thứ bệnh đều được gán cho cùng một rối loạn ban đầu bên trong cơ thể, Rush rất quan tâm đến các điều kiện môi trường có liên quan đến những bệnh gây dịch. Đóng góp đầu tiên của ông ta dành cho dịch tễ học là một tiểu luận được công bố năm 1787, “Điều tra về các nguyên nhân tăng bệnh số đái ra mật và giao động tại Pennsylvania kèm theo các mẹo để phòng ngừa”. Nhưng thành phố vẫn không hề thành công trong việc dự phòng những bệnh sốt thành dịch, như Rush đã nêu trong báo cáo “Bệnh sốt vàng giao động đái ra mật xuất hiện tại thành phố Philadelphia năm 1793”.

Nguồn gốc của bệnh sốt vàng hầu như cũng bí hiểm như bệnh giang mai và có liên quan đến cùng một vấn đề đó là sự phân bố của bệnh này tại Tân Thế Giới đối nghịch với Cựu Thế Giới trước khi Columbus tới Mỹ. Vẫn còn nghi ngờ ý kiến cho rằng nền văn minh Maya đã bị tiêu hủy là do sốt vàng hoặc các trận dịch của bệnh này đã từng xảy ra tại Vera Cruz và San Domingo giữa những năm 1493 và 1496. Vào thế kỷ 18, sốt vàng là một trong những bệnh đáng sợ nhất tại châu Mỹ. Một cơn bệnh sốt vàng bắt đầu bằng sốt, rét run, nhức đầu, đau lưng và các chi dữ dội, đau họng, buồn nôn và ói mửa. Các thầy thuốc có kinh nghiệm có thể phát hiện các dấu hiệu chẩn đoán chính trong giai đoạn đầu của bệnh, nhưng những ca nhẹ có thể chẩn đoán lầm với bệnh cúm, sốt rét hoặc những bệnh sốt khác. Các triệu chứng đặc trưng trong các trường hợp nặng là vàng da, sốt, cuồng sản và “ói ra nước đen” kinh koàng (do chảy máu trong dạ dày). Tổn thương ở tim, thận và gan có thể dẫn tới tử vong.

Mặc dù các vụ dịch xảy ra tại nhiều đô thị nước Mỹ, nhưng tình hình tại Philadelphia là rất nghiêm trọng. Philadelphia vào thế kỷ 18 là một trung tâm văn hóa, xã hội và chính trị của nước Mỹ và là một trung tâm giao thương sầm uất với vùng West Indies. Những trận dịch sốt vàng xảy ra năm 1798 tại Philadelphia, New York, Boston và các đô thị Mỹ khác đã chứng minh rằng người ta đã không học được gì nhiều từ vụ dịch năm 1793 về mặt dự phòng và điều trị. Từ cách hành xử của ông trong suốt trận dịch sốt vàng năm 1793 tại Philadelphia, Benjamin Rush thường được nêu là mẫu hình của thầy thuốc Mỹ về “ngành y học mạnh tay” (heroic medicine). Chắc chắn là, ông ta rất hăng say về giá trị của cách điều trị trích huyết và cho xổ liều mạnh và ông ta hùng hổ công kích những lập luận của những ai đối nghịch và sự rụt rè trong điều trị của họ. Tuy nhiên, ông ta không cho rằng mình đã sáng chế ra một hệ thống điều trị mới, cũng như đặt tên cho các phương pháp của mình là “bạo tay”. Thay vào đó, ông ta nói về giá trị của việc làm “xả tháo tối đa” bằng cách cho bệnh nhân liều lượng lớn thuốc xổ jalap và muối thủy ngân (calomel), trích huyết, đồ uống lạnh, chế độ ăn ít và áp nước lạnh vào cơ thể. Sau vụ dịch năm 1793, Rush mở rộng các liệu pháp điều trị bệnh sốt vàng sang các bệnh khác, và bắt đầu củng cố các tư tưởng và kinh nghiệm y học thành một hệ thống y học mới.

Nói chung, thuật ngữ “y học mạnh tay” nhằm chỉ đến cách điều trị bệnh bằng cách trích huyết quá phóng tay và cách sử dụng thô bạo những thứ thuốc hoặc kỹ thuật mạnh để tẩy ruột, làm cho ói và toát mồ hôi. Một số sử gia chất vấn việc sử dụng thuật ngữ này, nhưng Oliver Wendell Holmes (1809-1894), là thi sĩ và thầy thuốc, đã không thấy ngần ngại gì khi dùng từ này khi nhìn lại lịch sử của thuật điều trị của Mỹ. Với cung cách hoa mỹ nhất của mình, Holmes cật vấn là có cách nào khác hơn để cho người của thời Cách mạng chịu chấp nhận một hệ thống y học khác nếu không phải là cách “mạnh tay”. Ông ta giải thích là thế hệ can trường đó đã quen dùng “90 grain (1 grain=0,0648gr) quinine sulfate” và “3 dram muối thủy ngân (calomel)” (1 dram=1,77 gram). Bất luận như thế nào, thuật ngữ y học mạnh tay đã được sử dụng rộng rãi trong những năm 1830 bởi các bác sĩ, cả chính quy lẫn không chính quy, những người chấp nhận các phương thức ôn hòa hơn là cách điều trị trích huyết, xổ, gây ói thô bạo của những người đi trước.

Căn cứ theo các quan niệm hiện hành về các chức năng sống của cơ thể khi khỏe mạnh và khi bệnh, các biện pháp cực đoan được cho là hợp lý và cần thiết. Thầy thuốc và bệnh nhân thường suy nghĩ về sức khỏe và bệnh tật về phương diện cân bằng thể dịch và sự chuyển động của máu. Nếu máu không di chuyển dễ dàng, nó sẽ trở nên đặc, yếu và thối rữa. Như một xã hội lành mạnh cần có sự vận động tự do của người và hàng hóa, một cơ thể khỏe mạnh cần có sự chuyển động dễ dàng của máu qua các mạch máu và việc điều trị hoặc loại bỏ dự phòng phần máu bị thối rữa. Theo lý thuyết, độc tố và những chất dơ cũng có thể được loại ra khỏi cơ thể qua các chất dịch khác như mồ hôi, nước tiểu, phân, mủ và chất ói.

Thuật ngữ “mạnh tay” dường như đặc biệt phù hợp đối với các hoạt động của Rush trong trận dịch năm 1793 tại Philadelphia. Hầu như không có thời gian để nghỉ ngơi, ngủ hoặc ăn, Rush đã thăm hàng trăm bệnh nhân trong khắp thành phố và tiếp hàng chục người khác tại nhà của mình. Những người chỉ trích vị bác sĩ tốt bụng này cho rằng những người không có khả năng tìm Rush để được chữa bệnh thực ra lại hồi phục tốt hơn những người được ông ta thường xuyên điều trị bằng trích huyết và cho xổ. Khi cố tìm cách làm giảm cơn sốt cao của người bệnh, Rush lấy mền ướt, lạnh quấn bệnh nhân lại rồi tưới đẫm bệnh nhân bằng những xô nước lạnh và thụt tháo lạnh. Cứ tiếp tục trích huyết và cho xổ như thế hàng ngày cho đến khi nào bệnh nhân hồi phục hoặc chết. Rush biết rằng những người công kích cho rằng cách cho xổ của mình là quá thô bạo và cách trích huyết cũng “quá nhiều một cách không cần thiết”, nhưng ông ta tin rằng bệnh sẽ lui trước những cách điều trị như thế và nhấn mạnh rằng nguy hiểm duy nhất trong điều trị là sự nhút nhát quá mức.

Các thầy thuốc tại châu Âu có thể kê ra các điều trị khác đối với sốt vàng, nhưng những khuyến cáo của họ không nhất thiết nhẹ hơn. Trong một báo cáo giải phẫu bệnh trên một binh sĩ chết vì bệnh sốt vàng, P. C. A. Louis (1787-1872), nhà lâm sàng vĩ đại người Pháp, trình bày chi tiết cách điều trị của một bác sĩ quân y Pháp. Ngày đầu bệnh nhân được cho uống một lượng lớn dầu thầu dầu (castor oil), nhiều liều calomel, trong lúc hai thái dương được đặt những con đỉa đề hút máu. Ngày thứ hai ngoài một liều lớn calomel, bệnh nhân bị trích máu bằng con đỉa và dao chích. Ngày thứ 3, bệnh nhân được thụt tháo nhiều lần và uống 25 giọt cồn thuốc phiện (laudanum) trước khi chết.

William Cobbett (1763-1835), một nhà báo và nhà cải cách xã hội người Anh, đã đem Rush làm đề tài chế nhạo trong các bài phúng thích của mình. Khi sống tại Philadelphia, Cobbett (còn có tên là Peter Con Nhím) đã ra một tờ báo tên là Công báo Con nhím. Giống như Rush và Jefferson, Cobbett ca tụng đời sống thôn dã truyền thống và phàn nàn là Cách mạng công nghiệp đã mang lại sự bần cùng và sa đọa. Nhưng riêng về nghề y, thì Cobbett và Rush là kẻ thù không khoan nhượng. Căn cứ trên các nghiên cứu về trận dịch sốt vàng tại Philadelphia, Cobbett khẳng định rằng Rush đã có một ham mê bất thường khi rút máu người và nhiều bệnh nhân của ông này thực ra đã chết vì bị mất máu. Theo Cobbett, phương pháp của Rush là “một trong những phát kiến lớn nhất góp phần làm giảm dân số trên thế giới”. Đáp lại, Rush kiện Cobbett vì tội phỉ báng. Không có gì ngạc nhiên, khi tòa án Mỹ ưu ái người anh hùng cách mạng, và xử Rush thắng kiện, buộc Cobbett bồi thường 5.000 đô la.

Thất kiện vì tội phỉ báng không bịt được miệng Cobbett, ông này rêu rao rằng cái chết của George Washington (1732-1799) đúng ngay vào ngày Rush hể hả thắng lợi pháp lý là một ví dụ tuyệt vời của việc làm cho chảy máu đến chết “hết sức phù hợp với tay nghề của Rush”. Sau vụ kiện, Cobbett tung ra một tờ báo mới với mục đích cụ thể là tấn công các phương pháp của Rush, nhưng sau đó ông ta quay về Anh quốc xuất bản một tờ báo chuyên về cải cách xã hội và nghị trường. Các phương pháp về giáo dục đương thời cũng bị Cobbett khinh bỉ hết mực. Ông than phiền là nhiều năm tươi đẹp nhất trong thời trai trẻ đã “dành hết vào việc học những thứ không hề có chút gì hữu ích cho nhân loại”.

Mặc dù không thể chẩn đoán chắc chắn chứng bệnh cuối cùng của George Washington, có lẽ đó là viêm họng do nhiễm liên cầu, tụ cầu hoặc phế cầu. Nhằm chứng minh rằng những thứ gì làm được trong y học đều đã được làm, các y sĩ của Washington đã công bố một bản báo cáo về cái chết của ông này trên báo chí. Các bác sĩ James Craik và Elisha C. Dick cho rằng Washington bị bệnh là do dầm mưa khi cưỡi ngựa trên đồi Vernon. Lên cơn sốt run dữ dội, đau họng và sốt do chứng bệnh mà các bác sĩ gọi là cynanche trachealis, Washington cho rằng cần phải trích huyết. Một thợ trích huyết địa phương trích ở cánh tay người bệnh từ 12 đến 14 ounce (= 0,4 lít) máu. Ngày hôm sau, bác sĩ điều trị sợ rằng “bệnh sẽ chuyển biến nặng” nên đã làm thêm hai lần trích huyết hào phóng nữa, làm rộp cổ họng, tẩm ướt người bệnh với muối thủy ngân (calomel) và cho bệnh nhân thụt tháo trước khi hai thầy thuốc tham vấn đến tham gia điều trị. Thấy bệnh chưa đỡ, các thầy thuốc làm thêm một lượt trích huyết khoảng 32 ounces máu (= 0,95 lít) và tẩm thêm calomel, thuốc gây ói, hơi xông nước trộn dấm. Dù được điều trị “tận tình” với thuốc làm rộp da đắp lên các chi và đắp cám với dấm vào cổ họng, người bệnh “lìa đời không chút vật vã”.

Trong suốt mùa hè năm 1793, Philadelphia bị quấy nhiễu bởi từng đàn lớn toàn là muỗi cũng như một lượng rác rưởi hôi thối trên đường phố, ngõ hẻm và bến tàu. Các bác sĩ dự đoán là số “bệnh sốt mùa thu” sẽ tăng lên. Nhận thấy một số lượng lớn muỗi mòng trong thành phố, Rush cho rằng đây là một dấu hiệu khác cho biết bầu không khí không lành mạnh. (Vai trò của muỗi trong việc phát tán bệnh sốt vàng chỉ được Walter Reed (1851-1902) và cộng sự thuộc Ủy ban Sốt vàng của Quân đội Mỹ chứng minh vào đầu thế kỷ 20). Ngay khi xuất hiện một vài ca nghi ngờ, Rush cảnh báo nhà cầm quyền rằng sốt vàng đã quay trở lại Philadelphia kể từ lần đầu năm 1762. Khi số tử vong tăng vọt, hàng ngàn cư dân bỏ chạy khỏi thành phố. Trong vòng mấy tháng, có đến trên 10% trong số 40.000 cư dân Philadelphia chết vì sốt vàng. Thị trưởng Mayor Matthew Clarkson triệu tập một ủy ban gồm các công dân tình nguyện để dựng lên một bệnh viện và một trại mồ côi, giám sát việc thu góp và chôn cất các xác chết không thừa nhận, bố trí người quét dọn đường phố, phân phát đồ tiếp tế cho người nghèo, chống chọi với sự kinh hoàng đang khống chế thành phố.

Quy tội cho trận dịch là do các thứ khí độc hại thoát ra từ cà-phê thối rữa ở bến tàu, Rush cảnh báo sự thoát hơi của những chất thối rữa dần dà sẽ gây nên bệnh sốt tại những nơi cách xa nơi dịch phát đầu tiên nhiều dặm. Nhiều thầy thuốc khác chế giễu thuyết này và lập luận rằng bệnh vốn được tàu bè từ vùng West Indies mang đến. Mặc kệ các thầy thuốc tranh luận, ông thị trưởng đã ra lệnh thu dọn những thứ thối rữa dọc theo bến tàu. Nỗi sợ hãi bệnh dịch nói chung đã thúc đẩy các cải cách vệ sinh môi trường tại các đô thị vốn dung dưỡng những thứ mùi hôi hám và hàng núi rác rưởi. Lấy ví dụ, năm 1797 khi các bãi rác dọc theo bến nước ở Manhattan bị thối rữa đến mức không thể nào chịu nổi, các nhà chức trách y tế công cộng đã đổ lỗi là chính “sự phiền hà bẩn thỉu” này là nguyên nhân gây ra vụ dịch sốt vàng. Để chống lại rác rưởi, mùi hôi thối và bệnh tật, ông thị trưởng ra lệnh “đem đất và sỏi sạch” phủ lên khu vực này. Con đường South Street được xây dựng trên đỉnh một ngọn đồi.

Những chiến dịch vệ sinh môi trường như thế không tác động đến bệnh sốt vàng một cách trực tiếp, nhưng quả thật cũng đã giúp cải thiện môi trường nói chung.

Những cuộc tranh luận về việc đối phó với bệnh sốt vàng làm sao cho đúng lại bị dính líu vào những xung đột chính trị càn quét qua Philadelphia trong những năm 1790. Theo cung cách phân chia đảng phái, một số người dân Philadelphia đổ lỗi vụ dịch là do quá nhiều người nước ngoài từ Haiti đến qua tàu biển, còn những người khác thì khăng khăng rằng vụ dịch là do điều kiện vệ sinh môi trường tại địa phương không tốt. Nhìn chung, các bác sĩ và chính trị gia theo đảng Dân chủ (phe của Jefferson) cho rằng sốt là do các điều kiện tại địa phương. Các đảng viên Cộng hòa thì chống lại các lý thuyết bệnh lây, các quy định kiểm dịch và hạn chế giao thương với vùng West Indies (Tây Ấn).

Cao trào của ý kiến chống lại thuyết bệnh lây được biểu lộ qua hành động của các thầy thuốc muốn thử chứng minh là sốt không lây nhiễm khi họ tự tiêm cho mình những chất ói, máu, nước bọt lấy từ bệnh nhân bị sốt vàng. Ngay cả một người theo chủ trương không theo thuyết bệnh lây (anticontagionist) triệt để cũng cần phải có tấm lòng tận tụy và can đảm mới chăm sóc cho người ốm, bởi vì đa số các bác sĩ tin rằng thậm chí nếu một vụ dịch lúc đầu là do khí độc tạo ra, thì hơi bốc ra từ người ốm cũng có thể tạo nên một bầu không khí độc ở chung quanh. Dĩ nhiên, những người theo thuyết bệnh lây thì rất sợ người ốm và đòi hỏi phải cách ly họ, điều này thường có nghĩa là người bệnh sẽ chết vì thiếu sự chăm sóc. Cho rằng phương pháp của mình là dân chủ và bình đẳng bởi vì hầu như ai cũng sử dụng được, Rush cho là những ai công kích cách điều trị của mình là do động cơ chính trị và đầy nguy hiểm. Có lẽ chính quyết định của ông ta cho công bố các hướng dẫn điều trị trên báo chí để ai cũng có thể chữa được bệnh đã làm cho nhiều bác sĩ xa lánh.

Các thầy thuốc của thế kỷ 18 có những lý do đầy thuyết phục để bác bỏ ý kiến cho rằng bệnh sốt vàng được lây truyền qua một tác nhân lây được định nghĩa như thể “một sức mạnh có tác dụng trong phạm vi 10 bước chân”. Nhiều người mắc bệnh ngay cả khi họ không hề tiếp xúc với người bệnh, những người chăm sóc người ốm không nhất thiết mắc bệnh, các vụ dịch chấm dứt khi mùa lạnh đến, và những người tháo chạy khỏi những thành phố bị dịch cũng không mang chứng bệnh theo cùng. Tất cả những nhận xét cho thấy rằng các vụ dịch sốt vàng đều phát xuất và duy trì theo các điều kiện đặc thù của địa phương. Các ý tưởng về bệnh sốt vàng này được Noah Webster (1758-1843), một nhà từ điển học người Mỹ thu thập từ các bộ câu hỏi được ông ta gởi tới các thầy thuốc tại Philadelphia, New York, Baltimore, Norfolk, và New Haven. Năm 1796, ông ta công bố thông tin này cùng với những lời nhận xét và kết luận của chính ông trong tập “Tập hợp các bài viết về chủ đề Sốt ói ra mật thịnh hành tại Mỹ trong mấy năm qua”.

Các thầy thuốc và chính khách theo đường lối chính trị liên bang thừa nhận các học thuyết về bệnh lây và thiên về việc kiểm dịch và hạn chế giao thương với nước ngoài. Họ tin rằng quy tội cho các điều kiện địa phương gây ra dịch là không ái quốc và gây nguy hại cho sự thịnh vượng về mặt kinh tế của các đô thị của Mỹ. Vì vậy, những người theo Hamilton khăng khăng cho rằng bệnh sốt vàng được du nhập từ Haiti, cùng với dân Pháp tị nạn. Tại vùng West Indies, các chất kích thích như quinine và rượu vang vốn được kê đơn để điều trị bệnh sốt vàng. Trong vụ dịch tại Philadelphia, phương cách này được gọi là “cách chữa trị của phái Liên bang”. Khi trận dịch bắt đầu, Rush chỉ dùng những thứ thuốc xổ tương đối nhẹ và thử dùng các thứ thuốc vốn được sử dụng tại vùng West Indies, nhưng chẳng bao lâu sau ông ta quyết định là chỉ có xổ mạnh và cho trích huyết thật nhiều mới có tác dụng.

Một số thầy thuốc quay sang các lý thuyết hóa học và tìm cách phân tích những chất hơi giả định xuất hiện trong quá trình thối rữa, cũng như chất ói có màu đen gây quá nhiều sợ hãi dường như là đặc trưng của các trường hợp nặng nhất có thể tử vong. Thiếu các test hóa học chuyên biệt nhưng không thiếu lòng quả cảm, một số bác sĩ nếm thử chất ói màu đen này, nhưng họ không bị hề hấn gì. Việc này không đem lại thông tin hóa học gì có ý nghĩa, nhưng cũng chứng minh rằng ngay cả với một sản phẩm kinh tởm nhất của bệnh cũng không lây truyền bệnh sốt.

Do sốt vàng là bệnh có nguyên nhân là virus, cho nên chăm sóc kỹ lưỡng, điều trị triệu chứng và nghỉ ngơi có thể là cách xử lý tốt nhất hoặc ít gây tổn thương nhất cho người bệnh. Nhưng các thầy thuốc thế kỷ thứ 18 không thể nào ứng phó với một thách thức như sốt vàng với các biện pháp rụt rè như nghỉ ngơi và bù dịch. Các thầy thuốc nhiều sáng kiến kê đơn đủ mọi thứ từ nọc độc của rắn đuôi chuông cho đến dầu thầu dầu (castor oil) và cồn thuốc phiện (laudanum). William Osler (1849-1919), tác giả của một sách giáo khoa được sử dụng rộng rãi, Những nguyên lý và thực hành Y học (1892), khuyên theo một liệu pháp trị liệu gồm: uống nhiều nước khoáng kiềm có gaz, liều lượng vừa phải muối thủy ngân (calomel), thụt tháo bằng nước muối, tắm mát khi lên cơn sốt và uống percloride sắt hoặc dầu thông khi bị xuất huyết dạ dày. Để làm giảm các triệu chứng tăng urê máu, Osler khuyên tắm nóng, chườm nóng và thụt tháo nóng. Những chất kích thích như strychnine được chỉ định khi nhịp tim đập yếu.

Sau khi trận dịch chấm dứt, những người bỏ chạy lại quay về thành phố, Philadelphia tổ chức một ngày lễ tạ ơn và tưởng nhớ: hơn 4.000 người chết so với tổng số dân ở đây khoảng 40.000 người. Rush quá xúc động vì “niềm vui thăng hoa” vì các phương pháp của ông cuối cùng đã khuất phục được căn bệnh khủng khiếp này. Ngay cả thực tế là căn bệnh đã giết chết ba học trò tập sự và người em gái yêu quý của mình cũng không làm lay chuyển được lòng tin của ông đối với cách điều trị. Sự gượng gạo khi cho rằng thành công là do điều trị trong lúc sự hồi phục trên thực tế có thể xảy ra tự nhiên mà không cần đến những nỗ lực cao nhất của y học chắc chắn không phải chỉ cá biệt đối với Benjamin Rush.

Một tài liệu chứng nhân nổi tiếng về trận dịch do Mathew Carey (1760-1839) soạn, Một báo cáo ngắn về bệnh sốt ác tính, mới xảy ra tại Philadelphia, mô tả sinh động các triệu chứng của căn bệnh, có nhận xét về số lượng máu “đáng kinh ngạc” được các thầy thuốc trích ra, và đưa ra danh sách những người chết. Carey ghi nhận, bệnh này “rất tàn khốc đối với người nghèo”. Khi trận dịch bắt đầu, nhiều thầy thuốc tin rằng người da đen ít có khả năng mắc bệnh hơn người da trắng, nhưng danh sách người chết cho thấy điều này không đúng. Tuy nhiên, Carey ghi nhận là trong giai đoạn đầu của vụ dịch, khi không có điều dưỡng da trắng chăm sóc cho người ốm, bổn đạo nhà thờ người da đen đã làm thay điều dưỡng và giúp chôn cất người chết. Carey viết điều dưỡng rất quan trọng bởi vì nhiều người chết là do thiếu chăm sóc chứ không phải do chính độc lực của virus.

Khó mà xác định được tỷ số tử vong theo ca bệnh (case fatalíty rate) đối với sốt vàng bởi vì những ca nhẹ có thể bị sót hoặc chẩn đoán sai. Trong vụ dịch 1878 tại New Orleans, tỷ lệ tử vong trong bệnh viện là trên 50% đối với da trắng và 21% đối với da đen. Tuy nhiên, các thầy thuốc ước tính tỷ lệ tử vong của người da trắng tại các phòng mạch tư thấp hơn 10%. Có lẽ những sai biệt này phản ánh tình trạng sức khỏe khác nhau của người giàu với người nghèo. Chỉ có những người da trắng quá mức nghèo khó mới được đưa vào bệnh viện.

Benjamin Henry Latrobe (1764-1820), là một kỹ sư tham gia hoạch định Washington, D. C, tin rằng hệ thống nước sạch sẽ hạn chế mối đe dọa của bệnh gây dịch. Năm 1798, Latrobe viếng Philadelphia và kết luận rằng các giếng nước bị ô nhiễm bởi “chất độc hại” đi từ các nhà xí thành phố mới là nguyên nhân gây ra bệnh dịch. Năm 1801, sau khi theo các kế hoạch của Latrobe, Philadelphia có một hệ thống nước an toàn cho cả thành phố, gồm có những máy bơm trên vỉa hè cung cấp nước miễn phí cho mọi người, và những đường ống riêng nối thẳng đến nhà những người giàu có. Một vài thành phố lớn, nhất là New York và Boston, cũng đầu tư vào hệ thống nước thành phố vào đầu bán thế kỷ 19, nhưng nước, các vấn đề xử lý nước thải và rác vẫn tiếp tục gây phiền hà cho nhiều thành phố mãi đến thế kỷ 20. Mặc dù uống phải nước nhiễm bẩn không gây ra sốt vàng, nhưng cải tiến chất lượng nước cung cấp đã đóng một vai trò làm giảm nguy hiểm những bệnh gây dịch, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Hơn thế nữa, việc thanh toán các đầm lầy, hào rãnh, giếng nước và bể chứa nước khi các thành phố lớn mạnh và canh tân đã làm giảm nhiều khu vực thuận lợi cho muỗi sinh trưởng.