← Quay lại trang sách

SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGƯỜI ĐIỀU DƯỠNG

Người ta thường nói mỗi phụ nữ là một người điều dưỡng. Sau khi ngành điều dưỡng chấp nhận mô hình Nightingale, thì có thể nói “mỗi điều dưỡng là một phụ nữ*”. Ngành điều dưỡng, dù trong phòng bệnh hoặc trong một khoa của bệnh viện, được coi là một phần của thiên chức phụ nữ. Khi chấp nhận nhiều khía cạnh của sự phân chia truyền thống giữa vai trò của nam và nữ, Flor ence Nightingale (1820-1910) và các nhà cải cách ngành điều dưỡng đã cố gắng chuyển đổi ngành điều dưỡng từ một dạng lao dịch dành cho người không có chuyên môn thành một ngành chuyên môn phù hợp với phụ nữ trung lưu có học. Trước khi Nightingale tham gia ngành điều dưỡng, các nữ tu - các xơ chăm sóc người ốm- là những người tham gia hình thành ngành điều dưỡng và sự ra đời của các bệnh viện. Vì thế, tuy Nightingale không khai sinh ra ngành điều dưỡng, nhưng chắc chắn bà ta là một khuôn mặt chủ đạo trong việc cải tạo hình ảnh và việc đào tạo cho người điều dưỡng hiện đại.

Không hề cường điệu, Nightingale thường cho rằng thuốc men chưa chắc đã đem lại lợi ích, nhưng giá trị của việc chăm sóc điều dưỡng tốt thì khỏi cần phải bàn cãi. Các điều dưỡng được huấn luyện kỹ của Nightingale

* Tiếng Anh nurse: điều dưỡng dành cho nữ; nam giới làm cùng công việc gọi là orderly.

đã hết sức chú trọng đến sự sạch sẽ trong bệnh phòng, thậm chí còn trước cả lúc các phẫu thuật viên thừa nhận khử trùng và vô khuẩn. Mặc dù công việc do điều dưỡng đảm đương đã thay đổi nhiều kể từ thời đại Nightingale, nhưng những nghiên cứu thực hiện trong thập niên 1990 đã xác nhận lời phát biểu của Nightingale. Những bệnh nhân được điều trị tại các bệnh viện có tỷ lệ điều dưỡng cao sẽ có tỷ lệ biến chứng thấp hơn và ra viện sớm hơn bệnh nhân tại các bệnh viện có số lượng điều dưỡng thấp. Thời gian nằm viện dài sẽ làm tăng tỷ lệ biến chứng như nhiễm trùng đường tiểu, viêm phổi, xuất huyết tiêu hóa, choáng, ngưng tim và tử vong nếu không được can thiệp nhanh chóng. Hiệp hội Điều dưỡng của Mỹ nhấn mạnh rằng chỉ có cách duy trì số lượng điều dưỡng đúng mức mới bảo đảm chăm sóc tốt cho bệnh nhân.

Năm 1921, khi các nhà quản lý bệnh viện ở Mỹ cử hành Ngày Bệnh viện nước Mỹ, họ đã chọn ngày 12 tháng 5, ngày sinh của Florence Nightingale, làm ngày hội như một cách thừa nhận sự phát triển song hành của bệnh viện hiện đại và người điều dưỡng được đào tạo. Tại Mỹ, những nỗ lực thành lập các trường điều dưỡng đều đi từ tấm gương Florence Nightingale và các kinh nghiệm của Cuộc nội chiến. Rất lâu trước khi bệnh viện đảm nhận vai trò đào tạo bác sĩ, các nhà quản lý bệnh viện đã nhận thấy rằng cũng nên thành lập ra trường đào tạo điều dưỡng. Số lượng các trường đào tạo điều dưỡng tại Mỹ tăng lên nhanh sau khi có những trường loại này được thành lập trong thập niên 1870. Đến năm 1930, trên 2.000 bệnh viện có biên chế là điều dưỡng và có dịch vụ đào tạo điều dưỡng. Khi con số các trường điều dưỡng tăng lên, sự cạnh tranh để tìm vị trí trong bệnh viện đã làm giảm đi các ước vọng nghề nghiệp của tất cả các điều dưỡng lành nghề. Theo mô hình Nightingale, các nhà cải cách ngành điều dưỡng sơ khai đã hy vọng tuyển được các học trò từ tầng lớp “ưu tú”, những người coi ngành điều dưỡng như là một nghề nghiệp đặc biệt. Tuy nhiên khi số lượng các trường điều dưỡng tăng lên, tính chọn lọc giảm dần và người điều dưỡng được coi chỉ là những công nhân đáng tin cậy, làm được việc; những người được coi là cấp dưới và phục tùng các bác sĩ. Trong khi cố gắng xây dựng một giáo trình chuẩn cho các trường điều dưỡng, thì các nhà lãnh đạo ngành điều dưỡng cũng tranh đấu để đưa ra một bản sắc nghề nghiệp cho các điều dưỡng lành nghề. Rất ý thức là trên thực tế từ “điều dưỡng” được sử dụng bừa bãi, các hiệp hội điều dưỡng vận động đưa ra những luật cấp phép hành nghề phân biệt giữa điều dưỡng lành nghề và điều dưỡng không qua đào tạo. Đến thế chiến thứ 2, ngành điều dưỡng về cơ bản đã đi vào quy chế hiện đại khi các điều dưỡng tốt nghiệp thế chỗ cho các điều dưỡng học việc trong các phòng bệnh.

Mary Adelaide Nutting (1858-1948) và Lavinia Lloyd Dock (18581956), là những nhà cải cách và giảng dạy của ngành điều dưỡng, nhấn mạnh rằng nghĩa vụ chính của điều dưỡng là người bệnh, chứ không phải là bác sĩ và thúc dục các điều dưỡng phải nắm chắc nghề nghiệp của mình. Là những người ủng hộ một thế giới quan tiến bộ, Dock và Nutting cho rằng việc mình đang làm là một phần của sứ mạng phụ nữ để hoàn thành việc cải cách và tiến bộ xã hội. Ngoài việc dạy học và viết lách, Dock thể hiện sự cam kết đối với các cải cách xã hội và các vấn đề y tế công cộng qua thành quả của mình trong phong trào xây dựng nhà ở cho người nghèo. Dock làm việc với đồng nghiệp là Lillian Wald (18671940) với vai trò một điều dưỡng y tế công cộng. Wald là người sáng lập ra khu định cư Henry Street Settlement tại New York City. Tin rằng sách và báo chí do điều dưỡng viết ra và dành cho điều dưỡng là những yếu tố cơ bản trong trận chiến giành sự tự trị nghề nghiệp, Dock và Nutting đã dành nhiều năm thu thập tài liệu để viết bộ Lịch sử ngành điều dưỡng (1907-1912) gồm 4 quyển. Các nghiên cứu gần đây chứng minh rằng các điều dưỡng vẫn còn theo đuổi mục tiêu ngành điều dưỡng phải do điều dưỡng kiểm soát của Dock.

Theo mô hình của các thí nghiệm về điều dưỡng khu phố của Nightingale, trong thập niên 1880, các tổ chức từ thiện khắp nước Mỹ đã bảo trợ các tổ chức điều dưỡng chăm sóc tại nhà. Các điều dưỡng chăm sóc cho người bệnh nghèo khó, giúp họ tắm rửa, ăn mặc, cho ăn, và dọn dẹp nhà cửa cũng như cho uống thuốc, đo các sinh hiệu, chỉ dẫn cho các thành viên trong gia đình cách chăm sóc người bệnh và tránh bị lây nhiễm. Điều dưỡng tại các thành phố lớn cũng ra sức Mỹ hóa các gia đình di cư mà họ đến thăm. Một số điều dưỡng và các nhà cải cách xã hội tin rằng công việc của họ cũng sẽ giúp cải tổ các điều kiện xã hội dẫn tới bệnh tật, rác rưởi và nghèo khó. Trong những năm đầu thế kỷ 20, phong trào y tế công cộng mở rộng đã cung cấp cho các điều dưỡng lành nghề một môi trường hứa hẹn đem lại nhiều sự độc lập nghề nghiệp hơn là công việc hàng ngày tại bệnh viện hoặc chăm sóc riêng cho người bệnh. Các điều dưỡng y tế công cộng tham gia vào các công việc như dịch vụ thăm bệnh tại nhà, các khu định cư, trường điều dưỡng, sức khỏe trẻ em, các chiến dịch phòng chống bệnh hoa liễu, các bệnh xá nhà máy, các trạm sơ cứu, y học dự phòng và giáo dục sức khỏe. Do làm việc theo một quy trình đã được chuẩn y và các hướng dẫn xử lý từ một bác sĩ cho nên người điều dưỡng tránh được các vấn đề pháp lý và có phần nào độc lập khi làm việc. Tổ chức Điều dưỡng y tế công cộng quốc gia được thành lập năm 1912, nhưng đa số các chính quyền địa phương đều không nhất trí với ý kiến cho rằng các dịch vụ điều dưỡng là những khía cạnh chính yếu của hệ thống y tế công cộng. Tuy nhiên, các hiệp hội điều dưỡng chăm sóc bệnh tại nhà đã bị tác động mạnh vì những thay đổi trong hệ thống y tế khi vai trò của bệnh viện được mở rộng. Sau thế chiến thứ 2, tổ chức các dịch vụ y tế đã trải qua nhiều thay đổi và một lần nữa đã phá ngang các ước vọng nghề nghiệp của điều dưỡng. Dần dà, các bệnh viện, các cơ quan chính quyền và các thầy thuốc tìm ra cách đảm đương công việc mà trước đây vốn do các tổ chức xã hội tự nguyện và điều dưỡng y tế công cộng phụ trách.

‘‘BẢN CHẤT PHỤ NỮ’’ VÀ BÁC SĨ NỮ

“Vấn đề phụ nữ” là một chủ đề của không biết bao nhiêu quyển sách của các thầy thuốc, nhà khoa học và triết gia của thế kỷ 19. Sử dụng các lập luận gọi là có khoa học để hợp lý hóa và hợp pháp hóa các kiểu thức kinh tế và xã hội truyền thống, các bác sĩ tự cho mình là nhà khoa học có kiến thức chuyên về sinh lý học phụ nữ. Các thầy thuốc ở Mỹ cho rằng phụ nữ bị quy kết phải chịu cảnh yếu đuối và bệnh tật bởi vì sinh lý học phụ nữ, trong đó có chu kỳ kinh nguyệt, về cơ bản mang tính bệnh lý. Vào thập niên 1870, các bác sĩ ngày càng chú ý nhiều hơn vào mối lo ngại là việc học hành sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của phụ nữ và con gái. Toàn bộ cơ thể phụ nữ, nhất là hệ thần kinh, được cho là nằm dưới sự kiểm soát của tử cung và hai buồng trứng. Công việc trí óc vào tuổi dậy thì, nhất là trong môi trường nam nữ học chung, vì thế sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ thống sinh sản phụ nữ. Người ủng hộ nổi tiếng cho lập luận này là Edward H. Clarke (1820-1877), tác giả của một quyển sách gây nhiều ảnh hưởng nhan đề Giới tính trong giáo dục: hoặc Một cơ hội bình đẳng cho các thiếu nữ (1874).

Ngoài một phòng mạch tư lớn tại Boston, Clarke còn là một giáo sư đại học Harvard và người đứng đầu cuộc chiến không cho sinh viên nữ ghi tên vào đại học này. Clarke đồng tình với tư tưởng thời đó cho rằng cơ thể con người là một hệ thống kín không có nhiều dự trữ năng lượng (energy bank). Nói cách khác, cơ thể là một bãi chiến trường các nguồn năng lượng hạn chế mà các cơ quan phải chiến đấu để giành lấy phần của mình. Sự giành giật giữa bộ não và hệ thống sinh dục nữ đặc biệt rất nguy hiểm. Clarke nhấn mạnh “Tự nhiên đã dành sẵn một tuần lễ kinh nguyệt cho chu trình rụng trứng” và “cho sự phát triển và hoàn thiện hệ thống sinh sản” (điều này hoàn toàn sai). Sự nghỉ ngơi toàn bộ về tinh thần và thể chất trong thời gian có kinh là rất cần thiết để cho hệ thống sinh sản của người phụ nữ phát triển thích đáng.

Theo Clarke, phụ nữ tốt nghiệp đại học, nếu họ sống sót được qua các thử thách, thì số phận của họ là vô sinh, ốm yếu đến mức tàn phế, dễ bị vô kinh, thống kinh, huyết trắng, viêm buồng trứng cấp tính và mạn tính, sa sinh dục, thiếu máu, táo bón, nhức đầu, hysteria, đau rễ thần kinh và những điều khủng khiếp khác. “Sức mạnh trí tuệ” mà các cô gái vận dụng để học tiếng Latin hoặc toán sẽ làm hủy hoại một số lớn các tế bào não và làm giảm khả năng sinh con. Các phụ nữ có học nếu thoát được cảnh vô sinh thì sẽ gặp các nguy hiểm khi có thai và khi sinh con bởi vì khung chậu của họ bị hẹp và đứa trẻ con họ có đầu lớn hơn. Họ khó có khả năng nuôi con vì họ “không có vú cũng như không có sữa”. Clarke đưa ra bằng chứng là cô D., ngực lép, vào trường Vassar năm 14 tuổi. Khi tốt nghiệp, cô ta là nạn nhân của chứng vô kinh, hysteria, hay hốt hoảng, nhức đầu, lúc nào cũng mệt mỏi và táo bón. Một sinh viên kém may mắn khác chết chẳng bao lâu sau khi tốt nghiệp; khi mổ xác mới thấy não bộ tóp teo. Ngay cả Martha Carey Thomas (1857-1935), người sáng lập và chủ tịch của trường Bryn Mawr còn nhớ cái cảm giác kinh hoàng khi đọc những lời cảnh báo kia lúc còn là thiếu nữ.

Khi kiểm định lại giả thuyết của Clarke người ta thấy rằng sinh viên nữ cũng khỏe mạnh như các phụ nữ khác và các nghiên cứu về kỹ năng tâm thần và vận động của họ không hề thấy có sự liên quan đặc biệt nào với chu kỳ kinh nguyệt. Những người phản bác giả thuyết của Clarke cho rằng các bác sĩ có cùng quan điểm với ông này chỉ vì họ có thành kiến và bị ảnh hưởng bởi thực tế những người họ gặp là những bệnh nhân thực sự ốm yếu. Các bác sĩ nữ cho rằng con gái thường bị bệnh vì chế độ ăn kém, thiếu không khí trong lành, mặc nịt ngực quá chặt, quần áo quá chật và thiếu học vấn và vận động. Một số người hoài nghi cho rằng, do số bác sĩ được đào tạo quá nhiều, cho nên các thầy thuốc quá hăng say tìm kiếm các “triệu chứng phụ nữ” mạn tính nhưng không nguy hiểm trong số các quý bà mảnh mai thuộc tầng lớp trên. Người hầu, công nhân nhà máy, và những phụ nữ nghèo khác dường như cũng chẳng cần đến một tuần lễ để nghỉ ngơi khi có kinh.

Mary Putnam Jacobi (1842-1906), một thầy thuốc và tác giả y học nổi tiếng, tuyên bố thẳng thừng rằng phụ nữ được chẩn đoán là luôn luôn đau yếu chẳng qua vì các bác sĩ xem họ như những bệnh nhân béo bở. Trong quyển sách của bà ‘Vấn đề nghỉ ngơi của phụ nữ khi có kinh’ được viết để trả lời câu hỏi “Liệu phụ nữ có cần nghỉ ngơi tinh thần và thể chất khi có kinh và với mức độ nào?”, đã đoạt giải Boylston của Đại học Harvard năm 1876. Công trình của Jacobi đã chứng minh rằng giáo dục và công việc chuyên môn không làm nguy hại cho sức khỏe phụ nữ. Thật vậy, phụ nữ có giáo dục là những người khỏe mạnh hơn bất cứ nhóm phụ nữ nào khác. Chắc chắn rằng cũng có nhiều phụ nữ không được khỏe như họ muốn, nhưng cách chữa trị thực sự cho họ là thêm học vấn chứ không phải bớt đi. Phụ nữ ốm yếu có nhiều khả năng là nạn nhân của những người cha nghiện rượu, người chồng bị bệnh tình dục và “những xếp đặt xã hội tệ hại khác”, nhưng bệnh hysteria và những bệnh “thần kinh” liệt giường khác có vẻ ủng hộ mạnh ý kiến của Clarke, bởi vì đây là những chứng bệnh “không bao giờ gây chết người, nhưng không chữa được và lúc nào cũng cần đến sự chăm sóc y tế”. Jacobi, một trong những người sáng lập ra Hiệp hội Y học nữ của New York City, và một người tích cực tranh đấu cho quyền được theo học ngành y của phụ nữ. Jacobi tốt nghiệp trường Y khoa dành cho phụ nữ tại Pennsylvania năm 1864.

Bà đã làm nội trú tại bệnh viện New England một năm. Để nâng cao nghề nghiệp, bà qua Paris và là phụ nữ đầu tiên được nhận vào trường y Paris. Bà tốt nghiệp năm 1871 với thứ hạng cao.

Đại diện của nhiều trường y nghiên cứu phát biểu của Clarke và cho rằng các sinh viên nữ của họ đều khỏe mạnh. Bác sĩ thường trú của trường Vassar nhấn mạnh rằng những ai đã biết Clarke nói sai về trường Vassar lại có thể tin phần còn lại trong quyển sách của ông này. Không thể tìm được bằng chứng về “cô D.” kém may mắn tại Vassa, vốn là một trường nổi tiếng, không hề nhận học sinh 14 tuổi. Julia Ward Howe (1819-1910), nhà tranh đấu cho nữ quyền người Mỹ và là tác giả của ‘Bài ca ra trận của nền Cộng hòa’ (1862), đã xuất bản một tuyển tập các câu trả lời nhan đề ‘Trả lời cho quyển Giới tính trong giáo dục của BS E. H. Clarke’. Sau khi đọc kỹ quyển Giới tính trong giáo dục, Howe kết luận rằng đây không phải là một công trình khoa học, văn chương, triết học hoặc một chuyên luận về sức khỏe, mà chỉ là một cuộc luận chiến chống lại việc giáo dục dành cho phụ nữ. Ngược lại với các dự đoán đầy điềm gở của Clarke, phụ nữ không hề bị ốm hoặc vô sinh chỉ vì muốn vào học tại Harvard College. Những lời cảnh báo của Clarke về các nguy hiểm của giáo dục trong thời gian trưởng thành của phụ nữ chẳng hề có chút giá trị gì hơn là “câu chuyện kể của mấy bà già” khi nói về những than phiền của phụ nữ khi chân bị ướt, vớ lụa, cưỡi ngựa, khiêu vũ hoặc các vũ hội mùa đông. Thuốc chữa thực sự cho những sự khiếm khuyết của phụ nữ là nhiều học vấn hơn, chứ không phải bớt đi, nhất là giáo dục về sinh lý học. Trong lúc Clarke đưa ra các nhận xét chung từ những quan sát của mình trên phụ nữ bị bệnh, ông ta quên không nói là phụ nữ sẽ bị ốm sau tốt nghiệp, khi họ ngừng học hỏi và không có thêm kiến thức.

Clarke cũng không hề đơn độc trong chiến dịch chống lại sự giáo dục dành cho phụ nữ. Horatio Storer (1830-1922), một thầy thuốc phụ khoa tại Boston và là chủ báo ‘Journal of the Gynaecological Society of Boston’, cũng sử dụng luận điểm “các khó khăn kinh nguyệt”. Một bác sĩ phụ khoa người Mỹ khác khuyên các cô gái là “nên nghỉ ngơi một năm trước khi dậy thì và hai năm sau đó”. Ông ta bổ sung, cứ mỗi lần có kinh thì nên “cong người lại”. Nhà thần kinh học người Mỹ S. Weir Mitchell (18291914) khẳng định rằng nếu hoạt động trí não quá nhiều trước khi thực sự trưởng thành, thì cô gái sẽ làm hỏng “sự hữu ích về mặt phụ nữ trong tương lai” và cô ta sẽ trở thành tàn tật. Nhà tâm thần học nổi danh người Mỹ G. Stanley Hall (1844-1924) cũng đồng ý là khi tâm thần bị kích thích quá mức sẽ gây nguy hiểm cho phụ nữ và thiếu nữ. Vì thế, các thiếu nữ nên theo học tại các trường đặc biệt trong đó có thời gian dành cho chu kỳ ốm yếu của phụ nữ.

Khi Hiệp hội Y khoa Mỹ (AMA) cân nhắc có nên chấp nhận các bác sĩ nữ, thì luận điểm trong thập niên 1870 được đưa ra trong đó có lời khẳng định rằng phụ nữ không bao giờ nên làm bác sĩ bởi vì họ thiếu sự suy đoán duy lý, rằng chứng cứ sinh lý học cho thấy rằng bộ não của phụ nữ có kích cỡ không đủ cho việc học y khoa, và sự suy đoán của họ thay đổi hàng ngày “tùy theo thời điểm trong tháng”. Trong một cuộc tranh luận lớn về “vấn đề phụ nữ” tại Anh, các bài xã luận trên tờ Lancet chỉ ra rằng phụ nữ có quá nhiều thứ “bất cập về thể chất” nên không thể trở thành bác sĩ được, mặc dù họ có thể là điều dưỡng hoặc nữ hộ sinh phục vụ cho người nghèo. Nhiều bác sĩ đồng ý với những học thuyết do Edward H. Clarke đưa ra trong quyển Giới tính và Giáo dục, nhưng có ít ai sẵn lòng muốn chấp nhận phụ nữ làm đồng nghiệp. Một bác sĩ than phiền rằng nếu AMA không thừa nhận các bác sĩ nữ, thì ông ta sẽ không thể nào trao đổi ý kiến với các thầy thuốc nữ “có nhiều học vấn nhất”, mặc dù ông ta được tự do hội ý với “những con lừa đực dốt nát nhất trong ngành y”.

Phụ nữ không nhất thiết phải nhờ đến các bác sĩ nam như BS Clarke để giải quyết các vấn đề riêng “thuộc về phụ nữ” của họ. Thật vậy, phần lớn người dân sử dụng các loại thuốc gia đình, các phương thuốc dân gian và thuốc đặc chế hơn là nhờ đến các bác sĩ. Chăm sóc người ốm là một phần của “lĩnh vực trời dành cho phụ nữ”. Tuy nhiên, một số phụ nữ có khả năng chuyển tính thùy mị của phụ nữ và nghệ thuật chữa bệnh của đàn bà thành những mối kinh doanh phát đạt. Một ví dụ trứ danh nhất là Lydia E. Pinkham (1819-1883) và Hợp chất Thực vật (Vegetable Compound) của bà ta, một phương thuốc cây cỏ được cho là có tác dụng cho khoảng một chục chứng bệnh phụ nữ có liên quan đến các cơ quan và chức năng sinh sản, nhưng cũng không bỏ qua nhức đầu và mệt mỏi. Thành công của Hợp chất thực vật đã phản ánh sự bất bình với các thứ thuốc chính thống, nhất là đối với phụ nữ, và cái tài năng thiên phú trong việc tiếp thị và quảng cáo của gia đình Pinkham. Bài thuốc “chữa bệnh mệt mỏi cho phụ nữ” của Pinkham là một loại rượu bổ 40 chữ có chứa rễ cỏ lưỡi chó (life root), rễ kỳ lân (unicorn root = Aletris farinosa L.), mao lương đen (black cohosh), rễ cây bông tai (pleuresy root = Asclepias tuberose) và hạt hồ lô ba (fenugreek). Hàng ngàn lá thư từ các khách hàng hài lòng đã giúp cho bà tin tưởng rằng Hợp chất Thực vật đem lại hiệu quả và ít nguy hiểm hơn là các thứ thuốc do bác sĩ kê đơn. Hợp chất của Pinkham vẫn còn phổ biến mãi đến thập niên 1940 khi các thứ “thuốc thần kỳ” tân thời thay thế thứ rượu cồn thảo dược của Lydia Pinkham.

Trong suốt thế kỷ 19, nhiều người hành nghề y đã đạt được danh hiệu “bác sĩ” nhờ thời gian học việc hoặc chỉ trải qua vài tháng nghe các bài giảng chán ngắt tại một trường y khoa - chính thống hay không chính thống (sectarian) - kèm theo các giấy chứng nhận đáng ngờ. Theo ý này, cần nhớ là mặc dù Elizabeth Blackwell thường được gọi là bác sĩ nữ đầu tiên, nhưng hoàn toàn không phải như vậy. Có nhiều phụ nữ khác đã hành nghề y trước Blackwell, nhưng bà ta là người tiên phong mở ra một nghề y chính thống cho giới phụ nữ. Trong suốt lịch sử, thầy thuốc nữ thường được mô tả điển hình là nữ hộ sinh hoặc người chữa bệnh bằng thảo dược ngay cả khi sự đào tạo và hành nghề của họ về cơ bản giống hệt như các thầy thuốc nam giới. Lấy một ví dụ, Harriot Hunt (1805-1875) đã hành nghề y tại Boston khoảng 40 năm sau khi qua một thời gian tập sự nghề y. Vào thời đó, chỉ có một số ít thầy thuốc mới tốt nghiệp từ một trường y. Tuy nhiên, trong tự truyện của mình, Hunt có nhắc lại là mình bị lực lượng thầy thuốc nam giới lánh xa như thể mình bị mắc một chứng bệnh gì khủng khiếp.

Trong tự truyện của mình Elizabeth Blackwell (1821-1910) cho biết sở dĩ bà ta quyết định trở thành bác sĩ vì một người bạn của mình chết vì một chứng bệnh gây đau đớn có “tính chất tế nhị” - có lẽ là ung thư tử cung. Tâm sự rằng “điều đau khổ nhất” của mình là được một bác sĩ nam giới chữa trị, cho nên người phụ nữ này khuyên Blackwell đi học để trở thành bác sĩ. Sau khi vượt qua được cái chán ghét đầu tiên khi nghĩ đến việc phải học giải phẫu học, sinh lý học và tất cả những thương tật của cơ thể con người, Blackwell quyết định trở thành một bác sĩ là một sự phấn đấu cần thiết về mặt đạo đức. Năm 1847, khi Blackwell bắt đầu ghi tên vào các trường y, thì không có trường chính quy nào nhận phụ nữ. Cuối cùng, bà ta cũng vào được trường Geneva Medical College, New York, một trường y xoàng nhưng dạy y học chính thống. Vào tháng 1 năm 1849, Blackwell được trao bằng Bác sĩ Y khoa.

Để có kinh nghiệm lâm sàng trong phẫu thuật và sản khoa, Blackwell đi sang châu Âu. Một nhiễm trùng ở mắt mắc phải khi chăm sóc cho một bệnh nhân tại nhà hộ sinh La Maternité, Paris hầu như làm hỏng sự nghiệp của bà. Việc điều trị nhiễm trùng bao gồm đốt mô mí mắt, cho đỉa hút máu hai bên thái dương, áp lạnh, tra thuốc có belladonna, ngâm chân, dán cao có chất mù tạt và một chế độ ăn chỉ có nước canh thịt. Còn lại chỉ một mắt, Blackwell đành từ bỏ ý định chuyên khoa về phẫu thuật. Khi đang ở Anh, Blackwell gặp Florence Nightingale và ý thức được tầm quan trọng của vệ sinh môi trường và việc quản lý bệnh viện sao cho thích đáng. Năm 1859, Elizabeth Blackwell trở thành người phụ nữ đầu tiên được ghi tên vào danh bạ y khoa của nước Anh. Blackwell giảng nhiều bài về giáo dục dành cho phụ nữ và giúp thành lập trường y dành cho phụ nữ tại London (London School of Medicine for Women), là trường y dành cho nữ giới đầu tiên tại nước Anh.

Hy vọng rằng sẽ có nhiều cơ hội dành cho thầy thuốc nữ, Blackwell quay về Mỹ. Em gái của bà là Emily Blackwell (1826-1910), đã tốt nghiệp trường Y Cleveland năm 1854, sau đó theo học ngành sản với James Young Simpson (1811-1879), Giáo sư môn Hộ sinh tại Edinburg và là một trong những phẫu thuật viên và bác sĩ sản khoa hàng đầu của Scotland. Năm 1857, chị em Blackwell và Marie Zakrzewska (1829-1902) thành lập một bệnh xá và một bệnh viện để phục vụ người nghèo. Trường Y dành cho phụ nữ thuộc Bệnh xá New York dành cho phụ nữ và trẻ em (New York Infirmary for Women and Children) tổ chức dạy lâm sàng cho các sinh viên nữ đến tận năm 1899. Zakrzewska vốn là giáo sư môn hộ sinh tại Trường dạy Hộ sinh tại Berlin, đã di cư sang Mỹ và lấy bằng y khoa tại Trường Y Cleveland. Sau khi làm việc với chị em nhà Blackwell, bà ta chuyển về Boston và thành lập bệnh viện dành cho phụ nữ và trẻ em vùng New England.

Khi Elizabeth Blackwell đánh giá sự tiến bộ của phụ nữ trong lĩnh vực y học vào năm 1869, bà ta hoàn toàn lạc quan khi nhìn về tương lai. Blackwell khẳng định rằng, ít nhất tại các tiểu bang miền bắc, phụ nữ cũng đã đạt được “sự tự do và bình đẳng khi gia nhập vào ngành y”. Các phụ nữ của thế kỷ 20, những người xem Blackwell là một hình mẫu, phải thừa nhận rằng bà ta đúng ra là người tiên phong hơn là nhà tiên tri. Cũng như thế, mặc dù Blackwell là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ thiếu nữ Mỹ, nhưng cuộc đời của bà ta thường được trình bày dưới hình thức một cuộc chiến đấu đơn độc, quá dài mà một người phụ nữ phải gánh nếu bà ta chọn một cuộc sống vì nghề nghiệp thay vì xây dựng gia đình. Một nghiên cứu kỹ hơn về thế hệ tiên phong gồm những bác sĩ nữ cho ta thấy cả một lĩnh vực rộng lớn các mối liên hệ cá nhân và nghề nghiệp. Rất nhiều bác sĩ nữ ít người biết đến của thế kỷ 19 là những người lập gia đình, nuôi nấng con cái và hành nghề y. Không được tham gia trọn vẹn vào các hoạt động của cộng đồng y tế, các bác sĩ nữ khác tìm được chỗ đứng trong ngành y tế công cộng, trong phong trào xây dựng khu định cư cho người nghèo, các phòng khám trẻ em lành mạnh, trong vệ sinh công nghiệp và trong phòng thí nghiệm y học.

Năm 1859, khi đến thăm người em sống tại London, Elizabeth Garrett (1836-1917) đã gặp Elizabeth Blackwell trong những buổi giảng bài về “Y học như là một nghề cho Quý bà”. Tấm gương của Blackwell đã thúc đẩy Garrett quyết chí trở thành bác sĩ. Khi một bác sĩ hỏi Garrett vì sao muốn trở thành một bác sĩ thay vì một điều dưỡng, bà ta đáp thẳng thừng: “vì tôi muốn kiếm được 1.000 bảng thay vì chỉ có 20 bảng một năm!”. Lý lẽ của câu trả lời này được cha bà, Newson Garrett, một thương gia giàu có, hoàn toàn ủng hộ.

Không có trường y nào tại nước Anh mở cửa cho phụ nữ và Cơ quan đăng ký hành nghề y cấm cửa đối với các bác sĩ có bằng cấp từ nước ngoài sau khi Blackwell tranh thủ được vào danh bạ. Bạn bè gợi ý Garrett nên làm điều dưỡng tại bệnh viện Middlesex 6 tháng để thử thách lòng kiên nhẫn và nhiệt tình trước khi muốn theo học y khoa. Sau 3 tháng thử việc, Garrett không thèm giả dạng điều dưỡng nữa và đóng ngay vai trò một sinh viên y khoa, hàng ngày đi thăm bệnh, làm việc tại bệnh xá, giúp đỡ các bệnh nhân cấp cứu, đi nghe giảng và dự các kỳ thi. Mặc dù Garrett nhận được Chứng chỉ danh dự cho tất cả các môn trong chương trình, nhưng bà không được phép trở thành một sinh viên chính thức. Đơn xin của bà bị các trường Oxford, Cambridge, và Đại học London từ chối, mặc dù trong quy định của các trường này là cung cấp giáo dục cho “mọi tầng lớp và phân biệt thứ hạng”. Người ta báo cho bà biết phụ nữ không phải là một tầng lớp cũng như thứ hạng.

Nhất quyết phải giành được một bằng cấp đủ điều kiện để ghi tên mình tại Cơ quan đăng ký hành nghề y, Garrett quyết định lấy bằng Licentiate của Hội các nhà bào chế (Licentiate of the Society of Apothecaries = L. S. A.). Bằng LSA không được danh giá bằng bằng bác sĩ nhưng cũng được phép trở thành thầy thuốc được công nhận. Để được công nhận, người nộp đơn phải thực tập 5 năm dưới sự hướng dẫn của một bác sĩ lành nghề, đi nghe các trợ giảng đại học giảng bài và qua được kỳ thi đánh giá trình độ. Cơ quan các nhà bào chế (Hall of Apothecaires) chắc chắn không phải là nơi ủng hộ cơ hội bình đẳng cho phụ nữ, nhưng trong quy chế nói rõ là sẽ tổ chức thi cho “tất cả mọi người” miễn là đủ điều kiện. Theo các ý kiến pháp lý mà Garrett có được, “mọi người” trong đó có phụ nữ. Năm 1865, cuối cùng Garrett cũng buộc Hội các nhà bào chế chấp nhận các chứng chỉ của mình và tổ chức kỳ thi xét trình độ. Một năm sau, tên của Garrett được ghi vào Cơ quan đăng ký hành nghề y. Hội bào chế ngay lập tức thay đổi quy chế là để lấy được bằng LSA cần phải tốt nghiệp từ một trường y khoa được công nhận. Dĩ nhiên, tất cả các trường này đều cấm cửa phụ nữ. Trong vòng 12 năm sau đó, không có tên phụ nữ nào được ghi thêm vào Cơ quan đăng ký hành nghề y.

Năm 1866, Garrett mở ra Bệnh xá St. Mary dành cho phụ nữ tại London. 6 năm sau, bệnh xá này trở thành Bệnh viện mới dành cho phụ nữ và trẻ em. (Khi Elizabeth Garrett Anderson chết, bệnh viện này được đặt tên là Bệnh viện Elizabeth Garrett Anderson). Năm 1869, Garrett gặp người chồng tương lai, James George Skelton Anderson, lúc này là thành viên ban giám đốc bệnh viện nhi Shadwell. Dù có gia đình và là mẹ của 3 con, Garrett Anderson vẫn tiếp tục hành nghề y. Ngoài ra, bà còn lấy bằng bác sĩ tại đại học Paris, qua được các kỳ thi và bảo vệ thành công luận án về “bệnh nhức nửa đầu”. Garrett Anderson và các bác sĩ nữ khác thành lập Viện Y học dành cho phụ nữ London. Là trưởng khoa và giáo sư, Anderson chống đối ý tưởng cho rằng những phụ nữ nào có ý định đi truyền đạo mới đến trường để học một ít kiến thức y khoa. Bà tin rằng y học là một nghề chứ không phải là lòng từ thiện. Hơn thế nữa, bà ta cho rằng lòng nhiệt thành sẵn sàng quên mình của phụ nữ rất dễ bị lợi dụng. Trong thế chiến thứ 1, con gái của Garrett là BS Louisa Garrett Anderson (1873-1943) đã ra tay tổ chức bệnh viện quân đoàn dành cho phụ nữ và là phẫu thuật viên chính của bệnh viện quân đội tại Endell Street.

Một số bác sĩ nữ đã ra sức xây dựng những sự nghiệp độc đáo khi đi vào các lĩnh vực liên quan chặt chẽ với các phong trào cải cách xã hội vốn không được các bác sĩ nam giới quan tâm. Alice Hamilton (1869-1970), một người đi tiên phong trong lĩnh vực vệ sinh công nghiệp tại Mỹ, đã quyết định theo học ngành y vì lẽ bà cho rằng đó là một nghề nghiệp dành cho phụ nữ, nghề này cho phép họ tự nuôi mình trong khi theo đuổi sự nghiệp độc lập và có ích. Khi lấy được bằng bác sĩ vào năm 1893 tại khoa y Đại học Michigan, bà ta là một trong số 13 phụ nữ trong một lớp có 47 sinh viên. Hamilton làm nội trú tại Bệnh viện Tây Bắc dành cho phụ nữ và trẻ em tại Minneapolis và Bệnh viện New England dành cho phụ nữ và trẻ em tại Boston. Chú tâm nhiều vào nghiên cứu hơn là phòng mạch tư, Hamilton học vi sinh và bệnh học tại các trường đại học Leipzig và Munich, viện Pasteur Paris, trường Y John Hopkins.

Trong khi dạy môn bệnh lý học tại Trường Y khoa dành cho phụ nữ của Đại học North Western, Hamilton làm thường trú tại Hull House, một khu định cư do nhà cải cách xã hội người Mỹ là Jane Adams (18601935) thành lập. Khi trường Y khoa dành cho phụ nữ đóng cửa vào năm 1902, Hamilton tham gia vào viện Memorial nghiên cứu bệnh truyền nhiễm (Memorial Institute for Infectious Diseases) mới được thành lập. Những nghiên cứu của Hamilton về bệnh sốt thương hàn tại Chicago đã tạo nên sự chú ý đến vai trò truyền bệnh của ruồi, mối liên hệ giữa bệnh và vệ sinh môi trường và yêu cầu cần phải cải tổ hệ thống y tế dự phòng. Qua các kinh nghiệm của bà tại Hull House, Hamilton nhận thức rằng nhiều công nhân bị tàn phế đến mức không chữa được là do phơi nhiễm với các chất độc hại tại các nhà máy, lò luyện kim và nhà máy thép. Mặc dù Y học công nghiệp đã trở thành một ngành học có bề dày tại châu Âu, tại Mỹ nhiều bệnh nghề nghiệp hầu như bị bỏ qua. Hamilton phát hiện rằng các bác sĩ nam giới dường như coi việc nghiên cứu bệnh nghề nghiệp có phần “nhuốm màu xã hội chủ nghĩa hoặc quá ủy mị kiểu đàn bà dành cho người nghèo”.

Với vai trò giám đốc điều hành của Ủy ban Bệnh nghề nghiệp tại Illinois, Hamilton kết hợp nghiên cứu thực địa các độc chất công nghiệp, chẳng hạn như chì, với nghiên cứu trong labô. Từ kết quả của một khảo sát của bà, tiểu bang Illinois thông qua luật bồi thường cho người lao động trong đó đòi hỏi phải có các biện pháp an toàn tại nhà máy và khám bệnh cho công nhân. Năm 1911, Hamilton là nhà nghiên cứu đặc biệt không nhận lương của Phòng Lao động Mỹ. Khi Hamilton bắt đầu các nghiên cứu về bệnh nghề nghiệp, các bác sĩ và chủ doanh nghiệp cho rằng có thể ngăn ngừa được sự nhiễm độc công nghiệp khi công nhân giữ gìn tay của họ sạch sẽ. Hamilton cố thuyết phục họ rằng “một công nhân làm công việc có dính tới chất chì chỉ ăn ba bữa một ngày và ngay lúc anh ta không rửa tay trong đĩa súp hoặc càphê, nhưng anh ta thở 16 lần một phút và khi trong không khí có chất chì, anh ta sẽ hít chất chì dù rằng có cọ rửa đến móng tay đi nữa”. Khi đã định rõ những nguy hiểm của bụi chì, Hamilton tiếp tục nghiên cứu các nguy cơ từ thạch tín, thủy ngân, các dung môi hữu cơ và nhiều chất độc khác nhất là trong kỹ nghệ cao su và các nhà máy đạn dược. Hamilton viết rằng bà thường đạt được nhiều thành công khi thương thuyết với chủ các nhà máy, bởi vì bà thực tế, kiên trì, và “thẳng thắng nhưng cũng không sòng phẳng quá mức”.

Sau thế chiến thứ 1, người ta quan tâm nhiều hơn đến vệ sinh công nghiệp, nhưng bởi vì lĩnh vực này còn mới và có phần nào còn đáng ngờ, cho nên chưa được ngành y chú ý. Hamilton thừa nhận ngay rằng bà trở thành phó giáo sư môn y học công nghiệp tại trường Y khoa Harvard, bởi vì chỉ có bà là ứng viên duy nhất. Harvard đã ghi rõ ba điều kiện khi bổ nhiệm bà vào vị trí giáo sư nữ giới đầu tiên của trường đại học. Bà không được tham gia vào câu lạc bộ giáo sư của trường Harvard, không được dự đám diễu hành khai giảng niên học, hoặc không được đòi vé xem đá bóng. Năm 1935, Hamilton về hưu tại Harvard với chức danh phó giáo sư về y học công nghiệp. Suốt đời mình, Hamilton luôn là người ủng hộ các luật bảo vệ sức khỏe, luật lao động trẻ em, chủ nghĩa hòa bình, hạn chế sinh đẻ và các cải cách xã hội khác. Bà mất năm 101 tuổi khi bị đột quỵ tại nhà.

Tại Mỹ, có 19 trường y khoa dành cho nữ giới được thành lập từ năm 1850 đến 1895. Những trường còn tồn tại đến cuối thế kỷ là Boston Female Medical College (New England Female Medical College), trường Woman’s Medical College (Kansas City, Missouri), trường Woman’s Medical College of the New York Infirmary for Women and Children, trường Women’s Hospital Medical College of Chicago, trường New York Free Medical College for Women, trường Woman’s Medical College of Baltimore, trường Woman’s Medical College of Pennsylvania, và trường New York Woman’s Medical College và Hospital for Women. Đến năm 1909 chỉ còn có 3 trường cuối cùng còn hoạt động. Các trường khác đóng cửa hoặc sáp nhập với trường có nam và nữ sinh viên. Trường Woman’s Medical College of Pennsylvania lúc đầu tiên chỉ có giảng viên là bác sĩ nam giới đứng ra hỗ trợ việc đào tạo y khoa cho phụ nữ. Đến thập niên 1890, đội ngũ giảng viên của trường Woman’s Medical College gồm có cả nam lẫn nữ. Nhìn chung các giáo sư môn sản khoa và phụ khoa và hiệu trưởng của trường đều là phụ nữ. Sau khi nhận các sinh viên nam lần đầu tiên vào năm 1969, trường đổi tên thành Trường y của tiểu bang Pennsylvania.

Năm 1899, khi Đại học Cornell nhận sinh viên nữ vào khoa y, thì chị em bà Blackwell đóng cửa trường Woman’s Medical College thuộc Bệnh xá bang New York. Nhiều nhà lãnh đạo chiến dịch mở cửa ngành y cho phụ nữ thấy rằng các trường hỗn hợp (có nam và nữ sinh viên) là bằng chứng cho thấy không còn cần đến các trường dành riêng cho phụ nữ nữa. Sau khi tranh đấu để được vào các trường y tại Mỹ, thập niên 1890 dường như là một “kỷ nguyên vàng” đối với các bác sĩ nữ. Chị em bà Blackwell tin rằng tất cả các trường y giờ đây đã mở cửa cho nữ giới. Tiếc thay, chẳng bao lâu sau đó cánh cửa lại đóng chặt một lần nữa. Trong 50 năm đầu của thế kỷ 20, con số các “chỗ” dành cho sinh viên y nữ còn rất nhỏ đến mức họ khó có thể tin rằng trong số các sinh viên y khoa có phụ nữ.

Phụ nữ dễ tiếp cận với một số trường không chính quy vào thế kỷ 19 hơn là các trường y chính thống, nhưng phần lớn các trường này biến mất vào đầu thế kỷ 20. Một số ít tồn tại nhưng phải từ bỏ triết lý của các nhà sáng lập hoặc sáp nhập vào các trường chính thống. Lấy ví dụ, Trường Y khoa của các nhà truyền giáo “College of Medical Evangelists”, do Ellen G. White sáng lập nhằm đẩy mạnh thông điệp y tế của hệ phái Tin lành Adventist và để bảo vệ tính e lệ của phụ nữ bằng cách tuyển các thầy giáo và sinh viên nữ. 4 trong số 10 sinh viên đầu tiên là nữ. Trường The Adventist College of Medical Evangelists tại Loma Linda, California, lúc đầu là một trường dạy thủy liệu pháp (hydropathic), mặc dù White mong rằng trường sẽ đạt được quy chế chính thức. Khi ảnh hưởng của White suy giảm, lãnh đạo nhà trường muốn thay đổi sự cân bằng giữa học thuyết tôn giáo và khoa học y học. Mục đích của White nhằm đào tạo phụ nữ để chăm sóc bệnh nhân phụ nữ bị bãi bỏ nhanh chóng, cùng với “học thuyết thùy mị” quy định vai trò của phụ nữ là thầy giáo và là sinh viên. Đến thập niên 1920, trường Adventist đã tự chuyển đổi thành một trường chính thống và từ bỏ cam kết việc đào tạo bác sĩ nữ.

Một thế kỷ sau khi Blackwell lạc quan tuyên bố rằng cuộc chiến dành quyền được học y khoa của phụ nữ chỉ có thắng lợi, các phiên điều trần của Quốc hội Mỹ đưa ra bằng chứng quá đầy đủ của vấn đề mà phụ nữ đã biết từ lâu: các trường y khoa của Mỹ đã phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Tuy nhiên, một số nhà quản lý đại học cho rằng hạn mức 5% “chỗ dành cho nữ” thực ra quá nhiều. Năm 1970, Liên đoàn Hoạt động vì Bình đẳng cho Nữ giới (WEAL) đệ đơn kiện tất cả các trường y khoa tại Mỹ, cho rằng có sự lạm dụng trong việc nhập học và vi phạm hệ thống hạn mức. Từ năm 1905 đến 1955, khoảng 4-5% các sinh viên y khoa là nữ. Năm 1969, phụ nữ chiếm đến 9% số sinh viên y. Năm 1971, phản ứng với vụ kiện do WEAL đứng đơn, Cơ quan Y tế Công cộng Mỹ tuyên bố rằng các trường y nào đã nhận kinh phí liên bang thì không được phân biệt đối xử với phụ nữ khi nhập học hoặc về lương bổng. Đến năm 1975, con số sinh viên y là nữ đã tăng gấp ba lần.