JOSEPH LISTER VÀ HỆ THỐNG SÁT TRÙNG
Ngành phẫu thuật thế kỷ 19 có mối liên hệ cực kỳ gắn khít với trận dịch bệnh từ bệnh viện đến mức người ta coi ngành phẫu thuật hiện đại dường như là sản phẩm trực tiếp của hệ thống sát trùng do Joseph Lister’s (1827-1912) đưa ra. Chắc chắn rằng các yếu tố liên quan đến công cuộc phát triển của ngành phẫu thuật hiện đại còn phức tạp hơn nhiều, nhưng không nên coi nhẹ tầm quan trọng về việc ngăn ngừa nhiễm trùng vốn là nỗi day dứt của Lister khi đề cập đến cuộc mổ cùng với chất lượng của sự chăm sóc sau mổ.
Cha của Lister, Joseph Jackson Lister (1786-1869), là một nhà buôn rượu, ông này có sở thích khoa học là muốn chế ra một kính hiển vi tiêu sắc. Joseph Lister theo học tại một trường của giáo phái Quaker tại London and University College trước khi đến Edinburg để học ngoại khoa. Được nhà phẫu thuật vĩ đại người Scotland, James Syme (17991870), bảo trợ, Lister bắt đầu thích ngành “đầy máu me và giết chóc nhất” trong nghệ thuật chữa bệnh. Hạnh phúc vì cưới được con gái của thầy học, Lister xây dựng danh tiếng của mình với tư cách một nhà phẫu thuật, nhà khoa học và thầy giáo. Cũng có sở thích như cha mình, Lister đưa vào công việc lâm sàng những nghiên cứu hiển vi về sự viêm tấy, nhiễm trùng và đông máu. Nhờ thành công trong vai trò thầy giáo và phẫu thuật viên phụ tá tại Bệnh xá Hoàng gia tại Edinburg, năm 1860 Lister được bổ nhiệm là Giáo sư Hoàng gia môn Phẫu thuật tại Glasgow, là nơi mà Lister đưa ra các kỹ thuật sát trùng. Các ý tưởng và phương pháp của Lister vẫn tiếp tục phát triển, nhất là khi ông quay về Edinburg năm 1869 để thay thế vị trí giáo sư phẫu thuật lâm sàng của Syme. Năm 1877, Lister quay lại London làm giáo sư phẫu thuật tại King’s College Hospital.
Khác với Ignaz Philipp Semmelweis (1818-1865), Lister là một nhà khoa học thực nghiệm, chia sẻ những kiến thức của Louis Pasteur (1822-1895) về mối liên quan giữa lý thuyết và thực hành. Giống như phần lớn những người cùng thời, lúc đầu Lister tin rằng nhiễm trùng có thể là do khí độc chui vào vết thương. Tuy nhiên, khi chú ý đến nghiên cứu của Pasteur về những bệnh của rượu và bia, Lister thấy rằng có thể áp dụng lý thuyết vi trùng gây bệnh vào nhiễm trùng phẫu thuật. Mặc dù ít bác sĩ nào chịu tin rằng những gì xảy ra trong phòng thí nghiệm của một nhà hóa học lại liên hệ đến y học, Lister bắt đầu nghiên cứu sự viêm nhiễm bằng cách sử dụng nhiều mô hình súc vật. Những kiến thức rút từ những thí nghiệm này và trong bệnh phòng là cơ sở để xây dựng hệ thống sát trùng.
Để tấn công vấn đề nhiễm trùng bệnh viện, Lister cố ý chọn các ca gãy xương hở để đem ra thử nghiệm, bởi vì “các hậu quả đầy tai họa” thường xảy ra trên các xương gãy hở và phức tạp, ngược lại với gãy xương kín vốn đơn giản vì xương liền lại không có biến chứng, mặc dù hình thức tổn thương và khả năng tàn phế như nhau. Thường thì trên 60% các bệnh nhân gãy xương hở bị nhiễm trùng. Thông thường, các phẫu thuật viên nắn chỗ gãy và mở rộng vết thương, nhưng tiên lượng sẽ rất xấu cho nên cách hợp lý nhất là cắt cụt chi ngay. Tuy thế, khi Ambroise Paré (15101590) chứng minh cách ông ta xử lý cái chân gãy của mình, thì việc cắt cụt chi hoặc chết không phải là những hậu quả bắt buộc phải xảy ra đối với một ca gãy xương hở. Theo các phẫu thuật viên có kinh nghiệm, thì thằng đần nào cũng có thể cắt cụt chi được, nhưng cần phải có nhiều sự khéo léo để chữa một vết thương gãy xương hở mà không buộc phải cắt chi ngay.
Trong suốt lịch sử cả nền y học dân gian lẫn phẫu thuật đều dốc công tìm kiếm những chất sát trùng (antiseptic) và chất khử trùng (disinfectant). Như Florence Nightingale (1820-1910), người tiên phong trong ngành điều dưỡng hiện đại và cải cách vệ sinh, thường nói, những chất này đều không có tác dụng, trừ việc xộc hơi vào mũi khiến cho người ta phải mở cửa ra cho thoáng. Carbolic acid (dung dịch phenol) là một trong nhiều thứ hóa chất được sử dụng trong thế kỷ 19 để tẩy nhà xí, nhà ngoài, chuồng ngựa, và cống rãnh. Sau khi đọc về những tác dụng có lợi mà thị trấn Carlisle có được khi cho carbolic acid vào công trình nước thải, Lister đem chất này thí nghiệm trên động vật và trên người.
Phẫu thuật sát trùng vào năm 1882.
Nhiều ca thất bại, nhưng cũng nhờ đó mà Lister mới cải tiến các kỹ thuật của mình. Năm 1865, một bé trai 11 tuổi bị gãy hở chân trái được đưa vào Bệnh xá Hoàng gia Glasgow. Chân gãy được bó nẹp và vết thương được rửa và băng lại bằng carbolic acid. Trong vòng 6 tuần, xương liền lại, vết thương không bị mưng mủ. Từ tháng 8/1865 đến tháng 4/1867, Lister đã điều trị cho 11 bệnh nhân bị gãy xương hở bằng kỹ thuật sát trùng này, 9 người sống sót. Những cải tiến thêm trong hệ thống sát trùng đã giúp điều trị thành công nhiều trường hợp nguy ngập tính mạng. Ngoài ra, khi hệ thống sát trùng được đưa vào quy trình thường quy của bệnh viện, tỷ suất chung những bệnh từ bệnh viện đã giảm hẳn một cách ngoạn mục. Mặc dù Lister đã công bố một bài báo về hệ thống sát trùng trên tờ The Lancet năm 1867, nhưng các thầy thuốc nước Anh nói chung chẳng đoái hoài gì đến công trình này. Để làm lay chuyển các thầy thuốc ngoại khoa nước Anh chú ý đến hệ thống sát trùng, năm 1877, Lister nhận chiếc ghế giáo sư phẫu thuật lâm sàng tại King’s College, London. Những buổi trình diễn phẫu thuật của Lister tại bệnh viên của King’s College dần dần thuyết phục được nhiều phẫu thuật viên hoài nghi, mặc dù cộng đồng y khoa tại Anh vẫn còn tiếp tục chống đối thuyết vi trùng gây bệnh.
Các phẫu thuật viên từng làm việc với Lister sau đó mang ý tưởng và phương pháp của ông về nơi làm việc của họ, tại đây họ có thể mở rộng sang các loại phẫu thuật khác. Thay vì chỉ giới hạn trong các phẫu thuật nếu không giữ được mạng sống cho người bệnh thì không làm, họ có thể thực hiện những phẫu thuật trước đây được coi là không an toàn hoặc thậm chí không thể làm được. Khi Lister về hưu năm 1892, các phương pháp của ông cuối cùng cũng được thừa nhận và tôn vinh. Lister là thầy thuốc đầu tiên được phong tước tại Anh (năm 1897 ông được phong Bá tước). Ông ta là người ủng hộ nhiệt thành việc nghiên cứu y học vào cái thời mà nhóm các nhà chống đối việc mổ người sống hoạt động rất mạnh. Các lý lẽ lý thuyết để chống lại thuyết vi trùng gây bệnh vẫn còn được nhấn mạnh trong những cuộc tranh luận chuyên môn, nhưng, cũng giống như cuộc chiến chống lại sốt hậu sản, đa phần những người chống đối nằm ở phía những người quản lý bệnh viện vốn không muốn tốn thêm tiền để cải thiện chất lượng phòng mổ và buồng bệnh.
Lister cho rằng ông thành công là nhờ chú ý đến lập luận của Pasteur rằng “tính chất nhiễm trùng của không khí” là do các vi trùng nằm lơ lững trong không khí và lắng xuống các bề mặt. Để tấn công trực tiếp các vi trùng trong không khí, Lister đem thí nghiệm các dụng cụ phun acid carbolic vào không khí phòng mổ. Chiếc bơm này phun ra một lớp sương mịn làm cho bệnh nhân và phụ tá của ông rất khó chịu. Về sau, Lister thừa nhận rằng ông ta đã quá nhấn mạnh vào vấn đề vi trùng lơ lững trong không khí. Ông ta miễn cưỡng bỏ phương pháp phun, mà chú ý vào việc cải tiến cách khử khuẩn bàn tay, dụng cụ và các loại băng gạc đắp trên vết thương. Rủi thay, những bác sĩ phẫu thuật vốn nghĩ rằng “hệ thống sát trùng” đơn giản chỉ là việc dội carbolic acid vào vết thương, khi thấy vết thương nhiễm trùng thì cho rằng hệ thống này không có tác dụng.
Mặc dù ít bác sĩ Mỹ ngày nay quen với công trình của Lister, một số ký ức mờ nhạt về “Lister người giết vi trùng” vẫn tồn tại đến ngày nay qua các quảng cáo cho thuốc súc miệng Listerine. Tên của sản phẩm này đã gắn thêm tên của Lister vào truyền thống xa xưa về những thứ thuốc có mùi khó chịu dùng khử trùng vết thương. Từ thập niên 1870, khi Listerine thuốc “diệt vi khuẩn” được bán cho các bác sĩ và nha sĩ để làm thuốc sát trùng và nước súc miệng, công thức bí mật của thuốc này vẫn còn có mùi vị rất nồng. Từ thập niên 1920, Listerine được quảng cáo rộng rãi làm chất “diệt vi khuẩn” để dự phòng cảm lạnh, viêm họng, và hơi thở nặng mùi.