BÀN VỀ NHỮNG NỖI THỐNG KHỔ O BỆNH GÚT VÀ CÁC TÍNH CHẤT CỦA COLCHICINE
Một trong những tác phẩm sống động nhất của Sydenham là phần viết về lúc khởi phát, cái đau và diễn tiến của bệnh gút. Sydenham thú nhận rằng ông đã phải chịu đựng những sự đau đớn cực độ do bệnh gút đến 34 năm mà không phát hiện được chút gì hữu ích về bản chất cũng như cách điều trị bệnh này. Nhiều thầy thuốc nhất là những người đã từng bị gút, cho rằng không có cách gì trị được tình trạng này. Ở thể điển hình, bệnh gút khởi phát với triệu chứng đau dữ dội ở ngón chân cái. Nạn nhân được bảo là cũng tốt khi những “thứ dịch xấu” tích tụ ở một khớp ngoại vi thay vì nằm sâu trong các tạng quan trọng của cơ thể. Để điều trị những nỗi khổ ải do gút, sỏi và tiểu ra máu mạn tính (mà Sydenham thẳng thừng gọi là “đái ra một bãi máu”), thuốc giải độc duy nhất của ông ta là opium và nhiều opium.
Mãi cho đến thế kỷ 20, các nhận xét của Hippocrates không được bổ sung mấy ngoài những điểm như bệnh gút thường tấn công đàn ông trẻ, nhưng chừa phụ nữ và hoạn quan. Các nạn nhân của bệnh này thường là đàn ông giàu có đam mê rượu chè, ăn uống thừa mứa, chơi bời quá độ và những người có “khuynh hướng di truyền không tốt”. Seneca cho rằng bệnh này có “cha là thần rượu Bacchus và mẹ là Venus”. Ngày nay, gút sơ phát được mô tả là do một rối loạn di truyền trong biến dưỡng chất purine, dẫn đến sự tích tụ acid uric. Gut thứ phát là một tình trạng tích tụ các hóa chất độc hại chẳng hạn như chì và nhiều thứ thuốc. Các nhà hiển vi học thế kỷ 17 đã mô tả các tinh thể lấy được từ một khớp bị bệnh gút: các tinh thể này về sau được định danh là acid uric. Năm 1847, Alfred Baring Garrod (1819-1907), một thầy thuốc London xuất sắc và là giáo sư y khoa, đã ghi nhận rằng lượng acid uric tăng trong máu các nạn nhân bị gút, lượng này không tăng đối các bệnh nhân bị viêm khớp hoặc bệnh thấp. Ngoài việc phát triển các test dành cho bệnh gút, Garrod đã nói chính xác bệnh gút là do thận không thải được acid uric hoặc do chất này được sản xuất nhiều hơn, và cơn đau cấp tính của bệnh gút có thể là do sự lắng đọng của muối urate trong khớp bị đau.
Cơn đau bệnh gút không làm chết người, nhưng do quá đau đến nỗi một số nạn nhân phải tự tử. Cơn thường bắt đầu bằng một cơn đau dữ dội ở ngón cái, rét run, bơ phờ và sốt. Dần dần, bệnh gút làm các khớp lớn biến dạng và đưa đến những cơn đau kinh niên hành hạ người bệnh vì sỏi ở thận. Sydenham nhận xét, đôi khi sỏi thận giết người bệnh “mà không phải chờ đến cơn đau”. Sống trong sợ hãi, lo lắng và đau đớn, đầu óc người bệnh “cũng đau cùng với cơ thể; còn cái nào chịu đau nhiều nhất” thì ngay đến Sydenham người từng chịu đau nhiều năm cũng không thể nói được.
Niềm an ủi duy nhất mà Sydenham bày tỏ cho các bạn nạn nhân của mình là ý tưởng cho rằng bệnh gút giết “người giàu nhiều hơn người nghèo, người thông thái nhiều hơn người giản dị”. Sydenham tin rằng, Bà mẹ Tự nhiên đã tính sổ lời lãi khi cho những người vốn được mình ưu ái một chứng bệnh phù hợp để dung hòa cái tốt và cái xấu. Gút là bệnh của vua chúa, hoàng đế, đô đốc và triết gia. Mặc dù Sydenham tin rằng bệnh gút phản ánh một sự công bằng của trời đất, nhưng mối liên quan gán ghép đó giữa bệnh gút và sự giàu có và thông thái chỉ là một sự phản ánh giả tạo các chi tiết lịch sử về các vấn đề y học của người giàu có và danh vọng và sự thờ ơ không thèm chú ý đến vô số nạn nhân vô danh là những người đau khổ bị bệnh gút hành hạ nhưng không hề được nhắc tới trong các tài liệu y học hoặc tiểu sử. Ngoài ra, danh sách những người nổi tiếng là nạn nhân của bệnh gút còn rất dài đến nỗi Henry Havelock Ellis (18591939), nhà tâm lý học người Anh, nghĩ rằng bệnh gút gắn liền với thiên tài. Những nạn nhân của gút gồm có Erasmus, Francis Bacon, William Harvey, Benjamin Franklin, Joseph Banks, Tobias Smollett, Edward
Gibbon, Benjamin Disraeli, và Joseph Conrad. Lord Chesterfield cho rằng “bệnh gút là một sự khó ở của một quý ông, còn bệnh thấp là bệnh của thằng đánh xe ngựa nghèo xơ xác”. Franklin, người viết tập “Đối thoại” đầy dí dỏm giữa chính mình và bệnh gút, cũng bị bệnh sỏi thận vì gút. Ông kết luận “Bệnh Gút đã xấu mà Sỏi thận lại càng xấu hơn”. Tự an ủi là ai sống lâu sống sướng đều phải có một thứ bệnh gì đó, Franklin cho rằng có những thứ bệnh còn tệ hơn là sỏi thận và bệnh gút. Hơn thế, những cơn đau do bệnh gút và sỏi thận hành hạ đã khiến ông phải tìm đến những cách chữa trị đáng ngờ như dùng nhiều loại “mứt trái dâu đen”.
Các thầy thuốc theo truyền thống tấn công bệnh gút bằng cách trích huyết, cho toát mồ hôi, xổ, tẩy ruột, cho ói, lợi tiểu, làm rộp da, xoa bóp và đốt mô. Theo kinh nghiệm của mình, Sydenham có thể chứng minh rằng trong những phương pháp điều trị trên, chẳng có thứ nào hiệu quả hơn mấy thứ bùa ngải và cầu nguyện của thời La Mã cổ đại. Cũng tiết chế chế độ ăn và uống rượu, nhưng theo kinh nghiệm của Sydenham: “Nếu bạn uống rượu vang bạn bị gút- nếu bạn không uống, thì bệnh gút sẽ xử bạn!” Năm 2004, các nhà khoa học mới chứng minh được điều mà dân gian thường nói là uống rượu sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh gút. Tuy nhiên, Sydenham sẽ lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng uống bia có nhiều khả năng mắc gút hơn là rượu mạnh hoặc rượu vang.
Tiếc rằng Sydenham không đánh giá được giá trị của chất colchicum, thứ thuốc duy nhất có thể làm giảm các cơn thống khổ của mình. Colchicum, là chất trích thô từ hoa kỵ phù lam hoặc nghệ tây (Autumn crocus), vốn được sử dụng trong các bài thuốc xổ cổ truyền. Học thuyết Tín hiệu (Doctrine of Signatures) đưa ra một mối liên kết tinh tế giữa colchicum với chứng viêm khớp do gút, khi gắn kết hình dáng của loại hoa này với hình dáng của bàn tay bị tàn phế do viêm khớp. Mặc dù Colchicum được nhiều người biết qua các tác dụng kích thích tình dục, nhưng nó cũng gây nhiều tác dụng phụ khó chịu, như làm dạ dày cồn cào, buồn nôn, và gây chết. Colchicum thường làm giảm cấp kỳ cơn đau do gút, được chứng minh qua thành công của những toa thuốc bí mật do đám lang băm và thầy gia truyền. Vào thế kỷ 18, các thầy thuốc cũng bắt chước đám lang băm sử dụng Colchicum làm thuốc giảm đau trong bệnh gút. Cơ chế tác dụng làm giảm đau của Colchicine, hoạt chất của Colchicum, vẫn còn chưa rõ. Colchicine được Joseph Pelletier (1788-1842) và Joseph Bienaimé Caventou (1795-1877) phân lập lần đầu tiên vào năm 1820. Hai ông này là cha đẻ của môn hóa học alkaloid. Ngoài các tính chất trị liệu, colchicine còn là thứ hóa chất vô giá đối với các nhà sinh học tế bào và người trồng hoa vì nó có tác dụng chặn đứng sự phân bào ở kỳ giữa (metaphase). Với thực vật, Colchicine có thể tạo nên tế bào đa bội (polyploidy) tức là làm tăng số lượng nhiễm sắc thể, từ đó sinh ra các biến thể mới.