← Quay lại trang sách

HỘ SINH VÀ BÁC SĨ

Dĩ nhiên, sốt hậu sản không phải lúc nào cũng là một bệnh gây dịch và sự sinh đẻ cũng không phải lúc nào cũng thuộc lĩnh vực của bác sĩ. Nếu hầu như ở đâu phụ nữ cũng bị cấm cửa ngành y, thì hộ sinh lại là mảnh đất có thời họ độc quyền. Mãi đến tận gần đây, sự sinh đẻ được coi là một sự kiện tự nhiên hơn là y học. Khi bắt đầu chuyển dạ, người phụ nữ vẫn nằm ở nhà và cho người mời bạn bè, bà con phụ nữ và một người đỡ đẻ. Kiểu “đẻ xã giao” này tạo nên một hệ thống hỗ trợ trong đó phụ nữ an ủi cho người đang đau đẻ, chia sẻ kinh nghiệm, lời khuyên, làm chứng nếu có ai tố cáo tội giết trẻ con và giúp đỡ người mới làm mẹ qua thời kỳ sinh nở.

Trong suốt phần lớn lịch sử châu Âu, các giới chức tôn giáo đã áp đặt nhiều ảnh hưởng về việc lựa chọn các nữ hộ sinh; trong đó tính cách và lòng mộ đạo là những tiêu chuẩn cơ bản để được chấp thuận. Nữ hộ sinh bị cấm không được phá thai hoặc dấu diếm việc sinh con. Họ buộc người mẹ sinh đứa con không được thừa nhận phải tiết lộ tên người cha. Nếu trẻ sơ sinh có khả năng chết trước thời điểm phù hợp làm lễ rửa tội, thì người hộ sinh có thể thực hiện phép rửa tội khẩn cấp. Nếu người mẹ chết trong khi chuyển dạ, người hộ sinh có thể làm phép rửa tội ngay khi mổ để lấy con hoặc cho đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ. Theo các phán quan dòng Dominican của Tòa án Tôn giáo là Heinrich Krämer và Jakob Sprenger - hai ông này là tác giả của quyển sách đáng hổ thẹn “Búa phù thủy” (1486) - thì nữ hộ sinh là một trong những dạng phù thủy nguy hiểm nhất. Nữ hộ sinh bị tố cáo làm làm cho phụ nữ sẩy thai và đem dâng hài nhi mới sinh cho quỷ Satan. Những sản phẩm của sự sẩy thai và phá thai, thai chết lưu, cuống rốn, nhau thai thảy đều đóng một vai trò khét tiếng trong kho thuốc của thuật phù thủy. Do vị trí thấp hèn của nữ hộ sinh và tiền công mạt hạng của họ, cho nên họ dễ bị cám dỗ nhúng tay vào ma thuật, buôn bán các thứ đồ cấm, hoặc nhận lấy tiền mua chuộc để thực hiện việc phá thai hoặc giết hài nhi lúc mới sinh nhằm hạn chế số con trong gia đình. Tại nước Anh từ năm 1680 trở đi không có mấy vụ truy tố phù thủy, nhưng mãi đến năm 1736 các đạo luật chống phù thủy mới bị bãi bỏ và cũng còn bằng chứng cho thấy sự tin tưởng vào phù thủy còn tồn tại đến tận cuối thế kỷ 18. Do lời nguyền rủa bà Eve có từ thời

Cựu ước, cho nên nữ hộ sinh bị cấm không được sử dụng thuốc hoặc các biện pháp ma thuật để làm giảm bớt sự đau đớn khi sinh con. Tuy vậy, họ cũng lén lút sử dụng bùa chú, và thuốc được coi là có tác dụng làm giảm đau và cho dễ đẻ. Nếu bị phát hiện, thì cả bệnh nhân lẫn cô mụ đều bị phạt nặng.

Khi phụ nữ càng ngày càng trở nên bị bất lợi không có cơ hội để theo học và thực hành y học, những người làm nghề chữa bệnh đều bị xoá sạch khỏi lịch sử để không ai còn nhớ tới. Một ví dụ về tình huống này là cách xử lý trường hợp Trotula tại Salerno trong lịch sử y học thời Trung cổ. Có khá nhiều bất đồng khi đề cập có phải Trotula là giáo sư của Đại học Salerno vào thế kỷ 12 và là tác giả của các chuyên luận lớn về sản phụ khoa, hoặc là một khuôn mặt huyền thoại, thậm chí lố bịch mà đôi khi được gọi là Bà Trots. Nhiều bản dịch giản lược những bài giảng phụ khoa được gán cho Trotula đã được nhiều thế hệ phụ nữ trân trọng cất giữ. Lấy ví dụ, bản Trotula tiếng Anh, có chứa nhiều bài thuốc phức tạp và kỳ dị, các lời khuyên về thụ thai, thai kỳ, sinh đẻ, “tiếng gió trong tử cung” và nhiều vấn đề khác của phụ nữ. Nếu có ai nghi ngờ hiệu quả của một đơn thuốc nào đó, tác giả khuyên nên thử trên gà con hoặc trên gà trống.

Vào giữa thế kỷ thứ 15, các giới chức thế tục bắt đầu thay thế nhà thờ để điều hành việc hành nghề hộ sinh. Khi sự chuyển dạ không bình thường, thì người hộ sinh phải gọi đến bác sĩ bởi vì theo luật, thì họ không được sử dụng các dụng cụ phẫu thật. Mặc dù hình phạt cho sự bất tuân luật pháp có thể là tử hình, nhưng các nữ hộ sinh rõ ràng là đã biến cải các dụng cụ thông thường thành những thứ phù hợp cho nhu cầu của họ, theo những lời tố cáo thì họ đã sử dụng những thứ như móc, kim, muỗng và dao cho các ca đẻ khó. Đa số các nữ hộ sinh đều mù chữ hoặc không có tiền mua sách vì quá nghèo, nhưng các bác sĩ không đồng ý cho in ấn các tài liệu hộ sinh bằng tiếng địa phương. Quyển sách giáo khoa đầu tiên được in dành cho nữ hộ sinh, Vườn hồng dành cho phụ nữ có thai và Nữ hộ sinh (1513) của Eucharius Rösslin vẫn còn được sử dụng đến thập niên 1730. Bản tiếng Đức, chủ yếu là tập hợp các công trình tiếng Hy Lạp và Latin, có kèm theo 20 minh họa. Một bản dịch tiếng Anh được xuất bản vào năm 1540 với nhan đề Sự ra đời của nhân loại.

Một vài phụ nữ từ trong đám các thầy thuốc nữ vô danh đã lộ diện và lớn tiếng yêu cầu cải thiện việc đào tạo và nâng cao vị trí của nữ hộ sinh.

Tại Pháp, Louise Bourgeois (1563-1636), nổi danh là nữ hộ sinh tại tòa án Pháp. Trong các bài viết dành cho con gái, Bourgeois đã mô tả những khó khăn trong nghề hộ sinh. Khi việc sinh đẻ bình thường thì người bệnh chẳng chút đoái hoài đến người hộ sinh, nhưng nếu có biến chứng và thai chết thì đổ lỗi cho họ. Elizabeth Cellier, một nữ hộ sinh tại London vào thế kỷ 17, được người cùng thời cho là một người “phụ nữ năng động, tài ba”, nhưng các bác sĩ sản khoa của thế kỷ 19 đã gọi những nỗ lực của bà nhằm nâng cao địa vị của nữ hộ sinh là “bất lương”. Trong một kiến nghị gởi cho vua James II vào năm 1687, Cellier cho rằng những người đỡ đẻ không được đào tạo phải chịu trách nhiệm về cái chết của nhiều phụ nữ và trẻ sơ sinh. Để làm giảm tử vong mẹ và trẻ sơ sinh và cải thiện vị trí của nữ hộ sinh, Cellier đề xuất việc thành lập một Trường Hộ sinh và một bệnh viện Hoàng gia.

Cellier hy vọng nhà vua ủng hộ và cấp kinh phí cho đề xuất của mình, nhưng Viện các thầy thuốc đã ỉm đề nghị này một cách dễ dàng. Mặc dù nhiều tai tiếng liên quan đến các vụ xử Cellier vì tội mưu phản và phỉ báng, nhưng không có mấy thông tin về cuộc đời của bà này. Sau khi được tha bổng vì tội liên quan đến “vụ âm mưu trong thùng đựng bột” (Meal-Tub Plot) vào năm 1680, bà ta xuất bản một tài liệu về vụ án có tên là Ác tâm bị đánh bại (Malice Defeated); hoặc là chuyện kể vắn tắt về sự Kết tội và Giải thoát của Elizabeth Cellier, chính tài liệu này đưa bà ra tòa vì tội phỉ báng. Bị kết tội phỉ báng, Cellier buộc phải nộp phạt và bị đóng gông bêu riếu. Ý muốn khẩn cầu nhà vua xét thỉnh nguyện của Cellier và khả năng viết lách và tranh cãi với những ai chỉ trích chứng tỏ rằng một số nữ hộ sinh thế kỷ 17 cũng biết chữ và tham gia tích cực vào việc công. Thật vậy, những nghiên cứu của hàng trăm phụ nữ hành nghề hộ sinh vào thời điểm đó chứng tỏ rằng nhiều người trong số họ đã được đào tạo kỹ lưỡng, đạt thành công và được trọng vọng.

Dù rằng với bằng chứng là các bác sĩ thế kỷ 18 thay thế vai trò đỡ đẻ của nữ hộ sinh, thì ít nhất đối với những phụ nữ giàu có, Mar guerite Le Boursier du Coudray (1715-1794), “nữ hộ sinh của nhà vua”, cũng đã hưởng được một sự nghiệp lâu dài và thành công. Vào năm 1740, du Coudray lấy được phép hành nghề hộ sinh tại Paris sau khi qua được một kỳ thi do hội đồng với các thành viên là phẫu thuật viên Hoàng gia và hộ sinh có kinh nghiệm.

Cô mụ đang đỡ đẻ.

Thành công trong chuyên môn và khéo léo trong chính trị đã giúp cho bà ta được bổ nhiệm làm nữ hộ sinh của nhà vua. Với năng lực này, bà chu du khắp nước Pháp để dạy cho các nữ hộ sinh và phẫu thuật viên về các phương pháp đỡ đẻ mới nhất. Bà du Coudray khéo léo này đã thiết kế một “chiếc máy dạy học” tinh vi gồm có một mô hình khung chậu phụ nữ với kích cỡ như thật, một thai nhi bên trong, nhau thai và cuống rốn và đã xuất bản một quyển sách minh họa nghệ thuật đỡ đẻ. Một khảo sát tiến hành năm 1786 cho thấy du Coudray hoặc các phụ tá của bà ta đã đào tạo ít nhất một nửa số nữ hộ sinh, phẫu thuật viên và bác sĩ làm nghề đỡ đẻ vào thời đó.

Soranus tại Ephesus (98-138) được coi như là người có thẩm quyền về sản khoa và phụ khoa, nhưng người đỡ đẻ mà ông mô tả trong bộ Phụ khoa là một hộ sinh - biết chữ, rành rọt các lý thuyết y học, không hề mê tín, là người mạnh bạo, sáng suốt, được nể trọng, khéo léo, và là phụ nữ. Mặc dù các thầy thuốc từ Hippocrates tới William Harvey đều chú ý đến sản khoa và phụ khoa, họ đều coi việc thực hành hộ sinh đương nhiên là của phụ nữ. Ngay cả đến thế kỷ 17, đàn ông-hộ sinh là một hình ảnh gây nhiều tranh cãi, đầy đe dọa, và có phần khôi hài nữa. Bác sĩ hoặc các phẫu thuật viên chỉ được mời tới trong những trường hợp chuyển dạ khó khăn hoặc bị trở ngại. Khi người đàn ông-hộ sinh xuất hiện, thì phần chắc là chết mẹ hoặc chết con. Khi các bác sĩ xử trí thành công nhiều ca đẻ khó, phụ nữ lại muốn mời họ sớm trước khi các biến chứng xuất hiện. Vào thế kỷ 18, các phụ nữ giàu có càng ngày càng muốn chọn người đỡ đẻ đàn ông, với hy vọng là được sinh con an toàn. Các bác sĩ sử dụng các dụng cụ sản khoa bắt đầu thay thế các phẫu thuật viên là những người móc ra khỏi bụng mẹ các thai nhi chết và các hộ sinh không được phép sử dụng các dụng cụ phẫu thuật.

Những nhận thức sai lầm từ xa xưa hệ thống sinh sản phụ nữ có liên quan chặt chẽ với các lý thuyết y học về sự thụ thai, thời kỳ thai nghén, xác định giới tính và sự sinh đẻ. Trong việc xử lý sự sinh đẻ người ta cho rằng thai nhi mới giữ vai trò quan trọng, là thành viên chính trong quá trình này chứ không phải là người mẹ. Do người phụ nữ đang chuyển dạ được coi như là một sự cản trở, cho nên nhiệm vụ của bác sĩ là sử dụng bất cứ dụng cụ nào cần thiết để giải phóng cho tù nhân bé nhỏ tội nghiệp đang cố gắng hết sức để thoát ra khỏi dạ con. Tuy thế, khi các bác sĩ thách thức nữ hộ sinh về việc kiểm soát sinh đẻ, thì những đòi hỏi của họ chủ yếu dựa vào ý kiến của chính họ cho rằng mình hiểu biết rõ hơn về giải phẫu học và sinh lý học của bộ máy sinh sản nữ giới. Các nhà giải phẫu học thời Phục hưng đã thẳng tay bác bỏ nhiều huyền thoại về hệ thống sinh sản con người, chẳng hạn như thời Hy Lạp cổ đại cho rằng tử cung là một cơ quan có hai buồng, di động, luôn động đậy, lúc nào cũng muốn mang thai. Còn nữa, ngay cả đến đầu thế kỷ 20, vẫn còn nhiều tranh luận về hình thái của tử cung, chức năng của cổ tử cung, và cơ chế chuyển dạ.

Một ví dụ rõ hơn về cách mà các cây bút sáng tạo thay vì tái tạo lại quá khứ có thể tìm thấy trong hai quyển sách được viết bởi James Hobson Aveling (1828-1892), thầy thuốc của Bệnh viện Chelsea dành cho phụ nữ và Ủy viên Giám định các Hộ sinh của Hội Sản khoa London. Trong quyển tiểu sử viết về những người xuất sắc, Dòng họ Chamberlen và những chiếc forceps đỡ đẻ (1882), Aveling đã trình bày những đóng góp lớn của giới bác sĩ đối với ngành hộ sinh. Ngược lại, trong một tác phẩm khác của Aveling: Các nữ hộ sinh người Anh: Lịch sử và tiền đồ của họ (1872), mục đích của ông này được nêu rõ là cần phải coi chừng các nữ hộ sinh và phải nêu ra sự bất hạnh và thiệt hại phát sinh do sự ngu dốt của họ. Aveling lấy bức tranh Elizabeth Cellier bị đóng gông bêu riếu để làm trang bìa cho quyển sách lịch sử các nữ hộ sinh của mình, như thể tội của bà ta là sơ suất nghề nghiệp chứ không phải vì tội phỉ báng thuộc động cơ chính trị. Trong khi tìm cách giải thích vị trí thấp kém của hộ sinh, Aveling ghi nhận rằng chỉ nên mời một người hộ sinh đi đỡ đẻ cho bò hơn là can thiệp vào một ca đẻ khó. Tuy nhiên, trong các gia đình cùng khổ thôn quê, bò được coi là có giá trị nhiều so với một cô vợ, cho nên không nên coi một đòi hỏi như thế là một lời lăng mạ. Aveling cho rằng William Harvey đã cứu ngành hộ sinh của Anh ra khỏi vị trí bị khinh miệt nhất trong ngành y. Nhưng sẽ là chính xác hơn khi nói rằng chính việc độc quyền về forceps sản khoa và các dụng cụ phẫu thuật khác, cùng với những lời huênh hoang về kiến thức sâu rộng chuyên ngành đã giúp cho nam giới chiếm ưu thế trong lĩnh vực này hơn là các nghiên cứu có giá trị của Harvey về môn phôi thai học. Chưa rõ về nguồn gốc các forceps sản khoa, mặc dù dụng cụ này có vẻ đơn giản về mặt hình dạng và chức năng. Tất cả những gì mà ta biết được đó là những “cánh tay bằng sắt” phát xuất từ các dụng cụ của tử thần. Trước khi các phẫu thuật viên chấp nhận forceps sản khoa, họ chẳng biết làm gì hơn trong trường hợp thai bị kẹt trong khung chậu ngoài việc giết chết thai nhi rồi tìm cách lôi ra bằng dao, móc, dụng cụ chọc sọ và forceps tán sỏi, hoặc tìm cách mổ lấy thai khi người mẹ hấp hối. Đến đầu thế kỷ thứ 18, ngành y có nhiều kiểu forceps sản khoa, nhờ vậy họ mới có thể kéo ra được một đứa bé sống, thậm chí nhiều khi mềm oặt. Tuy nhiên, kiểu forceps đầu tiên đã được sáng chế ít nhất cũng một trăm năm trước khi gia tộc Chamberlen bắt đầu sử dụng. Trong khoảng thời gian từ 1600 đến 1728, khi rêu rao cho rằng mình có khả năng vượt xa bất cứ thành viên nào của Viện thầy thuốc Hoàng gia về việc xử lý các trường hợp sinh khó, đã có 4 thế hệ nhà Chamberlen thừa huởng một sự nghiệp hộ sinh béo bở.

Cũng chưa rõ ai trong nhà Chamberlen đã phát minh ra forceps sản khoa, bởi vì gia đình này luôn giữ bí mật và con trai chỉ đặt tên là Peter hoặc Hugh. Năm 1598, Peter Chamberlen lớn (1560-1631) được giới thiệu vào hội đoàn các nhà phẫu thuật - thợ cạo. Peter Lớn có lẽ là người sáng chế ra chiếc forceps sản khoa thực hành đầu tiên. Nhờ dụng cụ bí mật này, Peter Lớn có thể đỡ đẻ thành công các trường hợp trước kia chắc chắn là chết. Mặc dù chỉ là một phẫu thuật viên - thợ cạo, nhưng Peter Lớn có nhiều người trong Hoàng tộc đỡ đầu, trong đó có Hoàng hậu Anne, vợ của vua Jame I. Gia đình Chamberlen cho rằng vì tài năng vượt trội của Peter trong ngành hộ sinh nên Viện Thầy thuốc Hoàng gia mới thẳng tay đưa ra một loạt trừng phạt. Ngoài việc bị phạt và khiển trách, Peter Lớn bị tống giam vào nhà ngục Newgate vì tội hành nghề y không có giấy phép.

Giống như người anh Peter Lớn, Peter Nhỏ (1572-1626) cũng là phẫu thuật viên-thợ cạo chuyên về hộ sinh và cũng gây thù oán với Viện Thầy thuốc Hoàng gia. Với hy vọng chấm dứt sự trừng phạt dai dẳng của các bác sĩ hàng đầu London, Peter Nhỏ có ý định xin gia nhập Viện này. Ông ta xin ứng thí vào năm 1610, nhưng chắc hẳn không thể nào làm vừa ý các giám khảo là ông ta đã có đầy đủ kiến thức y học. Các thành viên của Viện, kể cả Robert Fludd (1572-1626) nổi tiếng, trước đây cũng đã tố cáo Peter Nhỏ là đã nhục mạ Viện này. Các bệnh nhân không hài lòng cũng than phiền là Peter lấy tiền công quá cao, hứa hẹn chữa hết bệnh, rồi sau đó cho họ uống thuốc nhưng bệnh càng lúc càng nặng. Năm 1616, Peter Nhỏ tham gia tổ chức một hội đoàn chính thức dành cho các hộ sinh tại London. Viện các thầy thuốc bác bỏ thỉnh cầu này. Năm 1634, người con lớn của Chamberlen, Peter Chamberlen Jr. (1601-1683) lại đưa ra đề nghị, nhưng cũng bị bác.

Peter Chamberlen Jr. học y khoa tại nhiều trường y danh tiếng của Ý và trở thành người đầu tiên trong gia đình nhận được một bằng cấp y khoa hợp pháp. Năm 1628, BS Peter Chamberlen trở thành thành viên của Hội thầy thuốc Hoàng gia, một tổ chức danh giá đã từng truy bức và quấy nhiễu cha và chú của mình. BS Peter là thầy thuốc chính thức cho 3 vị vua và Hoàng hậu của nước Anh và nhiều vương công nước ngoài. Giống như những người mang tên Peter trước đó trong gia đình, vị bác sĩ Chamberlen đầu tiên đã hết sức hãnh diện về thành công của mình với tư cách là một bác sĩ sản khoa và chê bai Viện các thầy thuốc.

3 người con của BS Peter Chamberlen - Hugh Lớn, Paul, và John- đều là các bác sĩ sản khoa và tiếp tục kiếm được rất nhiều tiền nhờ sự độc quyền của gia đình. BS Hugh Chamberlen (1630-1720) là hộ sinh cho Hoàng hậu Catherine, vợ của vua Charles II. Trong bài đề tựa cho bản dịch tiếng Pháp chuyên luận về khoa hộ sinh của mình, Hugh thừa nhận rằng phụ nữ bao giờ cũng sợ khi thấy đàn ông bước vào phòng sinh, bởi vì họ tin chắc rằng khi “đàn ông” vào phòng, thì mẹ hoặc con sẽ chết. Nhưng ông ta phát hiện rằng đúng ra không phải như vậy. “Nhờ ơn Chúa”, và nhờ sự khéo léo cũng như cần cù của mình, nhà Chamberlen đã tìm ra một cách đỡ đẻ an toàn cứu được con cho các bà mẹ sanh khó mà trong những trường hợp như thế, thì các thầy thuốc khác chỉ “làm cho nguy hiểm thêm, nếu không nói là làm chết mẹ hoặc chết con khi dùng những thứ móc”. Khi xin lỗi vì không chịu chia sẻ các bí mật thành công, Hugh giải thích rằng nếu làm thế, ông ta sẽ gây thiệt hại tài chính cho gia đình. Tuy nhiên về sau, ông cũng tiết lộ bí mật gia đình khi đem bán các dụng cụ.

Năm 1818, người ta tìm thấy một bộ dụng cụ sản khoa trong một căn buồng bí mật trong một ngôi nhà trước đó thuộc gia đình Chamberlen. Bộ forceps sản khoa nguyên thủy có hai lưỡi rời, cong và ở giữa có cửa sổ. Sau khi đút từng lưỡi của forceps vào trong âm đạo, sao cho mỗi chiếc nằm một bên của đầu đứa trẻ, thì người ta mới khớp hai lưỡi lại và giữ chặt bằng một đinh tán hoặc một sợi dây da, để cho người bác sĩ có thể nắm chặt được dụng cụ và bắt đầu kéo đứa bé ra ngoài. Dụng cụ này có hình dáng như chiếc kẹp cặp lấy một bắp rau diếp. Trong cuốn tiểu sử chép công trạng của nhà Chamberlen, Aveling đưa ra một lời nhận định khá sốc là trong số những chiếc forceps phát hiện được ở nhà BS Peter “không nghi ngờ gì đó là những chiếc forceps hộ sinh đầu tiên do nhà Chamberlen chế tạo, và từ đó mới nẩy sinh ra nhiều kiểu forceps khác đang được sử dụng như hiện nay”. Làm thế nào mà những dụng cụ này có thể nẩy sinh từ một bí mật được gìn giữ cẩn thận vẫn còn là một điều bí mật. Dù vậy, vào khoảng giữa thế kỷ 18, đã có nhiều kiểu forceps sản khoa đã được sáng chế một cách độc lập. Qua thời gian, người ta cũng đưa ra nhiều biến thể dựa trên dụng cụ cơ bản - có cái thì xoàng, có cái vô ích, một số gây nguy hiểm. Dụng cụ chọc sọ và móc có tay cầm được sử dụng nếu forceps không gắp được đứa bé ra. Không phải tất cả các bác sĩ đều tin rằng dụng cụ này luôn luôn mang lại phúc lành cho phụ nữ đang chuyển dạ. Lấy một ví dụ, nhà phẫu thuật, sản khoa và giải phẫu học vĩ đại người Anh William Hunter (1718-1783) đã cảnh cáo các thầy thuốc “Nếu những dụng cụ này cứu được một người, thì chúng giết đến 20”.

Một cảnh báo sớm về mối đe dọa mà các bác sĩ có thể gây cho các hộ sinh và bệnh nhân của họ được một cô đỡ người Anh tên là Jane Sharp đưa ra. Bà này là tác giả của quyển Sách dành cho Hộ sinh hoặc Phơi bày toàn bộ Nghệ thuật Hộ sinh (1671). Tài liệu của bà Sharp, quyển cẩm nang về hộ sinh đầu tiên do một phụ nữ người Anh viết, là một tài liệu hướng dẫn thực hành, dễ đọc, dựa trên chính kinh nghiệm của mình và các thông tin y học của thời ấy về cơ thể phụ nữ và các chức năng của hệ thống sinh sản phụ nữ. Tài liệu bao gồm những mô tả về các “bộ phận sinh sản” của đàn ông và đàn bà, những bàn luận về sự hoài thai, hiếm muộn, chuyển dạ, sẩy thai, bệnh tật liên quan đến thai kỳ, chăm sóc sau sinh, vú em, trẻ sơ sinh và những bệnh thường gặp trên con nít. Sharp cho rằng Kinh Thánh cũng đã cho phép phụ nữ làm nghề hộ sinh, còn hộ sinh nam thì không được như vậy, và phụ nữ nên trông cậy nhiều hơn vào Chúa thay vì vào Viện các thầy thuốc. Mặc dù Sharp thừa nhận rằng các tỷ lệ tử vong mẹ và nhũ nhi đều cao quá mức, nhưng bà không cho rằng các hộ sinh phải chịu tất cả những trách cứ đó. Nhấn mạnh đến nỗi nghèo khó và cơ cực mà đa số phụ nữ phải chịu đựng, Sharp khẳng định rằng phụ nữ nghèo cần có thịt để ăn hơn là các dịch vụ của bác sĩ và phẫu thuật viên.

Các hộ sinh và phẫu thuật viên không được đào tạo kỹ đã góp phần làm tăng tỷ lệ tử vong mẹ và nhũ nhi, nhưng thiếu ăn, nhà cửa chật chội và kém vệ sinh, thức ăn và nước uống bị ô nhiễm, không khí không trong lành, và các rủi ro nghề nghiệp cũng là những yếu tố cũng không kém phần quan trọng, căn cứ theo công trình của các nhà lãnh đạo phong trào cải cách vệ sinh môi trường của thế kỷ 19. Mặc dù tỷ số tử vong nhũ nhi trung bình là 150 /1000 trẻ sống tại nước Anh nói chung, nhưng tại các khu vực lao động thì con số này cao hơn nhiều. Khi các bà mẹ phải đi làm, thuốc ngủ được sử dụng để làm “người trông trẻ”, thì tỷ lệ tử vong nhũ nhi vọt lên đến 200-260/1000 trẻ sống. Các tiệm thuốc bán đến hàng trăm ký thuốc phiện hàng năm dưới dạng các thuốc viên, thuốc cồn ngọt, và nước quả có tác dụng xoa dịu. Khi các bà mẹ làm việc ngoài đồng hoặc trong xưởng máy, thì những đứa bé được cho uống thuốc gây ngủ bị bỏ ở nhà sẽ chết vì tác dụng của thuốc, kiết lỵ và suy dinh dưỡng.

Các nhà đạo đức học và nhà báo thế kỷ 18 đã đưa đề tài tranh luận về hộ sinh nam vào các câu chuyện dâm ô và gợi dục. Các nhà phê bình xã hội cảnh báo rằng các điệu nhảy, các tiểu thuyết của người Pháp, và ngành hộ sinh do nam giới sẽ làm cho các phẩm chất phụ nữ bị băng hoại, xáo trộn xã hội và làm sụp đổ nền văn minh. Người hộ sinh nam giới cũng là đối tượng khinh rẻ của ngành y, vào giai đoạn mà tất cả các hình thức chuyên khoa hóa đều bị ngờ vực. Viện các thầy thuốc không hề muốn các bác sĩ sản khoa được nhận đầy đủ các quyền lợi và đặc quyền, bởi vì khoa hộ sinh là một can thiệp chân tay, không phù hợp với cách thức của các bậc thượng lưu học rộng, những người không hề cúi lưng để tham gia vào “các sự kiện sinh đẻ xấu hổ”. Nhưng để bảo đảm quyền lợi cho gia đình, các nhà lãnh đạo của Viện các phẫu thuật viên cho rằng ngành hộ sinh nên dành cho vợ, các bà góa và con gái các phẫu thuật viên và người bán thuốc.

Mổ lấy thai.

Các nhà phê bình tố cáo các nam hộ sinh là đã cố ý thổi phồng những nguy hiểm của việc sinh đẻ nhằm mục đích đưa một biến cố tự nhiên thành một quy trình phẫu thuật để nhằm phục vụ lợi ích riêng. Các bác sĩ cũng bị tố cáo là sử dụng sai các dụng cụ để rút ngắn thời gian và để có cơ hội lấy thêm tiền. Theo một hộ sinh người Anh, thì nam hộ sinh đã che dấu những sai sót của mình bằng cách đưa ra một loạt các tiếng lóng khoa học để người bệnh đang rối bời phải cám ơn người đã giết đứa trẻ sơ sinh và làm tàn tật cho người mẹ. Các bác sĩ sản khoa cũng đã bày ra nhiều trò ma mãnh để đánh lừa bệnh nhân và tránh bị trách cứ. Lấy ví dụ, nếu bác sĩ có việc phải đi khi sự chuyển dạ mới bắt đầu, ông ta sẽ dùng tay chọc vào âm đạo sản phụ và nói rằng ông ta đang làm một cái gì đó để cho chuyển dạ nhanh hơn. Vì thế, ngay cả khi ông ta không ở bên cạnh khi đứa trẻ ra đời, ông ta cũng nhận được công trạng là mọi thứ diễn ra tốt đẹp và dồn lời trách cứ cho y tá nếu có việc gì xảy ra.

Một số bác sĩ thừa nhận rằng có những yếu tố khác ngoài giới tính của người đỡ đẻ có thể ảnh hưởng đến kết quả việc chuyển dạ. Lấy ví dụ, BS Charles White (1728-1813) tại Manchester, ghi nhận rằng các phụ nữ nông thôn, bệnh tật, thiếu ăn, nghèo khó, những người chỉ nhận được sự chăm sóc của các nữ hộ sinh hạng bét, thực ra lại có tỷ lệ tử vong mẹ thấp hơn của những phụ nữ thành thị sinh con trong các khoa hộ sinh của bệnh viện, hoặc các phụ nữ giàu có được các bác sĩ nam giới đỡ đẻ. Những người công kích hộ sinh nữ cho rằng phụ nữ hoàn toàn không thể nào có đủ kiến thức khoa học hoặc sử dụng thành thạo các dụng cụ y học. Do các biến chứng có thể xảy ra đột ngột, ngay cả trong các cuộc sinh đẻ có vẻ bình thường, cho nên cần có sự tham gia của các thầy thuốc nam giới trong tất cả các tình huống.

Nhiều bác sĩ sẵn lòng chấp nhận một tầng lớp hộ sinh đỡ đần cho họ trong các trường hợp không có lợi lộc, nhưng họ lại không chịu được những phụ nữ muốn trở thành kẻ cạnh tranh thực sự với họ. Các thành viên của Hội sản khoa thấy được sự phân chia rõ rệt giữa vai trò của hộ sinh và bác sĩ sản khoa. Hộ sinh là để dành cho các phụ nữ nghèo bởi vì họ không mảnh dẻ như phụ nữ giàu có, vì thế, họ không cần nhiều đến sự giúp đỡ y học phức tạp khi sinh đẻ. Nên dành các công việc “khó nhọc, buồn chán, công xá thấp phù hợp với phụ nữ” cho nữ hộ sinh còn các bác sĩ nam thì nắm giữ “một vị trí có nhiều chất đàn ông và được trọng vọng” để phục vụ cho các khách hàng giàu có. Nữ hộ sinh cần phải mời bác sĩ khi gặp trường hợp chuyển dạ bất thường, nhưng các bác sĩ có thể từ chối không đến thăm một bệnh nhân khi người này trót đã chọn một nữ hộ sinh. Ngay cả trong những trường hợp tai tiếng, bệnh nhân chết vì bác sĩ sản khoa không chịu đến giúp đỡ theo lời yêu cầu của nữ hộ sinh, thì nhiều thầy thuốc lý luận rằng những tai biến này sẽ dạy cho kẻ hoang phí một bài học về tiết kiệm là nên mời bác sĩ trước. Khi các bệnh nhân tiềm năng thấy rằng các bác sĩ không sẵn lòng hỗ trợ cho các nữ hộ sinh, thì những đối thủ cạnh tranh nữ này tự động sẽ biến mất.

Đến cuối thế kỷ 19 thì kết cuộc việc tranh đua giữa nữ hộ sinh và bác sĩ trở nên rõ ràng. Hứa hẹn về một sự thắng lợi hoàn toàn trở nên rành rành khi Aveling nhận định rằng câu chuyện bẩn thỉu của nữ hộ sinh yếu kém và dốt nát đã đến hồi kết. Tuy nhiên, tính hám lợi của giới bác sĩ trong thế kỷ 19 quả là một điều khó hiểu. Chắc chắn rằng khoa học lúc đó chưa bước đến phòng đỡ đẻ. Sự chuyển tiếp từ khoa hộ sinh sang sản khoa xảy ra vào một thời điểm mà phẫu thuật thường được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên về ngoại khoa nhiều hơn, nhưng ít kinh nghiệm và tay chân thô bạo. Họ quan tâm nhiều đến sự mạnh bạo và tốc độ chứ chưa hề nghĩ đến việc vô trùng. Ngoài ra, sự chuyển tiếp xảy ra vào một thời kỳ mà phụ nữ còn quá e thẹn. Mệnh phụ đúng điệu thời nữ Hoàng Victoria thà chết hơn là phải giải bày “những vấn đề của phụ nữ” cho một thầy thuốc nam giới. Phụ nữ tham gia vào ngành y vào cuối thế kỷ 19 cũng nối gót chê bai các nữ hộ sinh truyền thống. Vì cố tìm một chỗ đứng trong giới y học, họ thường chấp nhận các quy ước thời Victoria về tính e thẹn của phụ nữ và lý luận rằng bác sĩ nữ phù hợp cho việc sinh đẻ của phụ nữ hơn là nữ hộ sinh hoặc bác sĩ nam.

Điều ngược đời là, những xã hội có vẻ đoan trang nhất lại là những xã hội chấp nhận hoàn toàn nhất một ngành sản mới do đàn ông thống lãnh. Người ta cho rằng việc nhấn mạnh khía cạnh y học của sự sinh đẻ đã phản ánh một mối quan tâm sâu sắc hơn về việc chăm sóc phụ nữ. Nói cách khác, cái nghịch lý có thể giải thích như là một cách phản ánh sự thù địch đối với phụ nữ từ đó dẫn đến ý muốn trừng phạt cái bản năng giới tính của họ bằng một sự hạ nhục tối đa: tước đi hệ thống giúp đỡ gồm toàn phụ nữ của họ và thay vào đó bằng sự chỉ huy của bác sĩ nam những người sẽ thay đổi tiến trình sinh đẻ đầy bất ngờ và nguy hiểm thành một quy trình phẫu thuật đơn giản. Điều chắc chắn là, lập luận cho rằng sự sinh đẻ là một tiến trình bệnh lý, và có lẽ tự nhiên đã cố ý “tận dụng người đàn bà trong quá trình sinh sản, tương tự như kiểu con cá hồi sau khi đẻ con là chết,” chứng tỏ một sự khinh miệt sâu xa đối với phụ nữ, hoặc ít nhất cũng không hề có chút đồng cảm nào.

Khi vai trò của bệnh viện mở rộng vào các thế kỷ 18 và 19, các thầy thuốc tại các đô thị lớn có khả năng nắm được kinh nghiệm lâm sàng, tạo điều kiện cho “những bàn tay sắt” xuất hiện như là “một thứ vũ khí và biểu tượng không thể nào thiếu được”, từ đó nẩy sinh những trận chiến giữa việc sinh đẻ truyền thống lấy người phụ nữ làm trung tâm và việc y học hóa sự sinh đẻ. Khi môn gây mê/gây tê sản khoa xuất hiện vào thập niên 1850, người thầy thuốc có thể bổ sung lời hứa hẹn là đẻ không đau vào sự độc quyền sử dụng các dụng cụ sản khoa của mình. Forceps và gây mê/ gây tê có thể giúp cho việc sinh đẻ trở nên nhanh hơn và ít đau đớn hơn, nhưng tổn thương và nhiễm trùng là hai gánh nặng mà người phụ nữ phải trả giá đắt. Những người công kích cảnh báo rằng khi người phụ nữ bị gây mê/gây tê, thì forceps có thể được sử dụng mạnh tay và lắm khi không cần thiết, từ đó có thể gây ra những tổn thương nặng nề cho mẹ và con. Tổn thương thường rất dễ xảy ra bởi vì người bác sĩ không mấy quan tâm để kiểm tra xem liệu các mô của đường sinh dục phụ nữ có bị vướng khi khóa hai ngàm của chiếc forceps hay không. Ngược lại, những bác sĩ cẩn thận cho ngón tay rà chung quanh chỗ khóa ngàm forceps - một ngón tay không mang găng và có lẽ không được rửa - cũng gây nguy hiểm cho người bệnh.

Mặc dù các phụ nữ nghèo khó và vô vọng - những người đóng vai trò như dụng cụ dạy lâm sàng trong các bệnh viện của thế kỷ 19 - không có nhiều cơ hội chọn lựa người đỡ đẻ cho mình, thì các phụ nữ giàu có càng ngày càng chọn cách mướn bác sĩ đến nhà đỡ đẻ, mong rằng sẽ đẻ con an toàn và ít đau đớn hơn. Vào giữa thế kỷ 20, việc sinh đẻ không còn là một việc trong nhà của phụ nữ nữa mà được đưa vào bệnh viện. Nhằm nâng cao vị trí ngành sản thành một ngành chuyên khoa, Joseph B. DeLee (1869-1942) và những nhà sản khoa hàng đầu khác cho rằng cần phải loại bỏ cạnh tranh giữa các thầy thuốc đa khoa cũng như các hộ sinh. Theo DeLee, sinh đẻ là một loại thủ thuật giải phẫu nên được xử lý bởi một bác sĩ sản khoa tại một phòng mổ của bệnh viện nơi thường xuyên thực hiện forceps và cắt tầng sinh môn. Trung tâm Hộ sinh Chicago do DeLee sáng lập, là môi trường thực tập lâm sàng cho những khóa đào tạo đặc biệt về sản khoa. Sinh viên từ Wisconsin, Marquette, và Northwestern University đến đây để học các nguyên tắc về môn sản khoa khoa học của DeLee.

Xu hướng sinh con tại bệnh viện đã tăng lên từ thập niên 1920. Trước năm 1938, tại Mỹ, một nửa số trẻ vẫn còn được sinh tại nhà; đến năm 1955, khoảng 95% các trường hợp sinh đều xảy ra tại các bệnh viện, nơi mà người phụ nữ đang chuyển dạ thấy mình “lạc lỏng giữa những người xa lạ”. Sự chuyển tiếp này được coi như là sự thay đổi quan trọng nhất trong lịch sử sự sinh đẻ, nhưng lại xảy ra trước khi sự sinh đẻ trong bệnh viện với sự trợ giúp y học đã thực sự trở nên an toàn hơn so với việc sinh con ở nhà nếu xét về mặt thống kê. Tuy nhiên, phụ nữ chọn cách sinh con tại bệnh viện vì mong muốn nhận được sự thành thạo chuyên môn, kỹ thuật mới, không đau và mức an toàn cao hơn cho mẹ lẫn con.

Từ khi các bác sĩ dành được độc quyền trên “bàn tay sắt” và “liều thuốc gây quên lãng”, thì người hộ sinh trở thành một loài bị đe dọa. Khác với những người chỉnh nắn cột sống (chiropractors), đo khúc xạ mắt, chữa bệnh ở chân (podiatrists), và nha sĩ, thì người hộ sinh không bao giờ có cơ hội mang danh hiệu “bác sĩ”. Trong những thập niên 1960 và 1970, mối quan tâm đến các phương thức tự nhiên trong việc chăm sóc sức khỏe và Phong trào đòi nữ quyền đã lên tiếng kêu gọi nên quay lại “kiểu sinh đẻ lấy phụ nữ làm trung tâm”, nhưng do xu hướng y khoa hóa việc sinh đẻ trở nên quá mạnh đến mức trong thập niên 1980, trên 25% trong số trẻ chào đời tại một số bệnh viện của Mỹ là do mổ lấy thai.

Trong chiều hướng này, lịch sử của sốt hậu sản và ngành hộ sinh rõ ràng chỉ là một phần của sự biến đổi phức tạp trong đó có những thay đổi về mô hình cơ sở y tế, vai trò nghề nghiệp, những ước vọng xã hội và các tín niệm về bản chất của phụ nữ. Người hộ sinh nam chỉ là một phẫu thuật viên thấp hèn khi xâm nhập vào thế giới sinh đẻ riêng của phụ nữ, nhưng sau đó đã biến cải việc sinh đẻ thành một phẫu thuật trong môi trường bệnh viện do bác sĩ thống lãnh, và tạo dựng những chuyên môn được đánh giá cao cho các bác sĩ sản khoa và phụ khoa.

Việc sử dụng ngày càng nhiều kỹ thuật gây mê/gây tê - ether hoặc chloroform vào nửa cuối thế kỷ 19 và Twilight Sleep - một hỗn hợp morphine-scopolamine vào các thập niên đầu của thế kỷ 20 - cũng đã giúp nâng cao vị thế của bác sĩ sản khoa. Phụ nữ biết rằng chỉ tại bệnh viện có bác sĩ sản khoa lành nghề mới thực hiện được đẻ không đau. Twilight Sleep thường đi kèm với “phẫu thuật forceps dự phòng”, cắt tầng sinh môn và các can thiệp phẫu thuật thường xuyên khác. Cắt tầng sinh môn được đưa vào thực hành sản khoa trong thập niên 1920, được coi như là một cách ngăn ngừa không gây rách rộng vùng đáy chậu (perineum) khi tống thai, nhưng tác dụng chính có lẽ là để giúp cho việc đặt forceps dễ dàng hơn và thai tống ra nhanh hơn. Tuy nhiên, khoảng thập niên 1980, các nhà nghiên cứu bắt đầu ghi nhận là các nguy cơ liên quan đến việc cắt tầng sinh môn cao hơn nhiều so với những lợi thế gán cho nó. Những hình thức phẫu thuật khác trên các cơ quan sinh dục phụ nữ cũng rất phổ biến vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Phẫu thuật kiểu này được gọi là “cắt buồng trứng bình thường” bởi vì được thực hiện trên các buồng trứng hoàn toàn lành lặn. Các bác sĩ phụ khoa cho rằng loại phẫu thuật này có thể điều chỉnh hành vi của phụ nữ nào có các dấu hiệu mất trí, suy nhược thần kinh, tâm thần bất định, kinh nguyệt không đều, và nhiều thứ khác. Thủ thuật cắt bỏ âm vật cũng nhằm các lý do tương tự.

Những người công kích việc “y khoa hóa quá mức cuộc sống hiện đại” lại cảnh báo những mối nguy hiểm khi xử lý các chức năng bình thường của phụ nữ, trong đó có thai kỳ và mãn kinh, như các tình trạng bệnh lý. Lấy ví dụ, từ thập niên 1960, một số bác sĩ phụ khoa cho rằng mãn kinh là một bệnh thiếu estrogen và cần phải áp dụng liệu pháp thay thế estrogen để ngăn ngừa tình trạng mất nữ tính (defeminization), tăng huyết áp, tăng cholesterol, loãng xương, viêm khớp và những rối loạn cảm xúc nghiêm trọng. Mặc dù có nhiều luận điệu cho rằng liệu pháp thay thế hormone (HRT) hoàn toàn an toàn, nhưng đến năm 1975, các nhà nghiên cứu đã có bằng chứng về mối liên hệ giữa liệu pháp estrogen sau khi mãn kinh và ung thư nội mạc tử cung. Những báo cáo khác về tổn thương do dụng cụ y tế và thuốc theo đơn bác sĩ đã củng cố thêm sự công kích của các nhà hoạt động nữ quyền về sự can thiệp y học trên phụ nữ. Việc lạm dụng chất diethylstilbestrol (DES), một loại estrogen tổng hợp được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1938, đã cho thấy việc can thiệp y khoa hóa thai kỳ và sự sinh đẻ cũng có thể gây nên mối nguy hiểm cho thế hệ sau. Diethylstilbestrol (DES) được kê đơn điều trị mãn kinh, tiểu đường, vô kinh, thống kinh, cơ quan sinh dục chậm phát triển, hiếm muộn, buồn nôn do nghén, nhiễm độc thai, cai sữa, và ngăn ngừa sẩy thai tự nhiên. Nhiều bác sĩ sản khoa còn coi DES là thuốc sử dụng hàng ngày để quản lý thai. Tại một số dưỡng đường có tham gia vào thử nghiệm DES, phụ nữ có thai không được báo rằng những “viên thuốc vitamin” phát cho họ có chứa một thứ thuốc thử nghiệm.

Vào năm 1970, khi xác nhận được một dạng ung thư âm đạo ác tính (clear cell adenocarcinoma) ít gặp trên phụ nữ trẻ do từng phơi nhiễm với chất DES khi còn là bào thai trong bụng mẹ, thì FDA thông báo rằng DES “bị cấm chỉ định trong ngừa sẩy thai”. Vấn đề là DES có thực sự ngừa được sẩy thai hay không vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng các nhà nghiên cứu đã có nhiều bằng chứng quan trọng cho thấy nội tiết tố tổng hợp này gây ra bệnh lý bào thai, gây sinh thai quái, và gây ra ung thư. Các bác sĩ nhi sơ sinh ghi nhận rằng DES chỉ là một trong nhiều thứ thuốc nguy hiểm và không hề có tác dụng được sử dụng với ý đồ làm giảm các triệu chứng trong thai kỳ hoặc giúp cho trẻ sơ sinh. Lấy ví dụ, thalidomide, thứ thuốc nhiều tai tiếng nhất gây sinh quái thai của thế kỷ 20, là thuốc trị chứng ốm nghén trong thai kỳ và đồng thời cũng là thuốc ngủ.

Tại nhiều nơi trên thế giới, nữ hộ sinh còn tiếp tục đóng vai trò chính trong việc chăm sóc phụ nữ có thai và đỡ đẻ, nhưng các nỗ lực nhằm cải thiện vị thế của ngành hộ sinh tại Mỹ nói chung là không thành công. Nhằm phục vụ nền y tế công cộng, một số nhà cải cách Mỹ cố gắng thay thế các nữ hộ sinh truyền thống bằng các cử nhân điều dưỡng (RN) vốn đã được đào tạo sâu về ngành hộ sinh. Tổ chức Frontier Nursing Service (FNS), do Mary Breckinridge (1881-1965) đề xướng vào năm 1925, là một bằng chứng về giá trị của ngành điều dưỡng-hộ sinh, cũng như khả năng của cộng đồng y khoa nước Mỹ muốn gạt bỏ những chương trình như thế. Breckinridge bắt đầu chú ý đến các chương trình đào tạo nữ hộ sinh khi còn tham gia làm y tá tình nguyện tại châu Âu. Là một phần trong kế hoạch đem ngành điều dưỡng-hộ sinh đến những vùng nghèo khó ở miền Nam, bà ta theo học môn điều dưỡng y tế công cộng tại Trường dạy nghề Columbia và ngành hộ sinh tại các bệnh viện ở Anh và Scotland. Những phụ nữ tại vùng núi Kentucky được chọn để tham dự chương trình trình diễn mỗi khi sinh nở đều nhờ đến các cô đỡ là những người học nghề hộ sinh qua các đồng nghiệp khác. Còn các bác sĩ, nếu có, thì tính tiền ít nhất cũng gấp mười lần giá của “các bà mụ già” và họ ưa tiền mặt hơn là hiện vật.

Các điều dưỡng hộ sinh của tổ chức Frontier Nursing Service (FNS) cung cấp các dịch vụ chăm sóc tiền sản, tiêm phòng thương hàn, bạch hầu và đậu mùa, điều trị những bệnh nhiễm trùng. Mặc dù phần lớn các bệnh nhân sống trong các căn nhà tồi tàn, chỉ đến được bằng ngựa, nhưng FNS đã đạt được các tỷ lệ tử vong thấp hơn nhiều so với tỷ suất chung của bang Kentucky và nước Mỹ nói chung. Mặc dù FNS đã thành công lớn khi đạt các mục tiêu đặt ra, nhưng lại không trở thành một tổ chức nghề nghiệp độc lập cho ngành điều dưỡng-hộ sinh tại Mỹ. FNS cũng không xây dựng được chương trình đào tạo hộ sinh nào khác tại vùng nông thôn hoặc thành thị ở Mỹ.

Tuy thế, ngành điều dưỡng-hộ sinh không biến mất hoàn toàn. Học viện Điều dưỡng-Hộ sinh Mỹ được thành lập năm 1955 để đào tạo các điều dưỡng-hộ sinh có chứng chỉ hành nghề, tức là những cô mụ được đào tạo cả hai khoa điều dưỡng và hộ sinh. Dù rằng các điều dưỡng-hộ sinh có chứng chỉ hành nghề này được đào tạo để chăm sóc các phụ nữ và trẻ sơ sinh lành mạnh, nhưng họ chỉ được phép hành nghề hợp pháp khi cộng tác với một bác sĩ. Hội các thầy thuốc sản phụ khoa Mỹ chấp nhận chính sách cho phép sự cộng tác giữa bác sĩ, điều dưỡng-hộ sinh và các nhân viên y tế khác, nếu tất cả các đối tượng này hoạt động “dưới sự chỉ đạo của bác sĩ”. Mặc dù các nghiên cứu thống kê nhiều lần đã chứng minh rằng khi điều dưỡng-hộ sinh chăm sóc cho phụ nữ có thai, thì tần suất trẻ sinh thiếu tháng và thiếu cân thấp hơn, nhưng cộng đồng y học vẫn dửng dưng hoặc thậm chí còn chống đối các điều dưỡng-hộ sinh. Hiệp hội điều dưỡng Mỹ và Liên đoàn Điều dưỡng quốc gia cũng giữ thái độ mập mờ đối với ngành điều dưỡng-hộ sinh. Liên minh các hộ sinh Bắc Mỹ, được thành lập năm 1982, cho rằng ngành hộ sinh cũng không nhất thiết phải có bộ môn điều dưỡng.

Ngành hộ sinh bắt đầu được quan tâm trở lại trong thập niên 1970 khi một số phụ nữ muốn tránh các kỹ thuật y học quá thô bạo như sinh con chỉ huy, gây tê ngoài màng cứng, cắt tầng sinh môn và mổ lấy thai. Những phụ nữ nào băn khoăn về vấn đề thiếu quan tâm đến tính con người (impersonalíty) và tính quá dựa vào y học khi sinh con tại các bệnh viện đã bắt đầu xem việc sinh con tại nhà có nữ hộ sinh giúp đỡ là một phương án thay thế. Vào năm 2000, tiểu bang nào ở Mỹ cũng cho phép các điều dưỡng-nữ hộ sinh hành nghề, tuy nhiên, luật của mỗi tiểu bang liên quan đến các nữ hộ sinh không có chứng chỉ và việc sinh con tại nhà lại rất khác nhau. Theo Trung tâm Thống kê y tế quốc gia, năm 1976, thì các điều dưỡng-hộ sinh có chứng chỉ chỉ đỡ đẻ cho 1% các trường hợp sinh tại Mỹ. Năm 2002, các điều dưỡng-hộ sinh giải quyết khoảng 8% các trường hợp sinh, nhưng ngành hộ sinh lại thoái trào năm 2004. Tại thành phố New York, các điều dưỡng-hộ sinh đỡ đẻ cho khoảng 12% các ca sinh năm 1997, nhưng đến năm 2002, con số này tụt xuống còn 9,7%, theo số liệu của Sở Y tế và Vệ sinh tâm thần của thành phố.

Nói chung, các nữ hộ sinh, bác sĩ, viên chức bệnh viện và bệnh nhân đều cho rằng sự suy giảm sử dụng các dịch vụ của hộ sinh là do những vấn đề bảo hiểm và sợ bị kiện tụng. Phí bảo hiểm sơ suất nghề nghiệp dành cho hộ sinh tăng nhiều lần hơn so với các bác sĩ sản khoa. Chỉ có 2 trong số 4 trung tâm sinh đẻ độc lập do các hộ sinh điều hành tại New York City năm 2002 là còn hoạt động đến năm sau. Những bệnh viện có trung tâm sinh đẻ, để lôi cuốn bệnh nhân, đã cơ cấu nhân viên là hộ sinh, nhưng đồng thời cũng khoanh vùng công việc của họ lại bằng cách đưa nhiều bệnh nhân vào nhóm “nguy cơ cao”.

Ngay cả đến thế kỷ 21, tại những nơi còn hạn chế không cho phụ nữ tiếp cận sự chăm sóc y tế và giáo dục, thì tỷ lệ tử vong mẹ và nhũ nhi có thể xấp xỉ những con số trước thời hiện đại. Những nghiên cứu tại Afghanistan cho thấy tỷ lệ tử vong mẹ và nhũ nhi còn cao rất nhiều. Hàng triệu phụ nữ các miền quê Afghanistan suốt đời xoay quanh việc có thai - đẻ con nhưng chưa hề biết đến sự chăm sóc y tế, mà nếu có, cũng rất ít. Một nghiên cứu do Tổ chức Y tế thế giới thực hiện năm 2001 ước tính rằng có trên 2.000 ca mẹ chết trên 100.000 ca sinh sống. Trẻ sơ sinh bị chết mẹ trong khi sinh chỉ có một phần tư cơ hội sống sót cho đến sinh nhật lần thứ 1. Khoảng một nửa số ca tử vong của phụ nữ Afghanistan trong độ tuổi sinh đẻ là do các biến chứng trong thời kỳ mang thai hoặc do trong khi sinh con. Các nhà nghiên cứu cho rằng khoảng 90% các trường hợp chết mẹ đều có thể ngăn ngừa được nếu được chăm sóc tốt hơn.