KHÍ GÂY CƯỜI, ETHER VÀ GÂY MÊ / GÂY TÊ NGOẠI KHOA
Mặc dù trong tự nhiên có quá nhiều chất gây ngủ, nhưng những sản phẩm đáng chú ý trong cuộc cách mạng hóa học của thế kỷ 18 cuối cùng đã làm quên lãng các chất làm giảm đau xa xưa. Joseph Priestly (1733-1804), một nhà thần học, giáo dục, nhà văn và lý thuyết gia chính trị người Anh, nổi tiếng là người đã phát hiện ra oxygen, nhưng như Humphry Davy (17781829) khi nói về nhà hóa học không mệt mỏi này, “chưa có một người nào đã từng khám phá ra nhiều chất mới và lạ lùng như vậy”. Lạ lùng nhất là chất khí nitrous oxide, hoặc khí gây cười. Do có thói quen thử lấy tác dụng của các thứ khí mới lên chính cơ thể của mình, Priestley có thể đã phát hiện được các tính chất gây mê/gây tê của khí gây cười nếu việc nghiên cứu của ông không bị gián đoạn vì những vụ xung đột tôn giáo và chính trị buộc ông phải di cư sang Mỹ năm 1794.
Những phát hiện tài tình của nhà hóa học đầu tiên về chất khí đã cung cấp các cơ hội cho bọn lang băm và lừa bịp. Các nhà thực nghiệm có lương tâm không thể cạnh tranh với bọn lang băm hứa hẹn sẽ chữa khỏi một cách thần kỳ những bệnh như hen suyễn, chảy nước mũi, ho lao và ung thư khi cho bệnh nhân thở khí oxygen, hidrogen và những thứ “khí giả tạo” khác. Tuy nhiên, một số thầy thuốc tìm cách hợp pháp hóa đưa vào sử dụng trong y học những thứ khí mới. Bị ngành hóa học chất khí lôi cuốn, Thomas Beddoes (1760-1808) thuyết phục bạn của mình là Thomas Wedgwood (1771-1805) và James Watt (1736-1819) thành lập Viện khí (Pneumatic Institute), là một bệnh viện cho bệnh nhân hít các thứ khí giả tạo để điều trị các bệnh phổi. Nhiều nhà khoa học, trong đó có Humphry Davy, chú ý đến công trình này. Khi bị đau răng năm 1795, Davy bắt đầu hít nitrous oxide. Ngoài cảm giác lâng lâng, thư giãn và phấn khởi, Davy thấy rằng cái đau do chiếc răng khôn hầu như biến mất. Khi sự hồ hởi không còn, thì cảm giác đau quay trở lại, thậm chí còn dữ dội hơn. Tuy nhiên, Davy cho rằng nitrous oxide có thể hữu dụng trong các phẫu thuật. Đồng nghiệp của Davy là Michael Faraday (1791-1867), phát hiện ra tác dụng gây ngủ của hơi ether khi thí nghiệm các chất khí. Khi so sánh hiệu quả của ether và nitrous oxide, Faraday thấy rằng cả hai hóa chất đều cho các đáp ứng tương tự. Phần lớn những người sử dụng đều thấy rằng hít hơi ether hoặc nitrous oxide đều cho cảm giác rất dễ chịu, nhưng đôi khi, có người hít những thứ khí này lại trải qua các tác dụng kinh hãi và lạ lùng chẳng hạn như mất cảm giác đau, lừ đừ kéo dài, bị ảo giác và ngất. Các nhà hóa học của thế kỷ 18 khuyên sử dụng ether cho các trường hợp chết giả, nhức đầu, bệnh gút, bệnh thấp, suyễn, điếc, ho gà và nhiều rối loạn khác.
Thậm chí các cố gắng dũng cảm của Henry Hill Hickman (1801-1830) nhằm khẳng định tính an toàn và hiệu quả của kỹ thuật gây mê/gây tê bằng cách xông hơi cũng không tạo được sự quan tâm từ phía ngành y. Không giống như nhiều nhà tiên phong khác trong kỹ thuật gây mê/gây tê, Hickman không chỉ đơn thuần hít các chất khí. Ông ta làm nhiều test cho hít khí trên chó và chuột nhắt khi nhốt chúng vào các bình thủy tinh đậy kín cho tới khi chúng rơi vào trạng thái “ngưng hoạt động”. Trong trạng thái này, những con vật trên không còn cảm giác đau, nhưng bị nguy cơ truỵ tuần hoàn trong khi làm phẫu thuật. Không thành công trong cố gắng khơi dậy sự chú ý công trình của mình trong gây mê/gây tê phẫu thuật, Hickman không chịu nổi ý nghĩ hoàn toàn thất bại và tự sát.
Câu chuyện phát triển kỹ thuật gây mê/gây tê ngoại khoa trong thập niên 1840 liên quan đến một bảng phân vai miễn cưỡng phù hợp cho một trò vui nhộn hơn là một bi kịch lịch sử. Hơn thế nữa, những biến cố chính đã xảy ra không phải tại các trường đại học y và bệnh viện danh giá ở châu Âu, mà lại ở ngoài rìa của thế giới y học và khoa học. Nhân vật chính là các giáo sư nay đây mai đó, các nhà hóa học trình diễn trò rong, và các nha sĩ mà thời đó thường được coi như là lang băm hơn là bác sĩ. Những cuộc tranh chấp dữ dội để giành quyền ưu tiên đã làm hao tổn và thậm chí đã hủy hoại cuộc đời của nhiều người tham gia công cuộc phát hiện ra kỹ thuật gây mê/gây tê trong phẫu thuật. Các nhân vật tham gia gồm có Horace Wells (1815-1848) và William Thomas Green Morton (1819-1868), hai nha sĩ đã cùng nhau làm ăn phát đạt trước khi Wells nhận ra các tính chất gây tê của nitrous oxide và Morton trình diễn giá trị của khí ether. Charles Thomas Jackson (1805-1880), nhà hóa học và cũng là thầy thuốc, sau này cho rằng chính ông mới là người tìm ra chất ether gây mê chứ không phải Morton. Trong khi cuộc chiến bản quyền giữa Morton và Jackson xảy ra ồn ào tại New England, thì một thầy thuốc tại Georgia là Crawford Williamson Long (1815-1878) tuyên bố rằng ông ta đã phát hiện ra cách gây mê bằng ether trước cả Morton.
Trong thế kỷ 19, các màn trình diễn y học và các bài giảng triết học của các giáo sư tự phong đã mang lại sự khai trí và giải trí cho cư dân các đô thị khắp nước Mỹ. “Các giáo sư môn hóa học” đã làm sống động các bài giảng về các tính chất đáng ngạc nhiên của những thứ khí mới được phát hiện khi phun lửa bằng khí hydrogen và khuyến khích người tình nguyện cùng vui đùa với họ khi hít khí nitrous oxide. Sinh viên các ngành nha khoa, y khoa và hóa học không cần phải chờ đợi các giáo sư lưu động nữa, mà họ có thể giải trí bằng “các bữa tiệc cười” và “các trò vui nhộn với khí ether” khi nào họ thích. Thật vậy, “tác dụng giống như say rượu champagne” của những chất này rất phổ biến đến nỗi khi Jackson cố đòi quyền ưu tiên, thì những người bảo vệ Morton cho biết rằng khó mà tìm được một trường học hoặc một cộng đồng nào ở Mỹ mà học sinh nam nữ chưa hít những thứ thuốc này.
Các nha sĩ có lẽ có nhiều động cơ để phát hiện các chất gây tê mới và hiệu quả nhiều hơn bất cứ thầy thuốc nào khác. Nếu cái đau xé ruột của cái răng thối không vượt quá cái đau do nhổ răng sắp diễn ra, thì nạn nhân của chứng đau răng chắc hẳn sẽ không tìm đến nha sĩ. Từ trước đến giờ, các nha sĩ luôn cho là họ có những thứ thuốc nhổ răng sâu nhưng không làm đau. Có đủ các thứ bôi vào răng từ mật ong và thuốc phiện đến táo chua, bột con cánh kiến và thậm chí nọc rắn rung chuông ngâm trong dấm. Hôn con lừa, cắn đứt đầu một con chuột, nhét một con rận sống vào răng sâu, và trét bột phân quạ, đều nằm trong những cách điều trị đặc biệt dành cho chứng đau răng.
Tại Pháp, nha khoa phát triển thành một ngành chuyên khoa của phẫu thuật. Các sách giáo khoa do phẫu thuật viên viết và dành cho phẫu thuật viên đều có những phần mô tả về răng, bệnh của răng và lợi, cách nhổ răng, cách làm răng giả, các vật liệu trám răng và các phương pháp khác điều trị những bệnh của răng và lợi. Mặc dù địa vị của người chỉ nhổ răng đứng thấp hơn phẫu thuật viên-thợ cạo, nhưng ngay cả các phẫu thuật viên bậc thầy cũng thực hành các thủ thuật về răng. Các tài liệu dành cho ngành nha đã được xuất bản từ thế kỷ 16, nhưng quyển ‘Nhà phẫu thuật răng’ (Le chirurgien dentiste (1728), một chuyên luận gồm hai bộ của nhà phẫu thuật - nha sĩ Pierre Fauchard (1678-1761), được coi là một điểm nhấn trong lịch sử nha khoa. Các phẫu thuật viên chăm sóc các vấn đề về răng cho giới quý tộc Pháp vào thế kỷ 18 đã giành được một số uy tín đáng kể.
Chapin Aaron Harris (1806-1860), người sáng lập ra ngành nha của Mỹ, bắt đầu học y khoa, phẫu thuật và nha khoa khi học việc từ anh trai. Năm 1833, Harris đậu kỳ thi của Hội đồng y khoa bang Maryland và được trao bằng bác sĩ. Mặc dù Harris khởi nghiệp là bác sĩ, nhưng ông quyết định đi theo chuyên ngành khoa nha và bỏ nhiều năm để làm thầy thuốc lưu động trước khi nhận được giấy phép hành nghề nha khoa của Khoa Y và Phẫu thuật của đại học Maryand và định cư tại Baltimore. Harris đã xuất bản nhiều bài báo và sách về nha khoa trong đó có ‘Nghệ thuật nha khoa: Một chuyên luận về Phẫu thuật Nha khoa, các nguyên tắc và thực hành Phẫu thuật Nha khoa và Tự điển Khoa học nha khoa: Tài liệu tham khảo, Tiểu sử và Thuật ngữ y học”. Harris là đồng sáng lập trường nha đầu tiên trên thế giới, trường Phẫu thuật Nha Baltimore (1840), và thành lập ra hội nha khoa toàn quốc đầu tiên, Hội Phẫu thuật viên Nha khoa Mỹ (American Society of Dental Surgeons).
Khi các nha sĩ Mỹ vào thế kỷ 19 đem ứng dụng các dụng cụ nha khoa cải tiến, thì những mối sợ hãi từ phía bệnh nhân trong tương lai và sự khinh miệt từ ngành y đã làm hạn chế sự tiến bộ nghề nghiệp và kinh tế của họ. Những trở ngại này đã trở nên rất khó chịu cho những người như Horace Wells và đối tác kinh doanh của mình là William Morton. Wells và Morton đã phát triển những bộ răng giả cải tiến và chất hàn răng, nhưng các khách hàng tiềm năng lại không muốn chấp nhận cách giải quyết “trả lại tiền nếu không vừa ý” bởi vì cần phải nhổ tất cả những răng và chân răng còn lại. Vì thế, Wells và Morton thiết tha tìm bất cứ thứ thuốc nào có khả năng làm cho nhổ răng không đau.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1844, Wells tham dự buổi giảng bài của BS Gardner Quincy Colton, trong đó có phần trình bày những tính chất đáng chú ý của khí nitrous oxide. Wells rất thích thú khi thấy rằng, dưới tác dụng của khí gây cười, một người tình nguyện đã phởn chí đến mức té xuống khán đài và bị chấn thương ở chân. Wells nhờ Colton mang chất khí gây cười này đến văn phòng của mình để làm một thí nghiệm.
Gây mê/gây tê phẫu thuật tại Bệnh viện đa khoa Massachusetts, 1846.
Sáng hôm sau, Colton cho Wells sử dụng chất khí này, và để cho John M. Riggs, một sinh viên nha, nhổ một cái răng. Khi Wells tỉnh lại, ông ta hồ hởi nhận thấy rằng mình chẳng hề có cảm giác đau trong khi bị nhổ răng. Trong vòng một tháng, Wells đã dùng khí nitrous oxide cho hơn một chục người.
Theo đề nghị của Morton, BS John Collins Warren (1778-1856), giáo sư môn Giải phẫu học tại trường Y khoa Harvard, cho phép Wells trình bày trước một lớp học phẫu thuật. Tuy nhiên, thái độ hoài nghi đối với ngành nha không đau của Warren khá rõ ràng như trong lời giới thiệu. Warren cảnh báo các sinh viên của mình “Quý ông đây cho rằng mình có được một thứ gì đó có thể làm không còn đau nữa trong các cuộc giải phẫu”. Khi một sinh viên khoa y “tình nguyện” đứng ra để được nhổ răng lại kêu đau khi thủ thuật đang tiến hành, thì Wells và Morton bị đám cử tọa thù nghịch nhạo báng và làm mất mặt. Điều khôi hài là chính bệnh nhân này về sau lại thừa nhận rằng mình không hề cảm thấy đau.
Năm 1848, khi đánh giá cuộc tranh luận về gây tê, Henry J. Bigelow (1818-1890) cho rằng Wells chưa làm rõ các tiêu chuẩn gây tê ngoại khoa. Các phẫu thuật viên cần có một chất gây mê/gây tê bắt buộc phải có tác dụng, hoàn toàn và an toàn. Không lường trước được những hành vi bộc phát khi hít nitrous oxide và sự ám thị đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả của khí này. Những ai hít khí này để tìm sự tiêu khiển thì hầu như luôn cảm thấy hồ hởi; còn những người được chuẩn bị kỹ để làm phẫu thuật thì lại ngật ngừ và mất tri giác. Trong trận chiến đòi quyền ưu tiên sau khi kỹ thuật gây mê/gây tê bằng xông hơi được chấp nhận, Morton than phiền rằng chính ông, người liên can đến việc phát hiện ra kỹ thuật này, mới là người “bị mất tiền”. Tuy nhiên, đồng nghiệp của ông là Horace Wells, đã phải trả giá cao hơn cho vai trò của mình trong cuộc tranh cãi; ông ta mất hết sức khỏe và cuộc đời. Không được đồng nghiệp thừa nhận, Wells suốt ngày hít ether và cloroform để tránh bị trầm cảm. Gần 4 năm sau khi bị làm mất mặt tại Bệnh viện đa khoa Massachusetts, Wells bị bắt vì bị cho rằng đã gạ gẫm một phụ nữ trẻ và đã ném một thứ gì đó, có lẽ là acid, ether, chloroform vào người cô ta. Hai ngày sau, người ta phát hiện Wells chết trong phòng giam, bên cạnh có một lọ nhỏ đựng chloroform đã cạn, một con dao nhỏ, một dao cạo và một thư tuyệt mệnh. Vì vậy, Wells không bao giờ biết được rằng nitrous oxide khi trộn với oxygen sẽ trở thành một chất khí gây tê quan trọng trong nha khoa.
Chỉ một thời gian ngắn sau buổi trình diễn u ám của Wells đã khẳng định cho các bậc sư phụ tại Boston rằng chỉ là nha sĩ không thôi thì không thể dạy cho họ biết thế nào là phẫu thuật không đau, Morton đã thuyết phục hàng ngũ bác sĩ ưu tú là kỹ thuật gây mê/gây tê bằng hít khí không phải là trò “bịp bợm”. Giống như khí nitrous oxide, ether đã được sử dụng cho các mục đích giải trí. Hơn thế nữa, được coi là một chất hóa học kỳ dị trong một thời gian dài, nhiều nhà nghiên cứu đã lắm lúc gần như đã phát hiện được các tính chất gây mê của chất này. Nhiều nhà giả kim thời Phục hưng được coi là người đầu tiên có công tổng hợp ether, nhưng bản chất của các chế phẩm giả kim này vẫn còn mù mờ. Những chất khởi đầu (acid sulfuric và cồn) chỗ nào cũng có, nhưng cần phải chỉnh nhiệt độ cẩn thận mới tạo ra được nhiều ether so với các phản ứng khác tạo ra sản phẩm. Chắc chắn là những chế phẩm ether đầu tiên đều không tinh khiết, và, như Morton phát hiện, độ tinh khiết là điều cần phải có khi dùng ether để làm chất gây mê. Mặc dù ether đã được dùng để làm thuốc an thần trong điều trị bệnh lao, hen suyễn, và ho gà, nhưng khả năng gây mê thì ít khi được thăm dò. Ngoại suy từ kinh nghiệm dễ chịu khi hít ether để tìm cảm giác hưng phấn đến các phẫu thuật răng và giải phẫu không phải là một bước đơn giản, dễ thấy trước khi người thầy thuốc quyết tâm đi tìm những thứ thuốc gây mê bằng xông hơi. Theo truyền thống gia đình, Morton tốt nghiệp trường Phẫu thuật Nha khoa Baltimore vào năm 1842. Tuy nhiên, không có chứng cứ nào cho biết Morton đã từng ghi danh vào một trường nha. Mặc dù vào thời đó, nha khoa hầu như chưa được công nhận là một ngành nghề, các thầy thuốc đã cố tìm cách nâng cao việc đào tạo và vị trí của nha sĩ bằng cách ra các tạp chí, thành lập các hội nghề nghiệp, và các trường đào tạo như trường Phẫu thuật Nha khoa Baltimore (sau này là Trường Nha Baltimore, Đại học Maryland). Dù việc học tập và đào tạo của họ có thế nào đi nữa, cả Wells lẫn Morton đều là các nha sĩ rất khéo tay và nhiều sáng kiến, chuyên sâu vào “ngành nha cơ học” hoặc “khuôn răng”. Do nỗi đau khổ của người bệnh, và họ thà chết còn hơn phải đến nha sĩ, Morton lúc nào cũng muốn tìm cách làm giảm cái đau trong các phẫu thuật nha khoa. Giống như các phẫu thuật viên, các nha sĩ cũng chỉ có thể cung cấp cho bệnh nhân những thứ thuốc gây ngủ không đáng tin cậy. Hơn thế nữa, chứng buồn nôn do cồn và cồn thuốc phiện gây ra sẽ rất nguy hiểm cho các thủ thuật nha khoa bởi vì khi ói sẽ dễ làm cho bệnh nhân ngạt thở và chết.
Mặc dù việc hùn hạp làm ăn của Wells - Morton phát đạt, Morton xin học Jackson để có thể chuyển từ ngành nha sang ngành y. Khi bàn luận về chứng đau răng, Jackson khuyên nên dùng ether để nhỏ vào răng cho bớt đau. Sau này Jackson cho rằng mình đã biết đến tác dụng gây tê của ether từ những năm đầu thập niên 1840, nhưng khi Morton thực hiện nhổ răng cho bà vợ và bà cô của Jackson, thì Jackson chỉ khuyến khích họ phải tỏ ra can đảm. Vì vậy, trong trận chiến dành quyền ưu tiên ai là người phát hiện ra chất gây mê/gây tê, Morton đã cho rằng người thầy cũ của mình chưa bao giờ nghĩ xa hơn việc áp ether lỏng “giống như cách đem cồn thuốc phiện và những chất gây nghiện khác áp vào chiếc răng đau”. Do lúc nào cũng chú ý đến những chất làm giảm đau, cho nên Morton tìm tài liệu tham khảo trong y văn và phát hiện ra rằng ether đã từng được sử dụng làm chất chống co thắt, chống đau và thuốc gây ngủ. Nhận thấy rằng khi áp ether vào chiếc răng sâu, phần lợi phía dưới sẽ bị tê đi, Morton tự hỏi liệu ether có làm cho toàn thân tê mất cảm giác hay không. Hết sức cẩn thận để giữ bí mật, Morton kiểm tra tác dụng khi xông hơi ether trên nhiều con vật. Cảm thấy bối rối vì các kết quả không ổn định. Morton hỏi ý kiến Jackson và biết rằng thứ ether mà các dược sĩ bán, ít khi đủ thuần khiết để dùng trong chuyên môn.
Vào ngày 30 tháng 9 năm 1846, Morton tẩm ướt chiếc khăn tay, canh đồng hồ và sau đó hít mạnh. Ông ta hồi tỉnh lại 8 phút sau đó, không thấy tác dụng gì lạ ngoài trạng thái hưng phấn nhẹ, tiếp đến là nhức đầu. Buổi chiều hôm đó, Morton kiểm tra tác dụng của ether khi nhổ chiếc răng hai chân bám rất chắc của một bệnh nhân. Sau thủ thuật không đau này, bệnh nhân viết cho Morton một tờ chứng thực. Cho rằng phát minh của mình có giá trị, Morton đến gặp BS Warren lần nữa để tìm cơ hội trình bày phương pháp gây mê/gây tê của mình. Nghĩ rằng hít ether qua một dụng cụ đặc biệt sẽ cho các kết quả đáng tin cậy hơn là phương pháp “nhỏ vào một miếng vải rồi hít” (rag-and-gag) đã sử dụng trước đây, Morton tìm sự giúp đỡ của một người chuyên làm dụng cụ nghiên cứu khoa học. Vào ngày 16 tháng 10, 1846, ngày trình diễn tại bệnh viện, Morton cảm thấy cực kỳ lo lắng, và chiếc máy xông hơi cũng chưa làm xong. Bệnh nhân đã được cột chặt vào bàn sẵn sàng cho cuộc thử thách thì Morton chạy ào vào mang theo chiếc máy xông hơi mới và sử dụng “thứ khí Letheon” bí mật. Quá kinh ngạc khi thấy bệnh nhân hoàn toàn nằm im trong khi thầy thuốc lấy ra một khối u lớn ở trong miệng và dưới lưỡi, Warren lịch sự tuyên bố: “Thưa quý ngài, đây không phải là trò bịp bợm”. Những người có mặt sau này nhớ lại buổi trình diễn là “một cảnh tượng tuyệt vời nhất chưa bao giờ thấy trong phòng mổ”. Cuộc giải phẫu do Warren thực hiện tại bệnh viện đa khoa Massachusetts bằng gây mê ether được coi như là khúc mở màn cho một thời đại mới dành cho ngành phẫu thuật đã có từ xa xưa. Buổi trình diễn này cũng đánh dấu mở màn cho cuộc chiến bản quyền tai ác diễn ra dưới mọi hình thức nào là đơn thỉnh nguyện, bằng sáng chế, sách mỏng tuyên truyền, bản chứng thực và các bài báo uyên bác trong các tạp chí chuyên môn và các bộ bách khoa toàn thư.
Theo Morton, dấu hiệu cảnh báo đầu tiên cho biết rắc rối sắp tới là chuyến viếng thăm của Jackson vào ngày 23 tháng 10 năm 1846. Jackson nghe rằng Morton có ý xin bằng sáng chế dành cho kỹ thuật gây mê/gây tê phẫu thuật và chắc rằng sẽ kiếm được khối tiền. Các nha sĩ thường đăng ký công trình sáng chế, nhưng các thầy thuốc được cho là tuân theo một thứ quy tắc đạo đức cao hơn. Tuy nhiên, Jackson đòi được trả thù lao khi được tư vấn nghề nghiệp, tên ông ta phải được ghi trên bằng sáng chế, và 10% lợi tức ròng. Ngay sau khi trao những đòi hỏi của mình cho Morton, Jackson gởi một báo cáo có niêm phong cho Hàn lâm viện các khoa học của Pháp trong đó ông ta cho rằng mình đã phát hiện ra cách gây mê/gây tê bằng ether và đã chỉ dẫn một nha sĩ nào đó sử dụng ether khi nhổ răng. Báo cáo có niêm phong của Jackson là một thủ đoạn bảo đảm; nếu ether được coi là nguy hiểm, thì báo cáo của ông ta có thể bị hủy đi, nhưng nếu chất khí này thành công, thì ông ta sẽ sử dụng nó để tuyên bố khẳng định bản quyền. Ngay khi sự thành công của kỹ thuật gây mê/gây tê bằng ether dường như chắc chắn, Jackson cho mình là người duy nhất đã khám phá ra chất này và tố cáo Morton là “người phụ việc” làm theo hướng dẫn của ông ta. Khi Jackson phát biểu trước Hội Y học Massachusetts, phần lớn cử tọa đều chấp nhận luận điệu của người thầy thuốc nổi tiếng, một nhà hóa học và nhà địa chất học so với kẻ thù của ông ta, một “tay nha sĩ lang băm”. Không phải ai cũng tin rằng Jackson là người có công khám phá. Thật vậy, có người hỏi Jackson có dám nhận lời chê trách nếu bệnh nhân của Morton chết. Đối thủ của Jackson xem đây là một ví dụ của câu châm ngôn xa xưa: thành công thì ai cũng đòi hưởng, nhưng thất bại thì không ai chịu nhận.
Lấy lý do rằng quy tắc đạo đức của Hội Y học Massachusetts không cho phép bác sĩ sử dụng các các điều trị bí mật, cho nên khi Morton đề nghị thực hiện kỹ thuật gây mê/gây tê cho một ca phẫu thuật khác, các phẫu thuật viên của bệnh viện từ chối không tuyển dụng ông cho tới khi nào ông ta nói rõ lai lịch của Letheon. Họ cũng trấn an Morton rằng bệnh nhân sẽ chết nếu không cắt chân cho bà ta, và bà ta cũng có thể chết vì choáng nếu mổ không được gây mê. Thật không dễ dàng gì cho Morton khi hình dung ra phần tốt đẹp của nhân loại trong khi giấc mộng danh vọng và tiền tài của ông bốc hơi còn nhanh hơn chính ether nữa. Các cơ hội được hưởng lợi từ phát minh của mình luôn vuột khỏi tầm tay. Năm 1868, chẳng bao lâu sau khi hỏi ý kiến luật sư về những vấn đề liên quan đến mối tranh chấp kéo dài 20 năm với Jackson, Morton chết vì xuất huyết não. Lời đề tặng khắc trên mộ của Morton, do BS Jacob Bigelow soạn, đã vinh danh ông là người khám phá ra kỹ thuật gây mê/gây tê xông hơi. Jackson chết sau Morton 12 năm, nhưng ông này cũng không hưởng được tuổi già bình yên. Theo một câu chuyện có lẽ quá hay đến mức khó tin, là sau khi uống khá nhiều rượu, Jackson đi lang thang vào nghĩa địa Mount Auburn, và sau đó phát điên khi đọc những dòng chữ khắc trên mộ Morton. Bị coi là quá điên, Jackson bị đưa vào nhà thương điên để sống nốt cuộc đời khốn khổ.
Trong lúc Wells, Morton và Jackson mãi tranh giành về việc ai phát hiện ra kỹ thuật gây mê/gây tê xông hơi, thì Crawford Long từ vùng Georgia quê mùa ít ai biết đến đã xuất hiện với các bằng chứng chứng minh bản quyền của mình. Giống như Wells, Long tình cờ chú ý đến tiềm năng y học của một thứ thuốc được sử dụng làm chất giải trí. Khi một nhà hóa học lang thang khuấy động dân địa phương chú ý đến khí gây cười, Long có ý nghĩ rằng ether có thể cũng có tác dụng gây hưng phấn. Theo Long, thì hít khí ether đã trở thành một hình thức giải trí trong các buổi tụ tập đông người tại nhiều địa phương. Sau khi hít khí ether vui nhộn, đôi khi người tham gia thấy các vết bầm và những chấn thương khác xảy ra “khi thuốc còn tác dụng”. Long kết luận rằng có thể dùng ether để gây mất cảm giác đau trong khi mổ, nhưng rõ ràng là ông ta có nhiều cơ hội để dàn dựng những buổi vui nhộn hít ether hơn là các phiên phẫu thuật. Vào tháng 3 năm 1842, Long thuyết phục James M. Venable chịu cho mổ một khối u ở cổ. Biết rằng Venable sợ dao kéo, nhưng lại thích ether, Long đề nghị ông này nên hít ether trước khi được mổ. Mãi đến năm 1849, Long mới công bố một bài tường thuật về phát hiện của mình trên tờ báo Southern Medical and Surgical Jour nal. Về mặt kỹ thuật, Long đã khẳng định được tác quyền, nhưng như William Osier đã nói: “Trong khoa học sự vẻ vang dành cho người thuyết phục được thế giới, không phải cho người đầu tiên đưa ra ý tưởng.”
Mặc dù có những lời cảnh báo từ cơ quan Philadelphia Medical Examiner là các thầy thuốc tại Boston chẳng bao lâu nữa sẽ làm việc với bọn lang băm, kỹ thuật gây mê/gây tê bằng ether nhanh chóng lan rộng từ Massachusetts đến Paris và London. Mặc dù gây mê/gây tê chắc chắn là một yếu tố quan trọng trong cuộc cách mạng phẫu thuật, nhưng cũng còn có sự tham gia của nhiều yếu tố phức tạp và tinh vi khác nữa. Thật vậy, căn cứ trên việc sử dụng dao mổ ngày càng tăng song song với sự suy tàn của học thuyết thể dịch và sự phát triển mạnh của môn giải phẫu bệnh học trong giai đoạn từ 1700 đến thập niên 1830, kỹ thuật gây mê/ gây tê được chấp nhận nhanh chóng có thể là do vai trò phẫu thuật càng ngày càng lớn thay vì điều ngược lại. Rõ ràng là các tác nhân gây mê/gây tê có khả năng đưa vào sử dụng đã có từ trước thập niên 1840. Dù vậy, khi những tiến bộ trong kỹ thuật gây mê/gây tê ngoại khoa phát triển nhanh chóng, thì các tai biến do sử dụng và tử vong cũng là điều không thể tránh khỏi. Gây mê/gây tê đã chuyển biến ngành phẫu thuật rất nhiều đến mức Henry J. Bigelow phải thúc giục cải tổ chương trình đào tạo của trường Y Harvard để giáo dục cho các sinh viên y khoa nên có lòng nhân hậu và nhạy cảm với cái đau của bệnh nhân. Trong vòng hai năm sau lần trình diễn công khai đầu tiên của Morton về kỹ thuật gây mê/gây tê xông hơi, ether, nitrous oxide, chloroform và các chất gây mê/gây tê khác đã được sử dụng rộng rãi trong nha khoa, sản khoa và phẫu thuật. Các thầy thuốc cũng kê đơn những thứ thuốc gây mê/gây tê mạnh này để điều trị các chứng co giật, hen suyễn, ho gà, đau bụng kinh, đau do co thắt âm đạo, đau rễ thần kinh, mất ngủ và loạn thần.
Phấn khởi vì sử dụng thành công chất ether, James Young Simpson (1811-1879), giáo sư môn hộ sinh tại Đại học Edinburgh và là một trong những nhà phẫu thuật và sản khoa hàng đầu của Scotland, bắt đầu tìm kiếm một chất gây mê/gây tê không có những bất lợi của ether. Lấy bản thân của mình và bạn bè làm vật thí nghiệm, Simpson bắt đầu tìm kiếm một cách có hệ thống nhưng nguy hiểm một chất gây mê/gây tê bốc hơi có mùi thơm hơn, tác dụng nhanh hơn ether. Sau khi hỏi ý kiến các nhà hóa học và lần lượt ngửi acetone, benzoin và nhiều dung môi hữu cơ khác, Simpson chọn chloroform. Thứ chất lỏng đặc không màu này làm cho bệnh nhân hào hứng cũng như mất ý thức. Trong vòng một tuần, các bệnh nhân của Simpson tận hưởng những lợi ích của kỹ thuật gây mê/ gây tê với Chloroform. Chloroform dễ sử dụng hơn ether, nhưng dường như nguy hiểm hơn. Thật vậy, may là người ta đã xây dựng nguyên tắc gây mê/gây tê phẫu thuật với ether, nếu không tỷ lệ tử vong tương đối cao của chloroform có thể kìm hãm sự phát triển nhánh này của nghệ thuật chữa bệnh. Khi nhấn mạnh đến những mặt xấu khi sử dụng ether, Simpson ghi nhận rằng chất khí này kích thích đường hô hấp và dễ cháy, cho nên sẽ rất nguy hiểm cho ai mổ dưới ánh đèn cầy. Năm 1868, các nhà hóa học tìm ra chloral hydrate, chất này được sử dụng để tổng hợp chloroform, và cũng là một chất gây ngủ. Tuy nhiên, thay vì phóng thích ra chloroform, chloral hydrate lại tạo thành chất trichloroethanol trong gan. Các nhà hóa học đã tổng hợp nhiều chất tương tự như chloral hydrate nhưng hữu dụng hơn, trong các thập niên 1870 và 1880.
Tính an toàn của kỹ thuật gây mê/gây tê không phải là điểm tranh cãi duy nhất, qua sự công kích ác liệt về việc sử dụng thuốc gây mê/gây tê trong sản khoa. Giới tu sĩ, bác sĩ và một loạt các nhà đạo đức tài tử đều cho rằng sự đau đớn là do Chúa ban, và vì thế nó có vai trò thiêng liêng trong cuộc sống con người, nhất là cuộc sống của phụ nữ. Nữ hộ sinh bị tội chết vì tội báng bổ, đầy tội lỗi khi muốn làm ngược với tự nhiên, muốn làm giảm cái đau của phụ nữ khi sinh con. Giới tăng lữ tố cáo Simpson và buộc phụ nữ phải kiên nhẫn và dũng cảm chịu đựng cái đau khi đẻ. Há Thánh kinh chẳng nói rằng Eva bị kết án phải chịu đựng đau khổ khi sinh con sao? Các bác sĩ sản khoa cảnh báo phụ nữ rằng các cơn đau đẻ cũng giống như đau chuyển dạ. Vì thế nếu không đau thì sẽ không có cơn co và sẽ không tống thai ra được. Đau là bản tính cố hữu trong sinh lý phụ nữ và đau đẻ càng làm tăng tính chất dịu dàng, nữ tính và các xúc cảm làm mẹ.
Bực mình với các cuộc tranh luận, Simpson đưa ra các luận cứ thần học cũng như khoa học để chống lại các đối thủ. Lấy Thánh kinh để biện hộ cho công việc của mình, Simpson khẳng định rằng lời nguyền rủa trong Sáng thế ký đã bị vô hiệu bởi đoạn hứa hẹn này trong sách Đệ nhị luật: “Chúa sẽ ban phúc lành cho bào thai trong bụng mẹ và cho đất đai.” Ngoài ra, từ được dịch là “sorrow” trong trường hợp Eva bị phát hiện chính là từ “labor”, vốn dùng trong nông nghiệp và sinh con. Hơn thế nữa, Chúa đã đưa ra nguyên tắc gây mê/gây tê khi Người cho Adam ngủ sâu trước khi lấy chiếc xương sườn. Năm 1853, khi John Snow (18131858) gây mê cho Nữ hoàng Victoria khi bà này sinh đứa con thứ 8, thì vấn đề liệu một mệnh phụ có chấp nhận kỹ thuật gây mê/gây tê hay không đã được giải quyết. Khi một trong những con gái của mình sinh con, Nữ hoàng Victoria nói: “Quả là một ân huệ khi có chloroform”. Khác với các đối tác người Mỹ, Simpson chết trong danh vọng và trọng vọng. Ông ta được phong tước hiệp sĩ, được bổ nhiệm làm Ngự y tại Scotland của Nữ hoàng, được Đại học Oxford tặng bằng tiến sĩ danh dự, nhận huy chương Tự do của thành phố Edinburg, và vào thời điểm ông mất ở tuổi 59, các hoạt động học thuật và thương mại tại Scotland đều ngưng lại để nhường chỗ cho một trong những lễ tang lớn nhất chưa hề có nhằm vinh danh một thầy thuốc Scotland.
Trận chiến bản quyền tại Mỹ là một phần trong cuộc luận chiến lớn hơn về chất nào tốt hơn, ether hoặc chloroform, cũng như tranh luận về giá trị tương đối của sự nghiệp của Simpson và của những người Mỹ đã phát hiện ra kỹ thuật gây tê xông hơi. Khi tờ báo Edinburgh Daily Review cho rằng việc đưa chất chloroform vào kỹ thuật gây tê là “phát hiện lớn nhất trong tất cả các phát hiện của thời hiện đại”, thì Bigelow than phiền rằng Simpson đã quên nhắc tới các đồng nghiệp đi trước người Mỹ và dành quá nhiều công trạng đối với kỹ thuật gây mê/gây tê ngoại khoa. Để trả lời, Simpson cho Bigelow biết rằng ông ta coi việc sử dụng chloroform và ether làm chất gây mê/gây tê tự nó không phải là những phát hiện lớn, nhưng chỉ là những bước đi trong một lịch sử dài trong đó có Humphry Davy, cũng như người Hy Lạp, La Mã, và các phẫu thuật viên thời Trung cổ đã sử dụng nhiều loại khí gây ngủ. Đối với Simpson và các đồng nghiệp người Anh của ông, phát hiện ra chloroform là đỉnh cao của một chuyện kể lịch sử chung chung. Bị chọc tức, Bigelow nhấn mạnh rằng quả là sai khi gọi chloroform là “phát hiện vĩ đại” trong bất cứ báo cáo nào về gây mê/gây tê ngoại khoa. Ether đã được sử dụng thành công và an toàn nhiều năm trước khi việc gây mê/gây tê bằng chloroform gây ra “hàng trăm ca tai họa và tử vong”. Theo Bigelow, báo cáo tự phóng đại mang tính lịch sử của Simpson chẳng qua là một thứ “bụi mờ trong tiệm bán đồ cổ” được dùng để “che dấu sự thật”. Bigelow muốn rằng thế giới, nhất là người Anh, thừa nhận sự khác biệt giữa “sự phát hiện hiện đại của kỹ thuật gây mê/gây tê và việc sử dụng ít quan trọng hơn của chloroform”. Thậm chí sau khi Simpson và Bigelow chết, cuộc tranh luận vẫn còn. Con của Jacob Bigelow là BS Henry J. Bigelow, muốn chứng minh rõ ràng là người Mỹ đã tìm ra chất gây mê/gây tê đầu tiên đạt được nguyên tắc “chắc chắn, hoàn toàn và an toàn”. Chất đó là ether chứ không phải chloroform.
Bản chất thay đổi của ngành ngoại khoa chắc hẳn sẽ làm đau lòng những ai vốn nổi danh nhờ tốc độ và sức mạnh mà giờ đây phải thấy cảnh các bác sĩ ngoại khoa chỉ dựa vào bàn tay khéo léo và thận trọng. Những thầy thuốc nào đã dày công đạt đến trình độ bóc tách chuyên nghiệp (hoặc sự nhẫn tâm) cần có để mổ xẻ trong thời tiền-gây mê/gây tê chắc hẳn đã lấy làm hãnh diện về các thành quả của mình. Giống như người thủ thư cảm thấy khó chịu khi thấy người lục lọi trên chiếc kệ sách sắp xếp gọn gàng, phẫu thuật viên bậc thầy có thể lấy làm bực bội cái mánh khóe bỏ qua công đoạn đòi hỏi phải có sự khéo léo tốn nhiều công phu mới có được của mình. Một số bác sĩ tin rằng hít các thứ thuốc gây mê/gây tê sẽ làm nhiễm độc máu, làm cho xuất huyết dễ hơn, gây co giật, ói, ngộ độc, ngủ lâu hơn, kích thích não, ngạt thở, viêm cuống phổi, viêm phổi, viêm sưng não bộ, liệt, phát điên, trầm uất, nhiễm trùng khu trú hoặc toàn thân, sẩy thai, hoặc có hại cho thai nhi. Chất gây mê/gây tê có thể hủy hoại dây thần kinh và các bắp cơ hoặc làm cho vết thương chậm lành. Nhiều thầy chữa bệnh không chính thống, chẳng hạn như thủy liệu pháp, đồng căn liệu pháp, chữa bệnh theo lối tự nhiên (naturopath), chống đối việc sử dụng tất cả các hóa chất có tác dụng mạnh, trong đó có chất gây mê/gây tê. Một số người theo phái điều độ cho đây là gây mê/gây tê của quỷ (Demon Anesthesia) cũng như rượu rum của quỷ (Demon Rum).
Trong khi một số thầy thuốc tố cáo kỹ thuật gây mê/gây tê là một phát minh nguy hiểm và báng bổ và người khác chấp nhận không chút e dè, đa số các bác sĩ chấp nhận một cách dè dặt như là con dao hai lưỡi cần phải sử dụng một cách chọn lọc. Nguy cơ và lợi ích của kỹ thuật gây mê/gây tê cần phải đánh giá dựa theo thực tế trong đó phải chú ý đến một loạt các biến số chẳng hạn như tuổi tác, giới tính, chủng tộc, sắc tộc, phẫu thuật lớn hay nhỏ và nhiều thứ khác. Các kỹ thuật gây mê/gây tê được phổ biến nhanh chóng với một tốc độ chưa bao giờ có trong lịch sử y học, nhưng không phải tất cả các bệnh nhân đều nhận được ân sủng của ngành phẫu thuật không đau, ngay cả các phẫu thuật lớn cắt chi. Một số phẫu thuật viên chứng minh là cần có gây tê bởi vì chính cái đau cũng gây nguy hiểm, bởi vì đau quá làm cho bệnh nhân choáng, làm cạn dự trữ sinh lực quý báu và gây hại cho cơ thể. Hơn thế nữa, kỹ thuật gây mê/gây tê khuyến khích bệnh nhân chấp nhận phẫu thuật và cho phép phẫu thuật viên thời gian tinh luyện tay nghề. Những người ủng hộ việc gây mê/gây tê phổ quát tố cáo các bác sĩ nào chỉ sử dụng chọn lọc các thuốc gây mê/ gây tê là phóng đại những nguy cơ có khả năng để nắm lấy độc quyền kiểm soát kỹ thuật gây mê/gây tê. Ủy ban về Khoa học Y học của Hiệp hội Y khoa Mỹ cảnh báo rằng chỉ có bác sĩ mới được dùng chloroform và ether; còn về mặt gây mê/gây tê, thì các nha sĩ cũng phải làm theo các bác sĩ. Theo luận điệu này, nên chú ý rằng bác sĩ cũng từng cảnh báo cho bệnh nhân rằng tắm cũng có thể gây chết người nếu không được chỉ định bởi một bác sĩ, thay vì là bởi thầy thủy liệu pháp.
Nhiều người chống đối kỹ thuật gây mê/gây tê của thế kỷ 19 đã thật thà tin rằng cái đau là sự trừng phạt của Chúa Trời dành cho sự sa đọa và tính ác độc của con người. William Henry Atkinson, M. D., chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội Nha khoa Mỹ cho rằng gây mê/gây tê là một âm mưu của quỷ Satan nhằm tước bỏ khả năng suy đoán và chịu đựng cái đau của con người mà Chúa muốn dành cho họ. Chắc chắn rằng các bác sĩ chịu ảnh hưởng các học thuyết tôn giáo, nhưng các chuẩn mực chuyên môn cũng buộc họ phải nghi ngờ một sáng kiến đã từng thách thức nhiều thế kỷ kinh nghiệm y học trong đó mất cảm giác với cái đau (như trong hôn mê, choáng hoặc chấn thương não) là dấu hiệu cái chết sắp tới. Đau đớn, sự sống và chữa trị luôn gắn kết không thể nào gỡ ra được.
Những người chống đối ngành phẫu thuật mới vồ ngay các báo cáo những trường hợp tử vong sau gây mê/gây tê, họ bỏ qua thực tế là không ít trường hợp người bệnh chết sau khi mổ không được gây mê/gây tê. Một số nhà phê bình sợ rằng các thứ thuốc mê sẽ cho bác sĩ quá nhiều quyền trên bệnh nhân. Họ có thể sử dụng các chất gây mê/gây tê để chế ngự và trấn an những bệnh nhân không hợp tác trong các phẫu thuật không cần thiết hoặc mang tính thí nghiệm. Thậm chí còn có khả năng mất cảm giác đau chỉ là một ảo tưởng; người bệnh thực sự cảm thấy đau nhưng bị đặt vào một tình huống không thể nào biểu lộ hoặc nhớ lại kinh nghiệm đã qua. Mặc dù phần lớn các mối sợ hãi này rõ ràng là bị phóng đại, nhưng kinh nghiệm về sau cho thấy chất gây mê/gây tê, cũng giống như bất cứ thứ thuốc tác dụng mạnh khác, có thể gây ra các phản ứng phụ nghiêm trọng: loạn nhịp tim nặng, suy tuần hoàn trong khi mổ, viêm phổi sau mổ, ói có thể làm ngạt thở hoặc tổn thương mô, và nhiều hậu quả khó thấy ở gan, não, thai nhi hoặc trẻ sơ sinh. Là một chuyên khoa mới, ngành gây mê gồm có kỹ thuật gây tê ngoại khoa, điều trị đau mạn tính và cấp tính, chăm sóc hậu phẫu, chăm sóc tích cực, chăm sóc tích cực hô hấp, xử lý đau mạn tính, hồi sức, và y học cấp cứu. Một số khoa gây mê/ gây tê trở thành khoa gây mê/gây tê và y học phẫu thuật (perioperative). Tuy thế, ngay cả trong điều kiện tối ưu, có đầy đủ phương tiện tối tân, cũng không bao giờ nên đánh giá thấp những nguy hiểm của gây mê/gây tê. Nhiều khi, gây mê là phần quan trọng nhất của một cuộc mổ.
Khi xử trí đúng, gây mê/gây tê xông hơi nói chung là an toàn, hoàn toàn và chắc chắn. Tuy nhiên, cảm giác hoàn toàn không thấy đau cũng không thích hợp cho mọi cuộc phẫu thuật. Mặc dù một số thuốc và dụng cụ góp phần trong sự phát triển kỹ thuật gây tê tại chỗ, khu vực và tủy sống đã ra đời trước buổi trình diễn của Morton, nhưng sự phát triển các kỹ thuật đặc biệt để sử dụng những thứ này chỉ thực sự xảy ra sau khi kỹ thuật gây mê/gây tê xông hơi được chấp nhận. Vào năm 1803, Friedrich Wilhelm Sertürner (1783-1841) đã phân lập được các tinh thể của một chất làm giảm đau mạnh từ thuốc phiện thô. Sertürner đặt tên là Morphine, theo tên vị thần giấc mộng của người Hy Lạp là Morpheus. Có thể dùng đầu mũi dao chích để chấm bột nhão morphine vào chỗ cần làm giảm đau hoặc nhỏ giọt dung dịch có chứa morphine vào vết thương. Trong thập niên 1850, Charles Gabriel Pravaz (1791-1853) và Alexander Wood (1817-1884) đã độc lập sáng chế ra một loại kim tiêm rỗng ruột bằng kim loại. Morphine thường được dùng dưới dạng tiêm để làm giảm đau tại chỗ, nhưng một số bác sĩ phẫu thuật tiêm morphine trước khi thực hiện ca mổ bằng gây mê toàn thân vì họ tin rằng như thế sẽ ngăn ngừa được choáng, cuồng sản, ói, và số lượng thuốc mê sẽ ít đi. Heroin, một dẫn chất của morphine được tổng hợp lần đầu tiên năm 1874, được quảng cáo rộng rãi trong thập niên 1890 là có tác dụng giảm đau an toàn hơn so với morphine. Sau khi cấu trúc hóa học của morphine được làm rõ vào năm 1923, nhiều dẫn chất của morphine được thử nghiệm, nhưng ít có chất nào tỏ ra chiếm ưu thế.
Người Inca thời cổ đại đã khai thác thành công những tính chất gây mê/gây tê của lá coca cũng như những đặc tính làm thay đổi hành vi của thứ lá này, và con cháu của họ tại Peru ngày nay vẫn tiếp tục dùng lá coca để xua đi cảm giác đau, đói, buồn nôn, mệt mỏi và buồn rầu. Trong lúc người châu Âu nhanh chóng bắt chước thổ dân châu Mỹ thói quen hút thuốc lá, thì họ bỏ quên lá coca mãi đến tận thế kỷ 19 khi các nhà hóa học trích được các alkaloid đầy thú vị, trong đó có chất cocaine. Sau khi đọc một báo cáo về tác dụng sinh lý của cocaine, Sigmund Freud (1856-1939) cho rằng có thể sử dụng thứ thuốc này trong điều trị các bệnh tâm thần và thể chất. Đem chính thân mình làm vật thí nghiệm, Freud phát hiện rằng cocaine xua đi sự trầm uất và làm cho tinh thần phấn chấn. Freud thuyết phục Carl Koller (1857-1944), một thầy thuốc chuyên khoa mắt, thử dùng cocaine để chữa các bệnh đau mắt như mắt hột và viêm màng mống mắt. Khi nhỏ một dung dịch cocaine vào mắt một con ếch, Koller có thể yên tâm đụng đến giác mạc. Sau những lần thử thành công trên thỏ và người, Koller công bố phát hiện của mình tại Hội nghị Nhãn khoa tại Heidelberg năm 1884. Freud cho là Koller có công phát hiện những tính chất gây mê/gây tê tại chỗ của cocaine, nhưng một số học giả cho rằng Freud xứng đáng là một trong những người sáng lập ra ngành dược lý học tâm thần qua những nghiên cứu về cocaine của mình. Đến cuối thế kỷ 19, nhiều loại thuốc mỡ, thuốc bột để hít, thuốc đạn, thuốc lá, xìgà, các thứ biệt dược và đồ uống đều chứa cocaine. Được biết nhiều nhất là Coca-Cola, một biệt dược được giới thiệu năm 1886 với tính cách là một thứ thuốc trị bệnh và thuốc bổ. Ngoài chiết xuất lá coca, Coca-Cola còn có chiết xuất hạt kola, vốn có hàm lượng caffeine cao. Năm 1906, khi Luật về thực phẩm và thuốc tinh khiết được thông qua tại Mỹ, các nhà sản xuất Coca-Cola dùng lá coca đã loại chất cocaine, nhưng vẫn giữ caffeine.
William S. Halsted (1852-1922), một trong những bác sĩ phẫu thuật hàng đầu tại New York, thừa nhận rằng Koller chỉ mới khai thác một phần của cocaine trong việc gây mê/gây tê. Ấn tượng với các tác dụng của thứ thuốc này, Halsted tiến hành một loạt thử nghiệm trên chính bản thân, các học trò y khoa và các động vật thí nghiệm. Vì lẽ cocaine gây co thắt các mạch máu, cho nên có vẻ đây là một thứ thuốc gây tê lý tưởng để làm phẫu thuật các vùng có nhiều mạch máu. Halsted phát triển một kỹ thuật gọi là gây tê chặn (nerve block anesthesia) - một cách gây mê/gây tê cho từng phần của cơ thể bằng cách tiêm cocaine vào các thần kinh thích hợp.
Khi sử dụng cocaine, Halsted có cảm giác là sức lực dồi dào hơn, sáng tạo hơn cũng như không còn cảm giác đau và mệt mỏi, nhưng khi ngừng không dùng cocaine nữa thì cảm thấy chóng mặt, vọp bẻ, lo lắng, mất ngủ và bị ảo giác. Khi tình trạng nghiện cocaine làm cho ông này không còn đứng mổ được, Halsted được gởi vào nhà thương điên để điều trị bệnh tâm thần. Ông ta hoàn toàn trở thành một người khác khi xuất hiện vài năm sau đó, đã dứt nghiện cocaine, nhưng lại nghiện morphine. Được các đồng nghiệp là William Osler (1849-1919) và William Henry Welch (1850-1934), giúp đỡ và khích lệ, Halsted tiếp tục sự nghiệp vẻ vang của mình là giáo sư đầu tiên về phẫu thuật của Đại học John Hopkins. Một thế kỷ sau, các triệu chứng lạm dụng cocaine được liệt kê như: lo lắng quá mức, trầm uất, loạn thần cấp, hoang tưởng, ảo thính hoặc ảo thị, và co giật sau đó là ngừng tim hoặc ngừng thở.
Lịch sử của gây mê/gây tê gắn liền với các nghiên cứu về ý nghĩa và cơ chế gây đau. Nếu còn lâu người ta mới hiểu được cơ chế của cái đau, thì vấn đề ngày nay người ta có thể đặt lại vấn đề theo hướng nghiên cứu nội tiết thần kinh và việc phát hiện các thụ thể opiate và các chất endorphin, tức là những chất nội sinh có tác dụng giống morphine vào thập niên 1970. Do opium và morphine không phải là các thành phần tự nhiên của hệ thần kinh, cho nên các nhà khoa học lý luận rằng phải có những thụ thể opiate đóng vai trò kiểm soát cái đau thông qua một chất giảm đau nội sinh nào đó. Avram Goldstein (1919-), một trong những người tiên phong trong lĩnh vực này, cho biết rằng khi nghĩ về các tác dụng của morphine, ông ta đã tự hỏi “tại sao Chúa lại tạo ra các thụ thể opiate nếu người không tạo ra một chất nội sinh có tác dụng như morphine?” Vì lẽ các enzyme và cơ chất (substrates) khớp với nhau như khóa và chìa khóa, cho nên có thể các opiates tự nhiên tương tác với các thụ thể trên tế bào thần kinh là nơi rõ ràng tương tác với morphine và những thuốc giống morphine. Năm 1973, Solomon Snyder (1938-) và Candace Pert (1946-) tìm ra các thụ thể opiate ở não. Trong năm này, các nhà khoa học của nhiều phòng thí nghiệm khác xác nhận phát hiện của họ. Đến năm 1975, các nhà khoa học tìm ra các opiates nội sinh, đó là những peptide dẫn truyền thần kinh gọi là endorphine hoặc enkephalin có tác dụng giống như morphine. Người ta cũng phát hiện được nhiều họ endorphine ở não, tuyến dưới đồi, và các mô khác. Qua các nghiên cứu về hệ thống endorphin, các nhà sinh học thần kinh và dược lý học hy vọng sẽ tìm được cách kiểm soát sự sản xuất endorphin, phát triển được các thứ thuốc an toàn giống endorphin và xử lý được cái đau cấp tính và mạn tính.
Mặc dù bệnh nhân và người thường thường tin rằng việc làm giảm đau là một trong những mục đích hàng đầu của y học, cho tới gần đây sự đau đớn không được chú ý nhiều trong lĩnh vực đào tạo và giáo dục y khoa. Không nhất thiết phải xem cái đau chủ quan, và hoàn cảnh văn hóa mà người bệnh trải qua cái đau như là các vấn đề thuộc sự “suy giảm chức năng” và tàn tật nằm trong phạm vi của y học. Từ trước đến nay, cái đau chỉ được xem như là một triệu chứng hơn là một chẩn đoán, và vì thế, bản thân cái đau cũng không được chú ý nhiều. Khi cái đau trong phẫu thuật được khống chế thì dường như người ta cũng mong đợi là tất cả các hình thức đau khác cũng có thể giải quyết được bằng các thứ thuốc giảm đau thích hợp. Tuy nhiên, thành công khi áp dụng kỹ thuật gây mê/ gây tê ngoại khoa chưa sẵn sàng mở rộng sang một vấn đề rộng lớn hơn là xử trí cái đau mạn tính và cấp tính. Kể từ thập niên 1960, bệnh nhân và những người đứng trên quan điểm bệnh nhân đã nói nhiều về cái đau nhất là đau mạn tính, vốn không được các thầy thuốc ngoại khoa chú ý lắm. Cái đau mạn tính đã được gọi là một trong những chứng bệnh khó trị nhất có nhiều người mắc giống như một kiểu bệnh dịch tân thời. Đáp ứng vấn đề này, nhiều bệnh viện và trung tâm y khoa đã mở ra các phòng khám đa chuyên khoa chuyên xử lý các chứng đau.