ĐẶC TRƯNG TỪNG VÙNG
Nhiều người Mỹ tin rằng có sự “khác biệt về sự trong lành” giữa các vùng trong đất nước rộng lớn của họ. Các thầy thuốc lập luận rằng những sự khác biệt về cách điều trị giữa các vùng dĩ nhiên là cần thiết. Các thầy thuốc miền nam rất ủng hộ quan niệm về một môi trường y tế đặc thù, nhưng những thầy thuốc của các vùng khác lại quan tâm đến vấn đề chủng tộc và những khác biệt về chủng tộc có thể có trong kiểu bệnh tật. Các hội đoàn, tạp chí y khoa miền nam và trường y khoa là những diễn đàn để cho các thầy thuốc trình bày và thúc đẩy học thuyết về những khác biệt nội tại về chủng tộc trong các chức năng sinh lý học và tâm thần. Những nghiên cứu về kích thước xương sọ và khoa tướng học (phrenology) được nêu ra như thể các nghiên cứu này có thể đưa ra những câu trả lời thỏa đáng về mặt khoa học cho những câu hỏi về chủng tộc. Nhằm ủng hộ các giả thuyết chủng tộc của mình, một số thầy thuốc miền nam đưa ra những bộ sưu tập xương sọ con người. Các chủ nô lệ sử dụng các giả thuyết về chủng tộc về sự khác biệt về mặt sinh lý học và y học để hợp lý hóa tình trạng nô lệ. Do khác với người da trắng về mặt y học và được cho là có miễn dịch đối với một số bệnh, các nô lệ da đen có khả năng làm việc ngoài đồng bất kể thời gian và thời tiết. Một số bác sĩ tin rằng người da đen dễ bị nhiễm lạnh và tê cóng hơn là người da trắng, chịu nóng giỏi và chịu đựng kém tình trạng mất máu khi làm trích huyết. Mặc dù phụ nữ da đen được cho là có thể làm việc suốt trong thời gian có thai, nhưng bác sĩ cảnh báo rằng họ dễ bị sa sinh dục hơn là phụ nữ da trắng. Các bác sĩ miền nam kết luận là người da đen dễ mắc bệnh lao, nhất là tình trạng nghiêm trọng được gọi là “lao của người da đen” có lẽ đó là lao kê.
Từ thời Cách mạng đến Cuộc nội chiến, các vấn đề y khoa của miền nam bao gồm sốt rét, ký sinh trùng đường ruột, lỵ, và sốt vàng tại các thành phố cảng lớn. Đặc biệt là người da đen phải chịu một gánh nặng bệnh nhiễm ký sinh trùng, bệnh đường hô hấp, và tỷ lệ tử vong trẻ dưới một tuổi và tử vong mẹ cao. Tỷ lệ tử vong trẻ dưới một tuổi da đen cao gấp hai lần so với trẻ da trắng. Các yếu tố môi trường, chủ yếu là thiếu vệ sinh môi trường và nước sạch, có lẽ giải thích được sự cảm nhận vì sao người da đen lại dễ mắc bệnh thương hàn, giun sán, bệnh do vi nấm và kiết lỵ. Thói ăn đất sét (pica) cũng là một cách để mắc phải ký sinh trùng đường ruột.
Mùa thu hoạch các loại hoa mầu, cuối mùa hè và đầu mùa thu, trùng với đỉnh điểm của mùa sốt rét. Người da đen được coi là ít mẫn cảm với sốt rét so với người da trắng, nhưng sự “đề kháng” không thể nào lường trước được. Ngày nay, những sự khác biệt về mức độ nặng nhẹ các cơn sốt và tính mẫn cảm đối với bệnh này có thể giải thích theo độc lực của từng chủng ký sinh trùng sốt rét tìm thấy tại nhiều địa điểm và những biến dị di truyền của người. Lấy ví dụ, những gene mã hóa bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm và thiếu máu vùng biển, rõ ràng là làm tăng sức đề kháng đối với bệnh sốt rét (đối với những người mang gene bệnh tức là dị hợp tử). Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm cũng giải thích các chứng đau khớp, nhiễm trùng phổi, loét cẳng chân kinh niên, và tử vong ở trẻ em mang biến thể di truyền này.
Du nhập nô lệ từ châu Phi đến có nghĩa là cho nhập vào những thứ bệnh truyền nhiễm như sốt rét, đậu mùa, ghẻ cóc, bệnh phong, bệnh giun rồng (bệnh Dracunculiasis), giun chỉ, giun đũa, sán dây, giun móc và bệnh ngủ do nhiễm trùng roi trypanosoma. Khi việc nhập khẩu trực tiếp nô lệ từ châu Phi chấm dứt, thì những bệnh châu Phi nào không thể tồn tại được tại châu Mỹ về cơ bản không còn nữa. Tuy nhiên, một số lại định cư vĩnh viễn. Lấy ví dụ, ký sinh trùng gây bệnh ngủ (Trypanosoma gambiense) tới được châu Mỹ, nhưng lại không có vectơ truyền bệnh là ruồi tsetse kèm theo, cho nên sẽ không trở thành bệnh lưu hành được. Ngược lại, ký sinh trùng giun chỉ, Wuchereria bancrofti, tác nhân gây bệnh phù chân voi, lại trở thành bệnh lưu hành tại nhiều vùng ở miền nam nước Mỹ. Thể trưởng thành của ký sinh trùng này xâm nhập vào các mạch và hạch bạch huyết, làm cho những cơ quan này bị viêm, làm sưng tấy tại vùng bị tấn công. Ký sinh trùng này có thể được lan truyền qua một trung gian là muỗi Culex quinquefasciatus vốn có sẵn tại Mỹ. Một ổ dịch lưu hành bệnh giun chỉ tồn tại mãi đến thập niên 1920 tại Charleston, South Carolina, nhưng bệnh phù chân voi đã xâm nhập đến những vùng khác của miền nam và thậm chí cả miền bắc. Bệnh phù chân voi rất phổ biến tại Barbados vùng West Indies đến mức được gọi là bệnh “chân Barbados”. Bệnh này cũng phổ biến tại Charleston, chắc là do Charleston và Barbados đều là các hải cảng mà nô lệ đặt chân xuống đầu tiên khi đến châu Mỹ. Nhận ra được mối liên hệ giữa bệnh và vectơ muỗi đã dấy lên một chiến dịch rộng rãi thanh toán muỗi tại thành phố này trong những năm 1920. Đến thập niên 1940, Charleston được coi là “hết giun chỉ”.
Bằng chứng không đầy đủ tìm thấy trong các hồ sơ đồn điền, nhật ký, lời kể của các nô lệ, nội dung phỏng vấn các cựu nô lệ, và truyện kể dân gian cho thấy rằng đám nô lệ sử dụng phương pháp điều trị riêng của họ, có lẽ đi từ nền y học thảo dược truyền thống châu Phi, nhằm không phải theo những cách điều trị do các bác sĩ da trắng chỉ định. Có cơ hội là đám nô lệ tìm đến các bà mụ, điều dưỡng, người chữa bệnh bằng thảo dược, bằng rễ cây, và thầy phù thủy da đen. Ngoài việc chẩn đoán và điều trị bệnh tật, một số thầy lang và thầy phù thủy da đen cho rằng họ có khả năng bảo vệ người nô lệ đối với người da trắng và những nô lệ khác. Một số truyền thống chữa bệnh, nhất là các truyền thống gắn liền với tâm linh và tôn giáo, cũng như trà thuốc, thảo dược, thuốc đắp, lời cầu nguyện, bài hát, những buổi tụ tập quanh giường người bệnh có lẽ còn được duy trì trong các gia đình và cộng đồng da đen nhiều năm sau thời Nội chiến.
CUỘC NỘI CHIẾN
Đặc trưng của miền nam, thấy rõ qua sự gắn bó với việc chiếm hữu nô lệ, vốn là “định chế đặc thù” của miền này, chỉ là một trong nhiều nguyên nhân phức tạp của các xung đột đưa đến kết quả cuối cùng là Cuộc Nội chiến, nhưng ít có ai nghi ngờ rằng sự chiếm hữu nô lệ là “có phần nào đó” nằm trong cốt lõi của sự xung đột - theo lời Lincoln. Hàng thập niên trước khi nổ ra chiến tranh, khi Liên quân miền nam nã pháo vào đồn Fort Sumter vào ngày 12 tháng 4 năm 1861, thì sự cách biệt giữa miền Bắc và miền Nam về mặt trải nghiệm xã hội, kinh tế và văn hóa đã không thể nào hàn gắn được. Tuy nhiên, không có bên nào chuẩn bị cho sự đổ máu hãi hùng của một cuộc chiến chỉ chấm dứt vào ngày 9 tháng 4 năm 1865 khi tướng Robert E. Lee đầu hàng tướng Ulysses S. Grant tại Appomattox Court House tại Virginia.
Cả miền nam lẫn miền bắc đều không mong là cuộc chiến giữa các tiểu bang sẽ kéo quá dài; vì thế, không có bên nào lo sẵn các điều kiện vệ sinh môi trường hoặc chăm sóc thương bệnh binh. Nhiều đơn vị tình nguyện tham gia chiến đấu không hề có lều cứu thương, đồ tiếp liệu, phẫu thuật viên hoặc người giữ bệnh án. Các cơ sở tạm bợ, đông đúc, thiếu vệ sinh chẳng hạn như nhà kho cũ, kho chứa thuốc lá, và nhà tư nhân đều được trưng dụng làm bệnh viện dã chiến.
Ngay lập tức nhân viên y tế và các cơ sở đều bị tràn ngập các binh lính bị sốt và kiết lỵ. Trong 6 tháng đầu tiên của cuộc chiến, 30% số binh lính mắc phải sốt rét, sốt thương hàn, đậu mùa, và kiết lỵ. Những bệnh làm suy kiệt sức khỏe như hen suyễn, lao, động kinh, trúng nắng, bệnh hoa liễu, phong thấp, ăn không tiêu và bị nhọt ở mông làm cho việc cưỡi ngựa trở nên khó khăn. Các dịch vụ phẫu thuật còn quá thô sơ so với tình hình phát triển của bộ môn này trong thập niên 1860, do thiếu đồ tiếp liệu, dụng cụ, và cơ sở và các bác sĩ ngoại khoa thiếu đào tạo. Nhưng các vết thương chiến tranh và bệnh tật lại là môi trường thực tập ghê rợn cho các phẫu thuật viên và thầy thuốc chưa có kinh nghiệm. Mặc dù kỹ thuật gây mê/gây tê được sử dụng từ thập niên 1840, nhưng nhiều phẫu thuật viên quân đội nghĩ rằng không cần thiết trong phẫu thuật đoạn chi và cho rằng các thứ thuốc gây mê/gây tê chỉ làm choáng kéo dài, gây chảy máu và làm cho vết thương khó lành.
Tình hình y tế của quân miền nam tệ hơn phía miền bắc. Do quân đội phía nam bị hải quân miền bắc phong tỏa, cho nên những đồ tiếp tế như chloroform, quinine, belladonna, digitalis, và opium hầu như không thể nào kiếm được. Robert E. Lee thú nhận rằng quân đội không được hỗ trợ đúng mức về mặt y tế và vệ sinh môi trường. Thật vậy, quân đội miền nam không có Ủy ban Vệ sinh và Cục quân y không được trang bị đúng mức.
Khi cuộc chiến kéo dài, các hoạt động quân đội ngốn càng lúc càng nhiều các nguồn y tế, số sinh viên ghi tên nhập học vào các trường y giảm, và các bệnh viện và bệnh xá dân sự mất đi lực lượng nòng cốt. Thậm chí các kế hoạch cải thiện điều kiện môi trường đô thị và việc thu thập các số liệu thống kê cơ bản cũng bị gián đoạn bởi vì các hoạt động có liên quan đến chiến tranh càng ngày càng ngốn đi nhiều nguồn lực.
Những nỗ lực của các điều dưỡng và bác sĩ trong chiến tranh và nỗi thống khổ của bệnh nhân đã chứng minh một cách đau khổ sự bất xứng giữa các tiến bộ trong các kỹ thuật điều trị và kỹ thuật giết chóc. Có khoảng ba triệu đàn ông phục vụ cuộc chiến, khoảng 600.000 người chết. Trong con số tử vong này, miền nam mất 360.000 người, miền bắc mất 260.000 người. Như tất cả các cuộc chiến cho tới thế kỷ 20, nhiều binh sĩ chết vì bệnh hơn là chết ngoài chiến trường. Các sĩ quan quân y miền nam báo cáo có trên 6 triệu ca bệnh. Có trên một triệu ca sốt rét trong lực lượng da trắng của quân miền nam, khoảng 140.000 ca bị sốt thương hàn, 70.000 ca sởi, 60.000 ca viêm phổi, 70.000 ca giang mai và 110.000 ca lậu trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 5 năm 1861 đến 30 tháng 6 năm 1866.
Việc tập hợp một lực lượng khổng lồ người và động vật trước đây vốn sống tại vùng thôn quê tách biệt và sự di chuyển của họ qua những vùng xa lạ đã tạo nên một môi trường tuyệt vời để phát tán những chứng bệnh trước đây khu trú tại một địa phương nào đó. Hàng ngàn binh sĩ bị suy nhược do bệnh tật, chấn thương và thương tích trong chiến tranh đã chết tại nhà; cái chết của họ và những người khác bị họ lây bệnh không được tính vào con số tử vong của quân đội. Nhiều người khác bị bệnh mạn tính và tật nguyền do thương tích hoặc mất chân tay.
Bệnh thiếu vitamin C, trúng nắng, đau quặn ruột, tiêu chảy, kiết lỵ và sốt thương hàn khá phổ biến, điều này cũng không có gì ngạc nhiên khi thiếu thực phẩm bổ dưỡng và nước uống an toàn. Các bác sĩ quân y thông báo cho thượng cấp là bệnh thiếu vitamin C đã làm hao mòn khả năng chiến đấu của quân đội, ngay cả khi người lính không biết rằng mình đang bị bệnh, nhưng thật ra phải tranh giành khốc liệt mới có được các thức ăn được biết là có tác dụng chống bệnh thiếu vitamin C như khoai tây, hành, bắp cải, cà chua, bầu bí, củ cải đường và chanh tươi. Một bác sĩ phẫu thuật mô tả cách sử dụng nước uống lấy từ đầm Chickahominy, nơi có chứa đầy xác người và ngựa chết. Có lẽ những cố gắng nhằm che dấu chất lượng tệ hại của nước uống khi thêm vào mỗi bi-đông đựng nước khoảng 100cc rượu whisky đã giúp khử trùng nước phần nào. Vị bác sĩ này báo cáo, mùi của trại lính và bệnh viện nồng nặc đến nỗi có thể làm cho “con chim kền kền đầu trọc phải mắc bệnh thương hàn”. Nhiều binh lính bị khổ sở vì bị lũ rận, mà họ gọi là “cận vệ” tấn công. Các bác sĩ cũng than phiền là nhiều binh sĩ không thích hợp với đời sống quân ngũ vì họ bị tật nguyền nhưng vẫn bị trưng tập. Việc khám tuyển qua loa không phát hiện được các tân binh người thì chưa đủ tuổi, người thì quá già, và một vài người lại là phụ nữ.
Ngoài một số đông binh sĩ sống sót tuy bị cắt chi và đầy thương tích, một số khác trở về quê nhà mang theo các chấn thương tâm lý vì bị stress chiến tranh. Khi phân tích các hồ sơ hưu trí và nghiên cứu ca bệnh của các cựu chiến binh Cuộc Nội chiến được chuyển tới các nhà thương điên, các sử gia nhận thấy rằng các triệu chứng mà họ mắc ngày nay được chẩn đoán là rối loạn stress sau chấn thương. Ngày nay, các mục chẩn đoán trong Cuộc Nội chiến có thể xếp vào mục này gồm trúng nắng, nhớ nhà và rối loạn thần kinh tim. Các triệu chứng của một rối loạn được chẩn đoán là nhịp tim kích thích, bệnh tim người lính, hoặc suy nhược thần kinh-tuần hoàn gồm có: đau ngực, hồi hộp, hụt hơi, mệt, ngất và mau mệt khi vận động. Nhịp tim kích thích lúc đầu được coi là một vấn đề quan trọng trong Cuộc Nội chiến bởi vì bệnh này làm giảm khả năng chiến đấu của hàng ngàn binh sĩ.
Tất cả các nơi trong nước đều bị chiến tranh tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Những năm xáo trộn đã để lại một di sản suy dinh dưỡng, nhiễm giun móc, sốt rét làm rệu rã sức khỏe những người lính về nhà, gia đình và cộng đồng của họ nhiều năm sau đó. Tại miền nam, chiến tranh đã phá đi nhiều thư viện, trường y khoa và các cơ sở giáo dục. Nhiều tổ chức y tế và báo chuyên ngành biến mất, và nhiều bác sĩ miền nam di cư lên phía bắc. Nhiều gia đình khi trở về nhà để thấy rằng nhà cửa, kho vựa, mùa màng, gia súc của họ không còn gì cả.
Cuộc Nội chiến đã làm dấy lên các vụ dịch lớn ở ngựa, lừa, trâu bò và lợn. Bệnh tả ở lợn, được báo cáo đầu tiên tại Ohio trong thập niên 1830, đã lan sang ít nhất 20 tiểu bang vào năm 1860. Một cách lan truyền có thể đã báo trước câu chuyện bệnh Bò điên: người ta lấy thịt từ các súc vật chết vì bệnh đem nuôi các súc vật khỏe mạnh, rồi sau đó những con vật này lại mắc bệnh. Bệnh viêm phổi-màng phổi ở bò, hoặc sốt do bệnh phổi, có tác nhân gây bệnh là Myco plasma mycoides và lây sang con vật khác qua các hạt nước bọt nhỏ, trước Cuộc Nội chiến là một vấn đề chỉ khu trú tại một số khu vực. Trâu bò nhập khẩu từ châu Âu trong thập niên 1840 đã làm vấn đề thêm trầm trọng. Bệnh này đã làm chết một nửa số súc vật bị nhiễm, những con sống sót trở thành vật mang mầm bệnh. Sau chiến tranh, bệnh sốt ở trâu bò, bệnh viêm phổi- màng phổi, bệnh lao của bò, và bệnh tả ở lợn vẫn là những vấn đề chính trong nông nghiệp.
Trâu bò và ngựa bị tấn công bởi những bệnh như sốt làn sóng (brucellosis), bệnh cúm ngựa, bệnh viêm họng có bọng nước, bệnh viêm tủy não ở ngựa vùng phía đông (Eastern equine encephalomyelítis), bệnh sốt Potomac ở ngựa (do Neorickettsia risticii trước đây là Ehrlichia risticii gây bệnh) và bệnh loét mũi truyền nhiễm (glanders). Những tiến bộ về phương tiện chuyên chở cũng như thương mại phát triển sau chiến tranh đã làm cho bệnh tật phát tán càng nhanh hơn nữa.
Mặc dù sự phát triển của ngành điều dưỡng tại Mỹ là cả một câu chuyện phức tạp, Cuộc Nội chiến là một biến cố đã làm thay đổi tình hình đối với hàng ngàn phụ nữ tham gia chăm sóc thương binh và các hoạt động từ thiện trong chiến tranh. Các ghi chép đáng ghi nhớ về các bệnh viện quân đội, nỗi thống khổ của thương bệnh binh và khối lượng công việc do các điều dưỡng nam nữ cáng đáng đã được các tác giả nổi danh ghi lại, như Louisa May Alcott và Walt Whitman, và những người ít tiếng tăm hơn như Jane Stuart Woolsey, tác giả quyển: Những ngày bệnh viện: Hồi ức của một điều dưỡng phục vụ Cuộc Nội chiến (1868) để tả lại công việc một giám thị điều dưỡng trong một bệnh viện dã chiến của quân miền nam gần Alexandria, Virginia. Alcott là một phụ tá điều dưỡng tại một khoa 40 giường trong một bệnh viện vốn trước đó là khách sạn sau trận đánh đầu tiên tại Bull Run. Những câu chuyện về nỗi nhọc nhằn của nhân viên bệnh viện khi chăm sóc cho các thương binh, cũng như những người mắc bệnh bạch hầu, viêm phổi, thương hàn và các bệnh khác đã được in ra trong một tờ báo ở Boston dưới tiêu đề “Những ghi chép từ Bệnh viện”.
BS Elizabeth Blackwell và các phụ nữ khác trong ngành y đã thành lập Hiệp hội phụ nữ Cứu trợ trung ương và đã tổ chức các chương trình đào tạo điều dưỡng cho phụ nữ tại nhiều bệnh viện thuộc New York City. Đa số phụ nữ không được đào tạo hoặc chỉ đào tạo qua loa, nhưng công việc giao cho họ cũng khá đơn giản: tắm cho bệnh nhân, thay băng, thay drap mền sạch, chuẩn bị bữa ăn và cho bệnh nhân ăn, cho bệnh nhân uống thuốc, viết và đọc thư cho họ.
Cái mà người ta mong đợi ở các điều dưỡng trong Cuộc Nội chiến là sự chăm sóc và an ủi cho bệnh nhân thay vì sự hỗ trợ y tế, nhưng họ phải vất vả nhiều vì thiếu thốn về cứu trợ nhân đạo trong khi nỗi đau khổ và mất mát sinh mạng do chiến tranh lại quá lớn.
Dorothea Lynde Dix (1802-1887), đã dâng hiến đời mình nhằm cải thiện việc điều trị cho người mất trí, được bổ nhiệm là Tổng giám thị các điều dưỡng nữ năm 1861. Các trách nhiệm do Bộ trưởng Bộ Chiến tranh giao cho Dix bao gồm việc tuyển dụng điều dưỡng cho quân đội, thăm viếng bệnh nhân tại bệnh viện, phân phát đồ tiếp liệu, quản lý việc vận chuyển thương binh và nhiều thứ khác. Dù có chức vị chính thức như thế, nhưng Dix lại không có thực quyền hoặc phương tiện để thực hiện các quy định và chỉ thị của mình. Tiêu biểu là Dix yêu cầu điều dưỡng phục vụ trong chiến tranh phải là phụ nữ trung niên, vẻ bên ngoài bình dị. Vì yêu cầu này, Dix không được lòng các bác sĩ quân đội, các phẫu thuật viên, các điều dưỡng tình nguyện và các lãnh đạo của Ủy ban Vệ sinh Mỹ. Do những tranh chấp giữa Dix và Ủy ban Vệ sinh về những lĩnh vực thẩm quyền trùng lặp, lãnh đạo của Ủy ban gọi bà là “bà cuồng làm từ thiện” và là vật cản cho các nỗ lực chiến tranh. Louisa May Alcott cho biết, mặc dù Dix được coi như là “một bà già tử tế”, nhưng các điều dưỡng lại nhận xét rằng bà ta “quá kỳ quặc, cầu kỳ và độc đoán”. Không còn giữ được vị trí cũ như là một khuôn mẫu cao quý cho các cô gái Mỹ, Dix lại bị các sử gia hiện đại phân tích và xem như là một “sự thất bại tai hại”, và là một đối thủ thay vì là người ủng hộ cho Clara Barton, là một hình tượng của phụ nữ trước đó.
Clara Barton (1821-1912), người sáng lập ra Hội Chữ thập đỏ Mỹ, cũng là người tham gia vào công tác điều dưỡng trong chiến tranh, nhưng chủ yếu liên quan đến công việc nặng nề là nhận đồ tiếp liệu trong đó có thuốc men và xác định trong đám thương binh các trường hợp tử vong. Khi chiến tranh chấm dứt, Barton tham gia tổ chức việc trao đổi tù binh và xây dựng một bộ phận hồ sơ để tìm kiếm người mất tích. Bà ta tới Andersonville, trại tù binh miền nam nổi tiếng tại Georgia, dẫn đầu các nỗ lực tìm kiếm và đánh dấu các ngôi mộ của bình sĩ miền bắc. Trong chiến tranh, có khoảng 13.000 trong số 32.000 tù binh chết trong trại do bệnh thiếu vitamin C, kiết lỵ, thương hàn, hoại thư và những chứng bệnh khác vì suy dinh dưỡng, sự bẩn thỉu và sự thờ ơ bỏ mặc. Là Chủ tịch Hội chữ thập đỏ của Mỹ, Barton tìm cách mở rộng vai trò của tổ chức ra ngoài lĩnh vực cứu trợ trong chiến tranh sang việc giúp đỡ các dạng thảm họa khác.
Để hỗ trợ cho quân đội miền bắc, đại biểu của Trung ương hội phụ nữ cứu trợ và các hội đoàn tôn giáo, y tế và cải cách, trong đó có Hội Băng bó, và hội thầy thuốc các bệnh viện của bang New York đi đến Washington chính thức yêu cầu thành lập một Ủy ban Vệ sinh. Dù rằng có sự chống đối của các cấp lãnh đạo quân sự, Bộ trưởng Bộ chiến tranh đã thành lập Ủy ban Vệ sinh Mỹ vào năm 1861. Là một tổ chức hoạt động tự nguyện, Ủy ban Vệ sinh cố gắng cung ứng thực phẩm, thuốc men và các hình thức hỗ trợ nhân đạo khác cho binh sĩ, điều tra và cải thiện điều kiện vệ sinh tại các doanh trại và bệnh viện quân đội, và triển khai một hệ thống đầy đủ việc lưu trữ hồ sơ bệnh án. Ủy ban Vệ sinh tích cực vận động các nguồn hảo tâm để có đủ điều kiện mua và phân phối để tiếp liệu, tổ chức việc vận chuyển đến các bệnh viện và hỗ trợ cho các hội đoàn giúp đỡ binh sĩ.
Dưới sự chủ trì ủa Ủy ban, người tình nguyện tham gia các hoạt động nhân đạo chăm sóc thương bệnh binh, phân phát xà phòng và các vật dụng vệ sinh khác, xây dựng hệ thống bếp cung cấp các chế độ ăn đặc biệt cho người tàn tật, tổ chức các thư viện trong bệnh viện và các cơ sở nghỉ dưỡng cho binh sĩ. Các sử gia cho rằng sự tham gia của Ủy ban vệ sinh đã chuẩn bị cho nhiều phụ nữ các vai trò mà họ tạo dựng trong các phong trào cải cách hậu chiến ở cấp địa phương và cấp quốc gia. Nhiều chi nhánh của Ủy ban vệ sinh không cho người da đen tham gia vào công việc tình nguyện, khiến cho nhiều đàn ông và phụ nữ Mỹ gốc Phi phải tham gia vào các tổ chức cứu trợ khác. Nhằm mở rộng các đối tượng, nhất là gia đình các binh sĩ miền bắc, Ủy ban cho xuất bản một tờ báo tên là Sanitary Reporter và xây dựng một danh bạ bệnh viện để giúp thân nhân tìm các thương binh và binh sĩ mất tích. Các danh sách được soạn năm 1864 có chứa tên khoảng 600.000 thương bệnh binh và các tử sĩ. Việc công bố các số liệu thống kê liên quan đến sự bất lực của quân đội về mặt phân phối thực phẩm, quân trang, mền chiếu, thuốc men, tình trạng vệ sinh tại các trại lính và việc quản lý bệnh viện rõ ràng đã làm cho các quan chức quân đội đau đầu.
Các hồi ký và thư từ của các phẫu thuật viên tham gia Cuộc nội chiến đã cung cấp những hình ảnh sát sao về cuộc sống trại lính, các quan điểm trong quân đội, và những cố gắng dù lắm khi nản lòng của họ trong việc chăm sóc thương bệnh binh. Các bác sĩ than phiền là hầu như không thể nào xin được tiếp tế thuốc men từ “bọn hậu cần vô tích sự suốt ngày say xỉn”. Thực phẩm thường không được cung cấp đầy đủ, nhưng rượu whisky - có lẽ là thứ whisky để pha thuốc - thì lúc nào cũng có. Các bác sĩ nghi ngờ rằng người ta chỉ vận chuyển rượu whisky mà bỏ lại các thứ thuốc men. Lấy trường hợp Daniel M. Holt, phẫu thuật viên phụ tá của đoàn tình nguyện 121 bang New York, nhanh chóng phát hiện rằng các yêu cầu của bác sĩ quân y hoàn toàn khác với các yêu cầu của một thầy thuốc ở làng. Trong hai năm theo quân ngũ, ông này mất đi 10 ký, mắc các chứng bệnh đường tiêu hóa, và nhiễm bệnh lao. Bệnh tật, chán nản và lo lắng cho tương lai, Holt rời bỏ quân đội năm 1864. Ông ta mất năm 1868 lúc mới 47 tuổi.
John Vance Lauderdale, một bác sĩ khác của New York, là một phẫu thuật viên hợp đồng trên một tàu bệnh viện chuyên chở các thương bệnh binh từ các chiến trường miền nam về các bệnh viện miền bắc. Người anh của ông nói cho ông biết rằng tất cả các bác sĩ đều nhất trí cho rằng “ông ta sẽ học nhiều điều về phẫu thuật trong một năm trong quân đội hơn là cả đời làm việc ở phòng mạch tư hoặc trong các bệnh viện tại New York”. Nhưng Lauderdale cảm thấy mình chẳng học được gì nhiều ngoại trừ việc điều trị không hiệu quả của chính mình. Bệnh nhân chết vì kiết lỵ, sốt rét, hoại thư tại bệnh viện, và sốt thương hàn, nhưng ông ta chẳng có gì để điều trị cho họ tốt hơn là rượu whisky. Sau phẫu thuật, người lính có thể chết vì sốc, chảy máu, hoặc nhiễm trùng hoặc bị kiệt sức vì tiêu chảy, kiết lỵ và sốt vốn rất phổ biến tại doanh trại và bệnh viện. Nhiều bác sĩ thú nhận rằng họ đã học được nhiều điều về những nỗi kinh hoàng của chiến tranh, sự bất lực của y học đương thời và những thiếu sót của chính họ.
Có lẽ các phẫu thuật viên cũng trở về nhà với các kiến thức dân gian về thương tích và cách chữa trị. Ví dụ, cách điều trị bằng con giòi dựa trên nhận xét có một số loại “sâu” dường như làm sạch mủ của các vết thương nhưng không đụng tới phần thịt còn lành lặn. Kỹ thuật này đã từng được các bác sĩ quân y mô tả trong các chiến trận do Napoleon chỉ huy. Các vi khuẩn gây bệnh cho côn trùng có thể làm lành một cách ngoạn mục các vết thương lóe sáng trong đêm tối của các binh sĩ tham gia Cuộc Nội chiến. Theo lời đồn dân gian trong Cuộc Nội chiến, những binh sĩ nào có vết thương lấp lánh trong đêm tối sẽ có tỷ số sống sót cao hơn những binh sĩ có vết thương không lóe sáng. Các nhà vi khuẩn học cho rằng điều này có cơ sở. Loài vi khuẩn phát sáng Photorhabdus luminescens, là một tác nhân gây bệnh cho côn trùng, đã được chứng minh có vai trò đối kháng sinh học. Một số chủng Photorhabdus sản xuất ra kháng sinh ức chế sự sinh trưởng của vi khuẩn gây nhiễm trùng cho các vết thương hở.
Tuy nhiên, y học quân sự tạo điều kiện cho các bác sĩ cơ hội chưa từng có về kinh nghiệm phẫu thuật, nếu không nói đến trình độ cao, và một số nhận định về tầm quan trọng của công tác vệ sinh môi trường và vệ sinh. Các bác sĩ cũng học hỏi về bệnh học và thần kinh khi thực hiện các ca giải phẫu tử thi và khi cố tập phục hồi chức năng cho các binh sĩ bị cắt chi. Các phẫu thuật viên tham gia Nội chiến trở thành “nổi tiếng” vì đã cắt bỏ tay và chân đáng lẽ ra có thể giữ lại được trong nhiều tình huống khác nhau. Ngược lại, những binh sĩ bị gãy xương và bị thương được điều trị bảo tồn tại phòng mạch tư, có lẽ đã được cứu sống khi cắt bỏ đi những phần tay chân bị rách nát và bị nhiễm trùng tệ hại vào thời điểm họ được điều trị. Khi các phẫu thuật viên dân sự đổ lỗi cho các bác sĩ quân y là quá sốt sắng cắt cụt chân tay, Jonathan Letterman (1824-1872), Giám đốc quân y của quân đoàn Potomac, cho rằng cần phải đoạn chi ngay sau khi bị chấn thương để cứu lấy mạng sống. Letterman viết “nếu có phản đối nào cần đưa ra đối với phẫu thuật trong những lĩnh vực này, thì đó là việc phẫu thuật viên đã quá nhấn mạnh phẫu thuật ít can thiệp”.
Các tranh biếm họa vẽ một phẫu thuật viên ngoài chiến trường miệng thì ngậm một con dao đoạn chi, tay thì ném những khúc cắt tay chân chất thành đống càng lúc càng cao dần. Ngay cả trong thời gian chiến tranh, các phóng viên và bình luận viên cũng rất khó chịu khi phê bình các phẫu thuật viên quân đội, mặc cho thực tế chính những sai lầm của các tướng lãnh mới là nguyên nhân thực sự gây ra biết bao nhiêu đau đớn và chết chóc. Đáp trả những lời phê phán, Letterman không nói rằng trong quân đội không có phẫu thuật viên bất tài, nhưng ông nhắc họ nhớ tới những sĩ quan quân y đã “hy sinh mạng sống của mình vì nhiệm vụ... và những người khác phát bệnh vì công việc nặng nề mà họ phải cáng đáng một cách khéo léo và tận tâm”. Dĩ nhiên các bác sĩ quân y cũng bị mất nhiều bệnh nhân vì bệnh tật và thương tích, nhưng ngay cả với các bác sĩ giỏi nhất, với các điều kiện tối ưu trong những năm 1860 cũng không làm gì nhiều để chữa khỏi hoặc dự phòng phần lớn các bệnh tật, hoặc điều trị các nhiễm trùng hậu phẫu. Công việc của bác sĩ chiến trường có tính tàn bạo, dồn dập và đầy áp lực, nhưng các bác sĩ trong Cuộc Nội chiến không nhất định đều là bất cẩn, vô tâm và bất tài. Phần lớn trước khi vào quân đội họ cũng đều có cùng trình độ đào tạo như mọi đồng nghiệp khác cùng thời, nhưng họ thường bị mệt mỏi vì áp lực và thiếu thốn thuốc men. Các bác sĩ trong Cuộc Nội chiến được phân công làm các nhiệm vụ như là bác sĩ y tế công cộng, bác sĩ dinh dưỡng, nha sĩ, điều dưỡng và tâm lý học, nhưng chỉ nhận được sự hỗ trợ hoặc giúp đỡ tối thiểu. Nhiều bác sĩ mắc phải bệnh trong trại lính hoặc bị tàn phế do các tai nạn hay hỏa khí của đối phương và nhiều người tử nạn. Phản bác lại các bác sĩ dân sự, Letterman cho rằng theo kinh nghiệm của mình thì không thể nào trông cậy vào các phẫu thuật viên dân sự “trong trận đánh hay sau trận đánh. Họ không thể hoặc không muốn chịu đựng sự thiếu thốn và bất tiện cần phải có, và đa số đều nghĩ nhiều về phần tiện nghi cho mình hơn là những gì họ làm cho thương binh”.
Các thầy thuốc ngoại khoa trong Cuộc Nội chiến đưa ra được một số tiến bộ trong việc xử lý các vết thương bên ngoài, nhưng tỷ lệ tử vong của các vết thương lồng ngực, đầu và bụng còn rất cao. Đoạn chi chiếm đến 75% trong các phẫu thuật thời đó, đã cứu sống nhiều sinh mạng, mặc dù các thủ thuật ngoại khoa và cơ sở còn thô sơ. Nhiều người cụt chi phục hồi được và nhận trở lại nhiệm vụ, đôi khi với chi giả. Các câu chuyện về những thương binh cụt chi vẫn tiếp tục chiến đấu đã tạo ra một câu tục ngữ rằng nếu tất cả các binh sĩ và sĩ quan bị mất chân tay trong chiến đấu được tập hợp lại, thì họ có thể thành lập riêng thành một binh đoàn. Có một câu chuyện ác nghiệt về tái sử dụng, những người mới bị đoạn chi đôi khi trưng dụng các chân tay giả của những binh sĩ chết khi chiến đấu. Trong một câu chuyện của Jules Verne xuất bản năm 1864, Từ mặt đất đến Mặt trăng, các thành viên của câu lạc bộ súng Baltimore Gun Club, là các cựu chiến binh của Cuộc Nội chiến, nổi danh với “nạng, chân gỗ, tay giả có móc sắt ở cổ tay, hàm cao su, sọ bằng bạc và mũi bằng platinum”. Bị tàn tật vì chiến tranh, những người này là các nhà sáng chế tài ba, đã thiết kế ra một khẩu súng đại bác khổng lồ để đưa họ đến mặt trăng. Vì thế, mặc dù các báo cáo về cắt cụt tay chân trong Nội chiến chủ ý chỉ nói đến sự tàn bạo của thủ thuật, nhưng hàng ngàn cựu binh hồi hương được coi là thắng lợi dù rằng cụt mất tay chân.
Trước chiến tranh, khi phải đối mặt với viễn cảnh thực hiện phẫu thuật, đa số các bác sĩ chấp nhận nguyên tắc “điều trị ít can thiệp”, tức là, bác sĩ cố tránh phải can thiệp và cắt xẻo phẫu thuật. Tuy nhiên, các phẫu thuật viên trong Nội chiến, phải đưa ra quyết định điều trị tùy theo các tình huống rất khác nhau. Nếu không can thiệp nhanh và mạnh tay, thì nhiều thương binh chắc chắn sẽ chết vì vết thương của họ. Khi điều trị cho những người mà tay chân đều bị gãy và bị đạn xé toác, thì đoạn chi là biện pháp thích hợp nhất để cứu bệnh nhân khỏi bị hoại thư, uốn ván, nhiễm độc máu vì vết thương có mủ, và nhiễm những nhiễm trùng chết người khác không tránh khỏi trên chiến trường hoặc trong bệnh viện. Các phẫu thuật viên quân đội tin rằng: “Sự sống còn quý hơn một tay hay một chân; lắm khi việc cắt bỏ lại là phương cách duy nhất để tránh một cái chết nhanh chóng và đau đớn”. Ủy ban Vệ sinh Mỹ khuyến cáo nên làm đoạn chi cho những bệnh nhân có chi bị xé nát hoặc bị gãy xương hở. Cẩm nang Phẫu thuật quân y dành cho các bác sĩ quân miền nam cũng đề nghị đoạn chi khi chi này bị tổn thương quá nặng.
Ước tính có đến 60.000 trường hợp đoạn chi được thực hiện trong chiến tranh, khoảng chừng 35.000 người sống sót, nhưng các thống kê tử vong không chính xác và không tin cậy. Kỹ thuật gây mê/gây tê giúp cho thực hiện đoạn chi thuận lợi hơn mà trước đây không thể nào làm được hoặc làm được cũng có thể gây tử vong. Kết quả của phẫu thuật phụ thuộc vào rất nhiều biến số: thời gian từ lúc bị thương, phần nào của cơ thể, loại phẫu thuật tiến hành. Các hồ sơ chính thức của quân đội miền bắc cho thấy rằng đoạn chi ở đùi tiến hành 24 giờ sau khi bị thương chắc chắn sẽ tử vong, nhưng tỷ lệ tử vong cho đoạn chi khoảng mắt cá là 25%. Các thầy thuốc cũng phát hiện ra rằng tay chân giả có thể giúp cho người bệnh vận động trở lại, nhưng các dụng cụ giả không làm cho cơ thể quên được phần thân thể bị mất. Silas Weir Mitchell (1829-1914), một trong những người sáng lập ra ngành thần kinh học của Mỹ, đã thực hiện các nghiên cứu về hội chứng đau sau chấn thương thần kinh (causalgia), mà ông ta đặt tên là “hội chứng đau do chi ảo” (phantom limb pain) tại bệnh viện dành cho “những bệnh thần kinh tại mỏm cụt chi cắt” do Bộ trưởng John Hammond thành lập để chăm sóc những người bị đoạn chi bị chứng đau kinh niên và tàn tật. Nghiên cứu của Mitchell đưa ra các kiến thức cơ bản về sự vận hành của cơ thể và trí óc. Trước đây, hiện tượng chi ảo bị coi là một sự loạn thần hoặc hoang tưởng. Nhưng, dựa trên các nhận xét và kiến thức của ông ta về sinh lý học của hệ thần kinh, Mitchell nghĩ rằng hiện tượng này là do viêm thần kinh đi lên (ascending neuritis) kèm theo một sự thay đổi nào đó ở hệ thần kinh trung ương.
Oliver Wendell Holmes ghi nhận mối quan hệ giữa chiến tranh và ngành bộ phận chân tay giả. Holmes viết: “Chiến tranh lấy đi đôi chân và sự khéo léo của con người phải thay thế vị trí của chúng”. Những người mất một chi đã tạo nên một thị trường chưa hề có về các dụng cụ thay thế; hàng chục ngàn người hồi hương không có chân tay. Chiến tranh đã kích thích ngành dược, cùng với dịch vụ cung cấp bộ phận giả. Tiền trợ cấp bao gồm tiền đền bù cho phần thân thể bị mất và tiền mua các tay chân giả. Trong khoảng thời gian từ 1861 đến 1873, Cơ quan Cấp bằng Sáng chế của Mỹ đã cấp 150 bằng sáng chế về tay chân giả và các dụng cụ liên quan. Sau chiến tranh, ngành cung cấp dụng cụ thay thế đã phát triển mạnh và vẫn còn thu lợi nhuận nhờ cung cấp tay chân giả cho những ai bị thương khi làm việc trong các nhà máy và hầm mỏ, và các tai nạn liên quan đến ngành đường sắt và các hình thức chuyên chở công cộng khác.
Về nhiều mặt, vai trò của chính phủ liên bang trong các chính sách và thực tiễn liên quan đến nông nghiệp, giáo dục, y học và khoa học đều bị cuộc Nội Chiến thay đổi. Trong suốt thời gian xảy ra cuộc chiến đẫm máu, cả hai chính phủ miền bắc và miền nam đều phải hình thành và mở rộng các cơ sở quân y để giám sát việc xử lý môi trường trong doanh trại quân đội và quản lý các thương bệnh binh. Nhiều sĩ quan quân y phải phụ trách việc giám định y khoa cho tân binh, thành lập các đội chuyển bệnh và phân phối đồ tiếp liệu y tế, và giám sát các chuyến tàu hỏa bệnh viện và bệnh viện. Khi chiến tranh nổ ra, con số các phẫu thuật viên quân đội và trợ lý chính thức được bổ nhiệm trong Cục quân y miền bắc hoàn toàn không đủ so với các nhu cầu y tế chưa từng có. Các phẫu thuật viên hợp đồng được thuê từ 3 đến 6 tháng với chức danh là trợ lý phẫu thuật viên. Các nhiệm vụ y tế dành cho phẫu thuật viên và trợ lý về cơ bản giống nhau nhưng các phẫu thuật viên làm nhiều công việc hành chánh hơn và lương cũng cao hơn. Các nhân viên khác trong Cục quân y là phẫu thuật viên binh đoàn, trung đoàn và trợ lý, phẫu thuật viên hợp đồng, điều dưỡng và hộ lý phụ trách phát thuốc và băng bó vết thương.
William A. Hammond (1828-1900), là Bộ trưởng y tế từ năm 1862 đến 1864, đã chấn chỉnh hiệu quả làm việc của Cục Quân y, xây dựng nhiều bệnh viện đa khoa lớn, thành lập bộ phận chuyển bệnh, và được Ủy ban Vệ sinh khen ngợi. Theo mô hình tổ chức hành chính hiện đại, thì Cục trưởng cục quân y và Cục trưởng cục y tế công cộng là các chức vụ hoàn toàn riêng rẽ và tách rời. Trước chiến tranh, từ ‘‘Surgeon Gen eral’’ là chức vụ của sĩ quan cao cấp trong Cục quân y Mỹ. Sau chiến tranh, Hải quân chấp nhận danh hiệu này cho người lãnh đạo Cục Y học và Phẫu thuật. Khi hệ thống bệnh viện hải quân phát triển thành Cục Bệnh viện Hải quân, thì danh hiệu Phẫu thuật viên Thanh tra được dành cho một bác sĩ cao cấp của chính phủ điều hành Cục Bệnh viện Hải quân (MHS). Những cải tổ sâu rộng hơn đã chuyển đổi MHS thành Cục Y tế công cộng Mỹ (USPHS). Giám đốc của USPHS được gọi là Phẫu thuật viên trưởng hoặc cụ thể hơn, Phẫu thuật viên trưởng của Mỹ, hoặc Phẫu thuật viên trưởng của Cục Y tế Công cộng nước Mỹ. Ngày nay, Phẫu thuật viên trưởng là chức vụ bổ nhiệm về mặt chính trị, quyền hạn hạn chế với một bộ máy nhỏ, nhưng tên gọi theo truyền thống lại mang ý nghĩa lớn về thẩm quyền đạo đức và người giữ chức vụ này thường đóng vai trò phát ngôn chính của chính phủ đối với các vấn đề y tế. Lục quân, Hải quân và Không quân vẫn còn trao tước hiệu Phẫu thuật viên trưởng cho các cố vấn trưởng về y tế của binh chủng. Những viên chức này cũng tham gia tư vấn cho Bộ Quốc phòng về chính sách y tế và các chủ đề y tế.
Phẫu thuật viên trưởng Hammond, một khuôn mặt năng động và đồ sộ, cao gần 1,9m, nặng 134kg quả là một sự thay đổi so với người tiền nhiệm, C. A. Finley, 64 tuổi, tính cách giáo điều, giữ chức vụ Phẫu thuật viên trưởng từ năm 1861. Hammond tốt nghiệp trường Y New York vào năm 1848 và gia nhập quân đội Mỹ với tư cách trợ lý bác sĩ phẫu thuật. Năm 1860, Hammond rời khỏi quân đội và nhận chức Giáo sư Giải phẫu học và Sinh lý học tại trường Y Đại học Maryland. Ông ta tái ngũ khi cuộc Nội Chiến bùng nổ và giữ vai trò thanh tra các bệnh viện và doanh trại quân đội. Các thành viên của Ủy ban Vệ sinh Mỹ lấy làm ấn tượng về công việc của ông cho nên đã làm áp lực cho ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Cục Y tế mang hàm trung tướng.
Hammond đã xây dựng hệ thống bệnh viện chung, giám sát việc thành lập một đội vận chuyển bệnh hữu hiệu, và thành lập hai phòng thí nghiệm quốc gia sản xuất thuốc để sản xuất các loại thuốc có chất lượng cao cho quân đội. Ông ta cũng làm mất lòng nhiều sĩ quan quân y bảo thủ và tình nguyện khi cho loại ra khỏi danh sách tiếp liệu y tế chính thức của quân đội những thứ thuốc phổ thông như muối thủy ngân calomel và thuốc làm ói tartar. Hiệp hội Y khoa Mỹ thông qua một nghị quyết tố cáo quyết định của Hammond. Điều không thể tránh khỏi là việc thăng chức nhanh chóng cộng với sự khinh ghét ra mặt những kẻ bất tài đã tạo cho ông nhiều kẻ thù lắm quyền lực trong số đó có Bộ trưởng chiến tranh Edwin M. Stanton, người tố cáo Hammond nhận hối lộ, lừa đảo và lạm quyền. Sau phiên xử kéo dài từ tháng 2 đến tháng 8 năm 1864, Hammond bị đưa ra tòa án binh và bị đuổi ra khỏi quân đội. George Strong, lãnh đạo Ủy ban Vệ sinh, nói rằng Hammond, người vốn muốn tránh các quy định hành chánh nhằm tìm kiếm sự hữu hiệu, bị kết tội “vì phạm một tội kỹ thuật nhỏ khi cho mua sắm đồ tiếp liệu quá dễ dàng”. Quay về New York, Hammond trở thành Giáo sư về các bệnh Tâm Thần và bệnh thần kinh tại Bệnh viện Bellevue thuộc trường y. Nổi danh nhờ công trình nghiên cứu thần kinh, Hammond là người đứng ra thành lập Hiệp hội Thần kinh Mỹ. Năm 1879, tòa án quân sự hủy vụ án, Hammond được phục hồi cấp bậc trung tướng.
Nhiều cải tiến trong ngành y tế của Cuộc nội chiến là thành quả của Jonathan Letterman (1824-1872), Giám đốc y khoa của quân đoàn Potomac. Thường được coi là cha đẻ của ngành y học chiến trường hiện đại, Letterman bày tỏ lòng biết ơn đối với công trình của bác sĩ quân y người Pháp là Dominique-Jean Larrey (1766-1842). Trong các trận chiến thời Napoleon, Larrey đưa ra các xe cứu thương lưu động (ambulances volantes) để nhanh chóng vận chuyển thương binh ra khỏi chiến trường. Cộng tác chặt chẽ với Hammond, Letterman thành lập một đội chuyển thương, nâng cao vị thế của phẫu thuật viên quân đội và sự thanh tra y tế, tiêu chuẩn hóa việc lựa thương và điều trị, cải tiến việc xử lý vệ sinh môi trường cho bệnh viện và trại lính, đơn giản hóa việc thu thập và xử lý số liệu y khoa và xây dựng một hệ thống bệnh viện dã chiến lưu động qua cách sử dụng các lều bạt lớn. Hệ thống Letterman vẫn là cơ sở của việc tổ chức và vận hành các hệ thống quân y trong mọi quân chủng.
Tầm quan trọng của đội vận chuyển thương binh rất hiển nhiên khi so sánh thời gian cần thiết để bốc các thương binh sau trận Manassas và trận Antietam, trận chiến một ngày đẫm máu nhất. Phải mất một tuần mới chuyển được các thương binh tại Manassas, nhưng khi đem hệ thống vận chuyển của Letterman ra vận hành tại Antietam, thì đội vận chuyển có khả năng đưa tất cả các thương binh ra khỏi trận chiến trong vòng 24 giờ. Letterman cũng phát triển một hệ thống tải thương ba cấp mà tới nay vẫn còn dùng. Các sĩ quan quân y tại Trạm Cứu thương chiến trường đóng trại sát chiến trường làm nhiệm vụ băng bó và buộc garô cầm máu. Thương binh sau đó được chuyển về Bệnh viện dã chiến (nay là các đơn vị MASH) gần chiến trận nhất để thực hiện phẫu thuật và điều trị cấp cứu. Những bệnh viện lớn ở xa chiến trường sẽ là nơi thực hiện chăm sóc dài ngày.
Mặc dù phần lớn cơ cấu tổ chức y khoa thời chiến bị giải tán sau đó, nhưng văn phòng Phẫu thuật viên trưởng vẫn còn giữ lại nhiều trách nhiệm lớn và xây dựng các cơ sở cung cấp thiết bị dùng cho nghiên cứu và giảng dạy. Năm 1862, Hammond thành lập Bảo tàng Y học quân đội tại Washington để thu thập và nghiên cứu các mẫu nghiệm giải phẫu học và bệnh lý học bất thường, các loại tên, đạn, và những dị vật khác tìm được khi thực hiện các phẫu thuật tại các bệnh viện quân đội. Bảo tàng này về sau trở thành Viện Bệnh lý Quân đội. Hammond cũng đóng vai trò khởi xướng việc soạn thảo một bộ lịch sử toàn diện về y học và phẫu thuật chiến tranh. Sử dụng các mẫu nghiệm bệnh lý học thu được trong chiến tranh và hàng núi hồ sơ, Joseph J. Woodward, George Alexander Otis và cộng sự đã sắp xếp lại thành bộ Lịch sử Y học và Phẫu thuật trong Nội chiến (1861-1865) dày 6.000 trang, 6 tập. Woodward và Otis, là các sĩ quan quân y thuộc Văn phòng Phẫu thuật viên trưởng, là các biên tập viên chính của bộ sách. Otis là quản thủ Bảo tàng Y học Quân đội từ 1864 đến 1881. Cuộc Nội chiến cũng để lại một di sản độc đáo chưa hề có bằng hình ảnh, nhất là các nghiên cứu có hình chụp các trường hợp nội khoa và ngoại khoa liên quan đến các chấn thương trải qua trong chiến tranh.
Một nhân vật xuất sắc khác của văn phòng Phẫu thuật viên trưởng là John Shaw Billings
(1838-1913), người đã thành lập Thư viện Y học Quân đội, sau này là Thư viện Y học Quốc gia. Ngoài việc thành lập Danh mục tra cứu (Index Catalogue) dành cho bộ tổng tập tại Thư viện của Phẫu thuật viên trưởng, Billings cũng xây dựng bộ Danh mục y khoa (Index Medicus), để giúp cho các nhà nghiên cứu tiếp cận các tài liệu y học và phẫu thuật càng ngày càng nhiều. Năm 1883, Billings trở thành giám đốc của một cơ quan mới là Thư viện và Bảo tàng Y học quân đội thành lập trên cơ sở kết hợp thư viện của Phẫu thuật viên trưởng và Bảo tàng Y học quân đội. Qua một đạo luật được thông qua năm 1976, Viện Bệnh lý học Quân đội trở thành cơ quan nơi lưu trữ y học chính thức của nước Mỹ. Các mẫu nghiệm gởi cho viện để chẩn đoán, từ các bác sĩ quân đội hoặc dân sự, đều được lưu giữ tại đây. Các mẫu nghiệm này là vô giá để nghiên cứu lịch sử về bệnh tật. Lấy ví dụ, mẫu mô phổi được giữ trong khuôn sáp từ thời kỳ thế chiến thứ nhất được sử dụng để nhận diện virus gây ra đại dịch cúm năm 1918-1919. Bảo tàng Quốc gia về Y tế và Y học, ngày nay là một bộ phận của Bảo tàng Y học Quân đội, đã trưng bày các mẫu nghiệm bệnh lý học trong những cuộc triển lãm về Cuộc Nội chiến, chiến tranh Triều Tiên và về cơ thể con người.