Chương 3 HẠ GỤC-*-ĐẠN LÊN NÒNG
“Dậy ngay. Phát hiện có tàu chở dầu.”
Tôi choàng dậy từ mé xuồng nơi tôi đang nghỉ ngơi chút ít mặc cho gió lạnh và sóng vỗ bồng bềnh. Nước biển bắn tung tóe làm tôi ướt sũng. Dù là một tân binh trong đợt điều động đầu tiên, tôi đã làm chủ được nghệ thuật ngủ trong bất kỳ điều kiện nào, một kỹ năng không được huấn luyện trước nhưng cực kỳ quan trọng với SEAL.
Một con tàu chở dầu hiện ra mờ mờ phía trước. Một chiếc trực thăng đã phát hiện nó cố gắng lẻn vào Vùng Vịnh sau khi bốc hàng một cách phi pháp tại Iraq. Nhiệm vụ của chúng tôi là lên con tàu chở dầu đó để kiểm tra giấy tờ, và nếu nghi ngờ nó vi phạm lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc, thì sẽ giao nó cho lực lượng Lính thủy đánh bộ hoặc các cơ quan hữu quan khác xử lý.
Tôi đã sẵn sàng xung trận. Chiếc RHIB (rigid hulled inflatable boat - xuồng bơm hơi thân cứng, được sử dụng cho nhiều nhiệm vụ khác nhau của lực lượng SEAL) trông giống như một sản phẩm lai giữa một chiếc xuồng cao su cứu sinh và một con tàu cao tốc không mui chạy bằng hai mô tơ khủng phía sau. Tàu dài gần hai mươi mét, chở được tám SEAL và đạt tốc độ tới 45 hải lý khi biển lặng.
Gió thổi ra từ hai mô tơ bốc lên tàu quyện với bụi nước khi chúng tôi tăng tốc. Chúng tôi đang di chuyển với tốc độ hợp lý, lướt trên những sóng tàu của con tàu chở dầu khiến ra-đa không thể phát hiện ra chúng tôi. Tôi bắt đầu công việc, nắm lấy cây sào dài từ thân xuồng. Chúng tôi giảm tốc độ vì chiếc RHIB của chúng tôi cặp sát mạn tàu chở dầu, cho tới khi chúng tôi chạy bằng đúng tốc độ của nó. Động cơ của con tàu Iran đập mạnh trong nước, kêu to đến mức khiến cho tiếng động cơ của chúng tôi chìm nghỉm đi.
Khi chúng tôi đẩy sát mạn tàu chở dầu, tôi kéo dài chiếc sào lên phía trên, cố gắng làm nghiêng cái móc sắt treo trên dãy phía lan can mép tàu. Khi đã móc được rồi, tôi giật mạnh chiếc sào xuống.
Thế là xong.
Một sợi dây đàn hồi nối cái móc neo với cây sào. Một cái thang dây bằng thép được nối với cái móc. Một đồng đội cố bám chặt vào thân tàu và ghìm chặt lại để người dẫn đầu bắt đầu trèo lên mạn tàu.
Chiếc tàu chở đầy dầu có thể đỗ ở mức nước tương đối thấp, thực tế thì thấp đến mức thi thoảng ta có thể bám được vào lan can và nhảy lên tàu. Trong trường hợp này thì không như vậy, lan can cao hơn chút ít so với cái xuồng nhỏ của chúng tôi. Tôi không phải là người thích độ cao, nhưng chừng nào tôi không nghĩ nhiều về những việc mình đang làm thì tôi vẫn ổn.
Chiếc thang lắc lư theo con tàu và gió; tôi kéo người lên nhanh hết sức có thể, các cơ bắp của tôi nhớ lại tất cả những động tác kéo xà đơn trong chương trình huấn luyện BUD/S. Khi tôi chạm được boong tàu thì những gã dẫn đầu đã tiến về buồng lái và đài chỉ huy của thuyền trưởng. Tôi chạy đuổi theo.
Đột nhiên chiếc tàu chở dầu tăng tốc. Viên thuyền trưởng nhận ra một cách muộn màng rằng hắn đang bị chiếm boong tàu, cố gắng hướng về vùng biển Iran. Nếu hắn ta đến đó, chúng tôi phải nhảy khỏi tàu, quy định của chúng tôi nghiêm cấm việc bắt giữ bất kỳ tàu thuyền nào bên ngoài hải phận quốc tế.
Tôi bắt kịp đội trưởng khi đoàn vừa tới cửa vào đài chỉ huy. Một trong những thủy thủ đoàn của tàu đến đó gần như cùng lúc, tìm cách khóa cửa lại. Hắn ta không đủ nhanh, hoặc là không đủ mạnh, một trong số những người đang lên tàu đã lao tới phía cánh cửa và tông mạnh làm nó bật ra.
Tôi chạy ngay đến, súng đã lên đạn.
Chúng tôi đã thực hiện hàng tá chiến dịch như vậy trong mấy ngày qua, hiếm người nào có dấu hiệu chống cự. Nhưng thuyền trưởng của chiếc tàu này tỏ ý chống đối, dù hắn không có vũ khí, hắn chưa chịu đầu hàng.
Hắn đã xông vào tôi.
Thật là ngu ngốc. Trước hết, tôi không chỉ to con hơn hắn ta mà tôi còn mang vũ khí đầy người. Chưa kể đến việc tôi đang lăm lăm một khẩu tiểu liên trong tay.
Tôi xoay họng súng và táng mạnh vào ngực tên ngu xuẩn đó. Hắn ngã lăn ra.
Nhưng tôi cũng suýt bị trượt chân ngã. Khuỷu tay tôi giơ ra chẹn thẳng vào mặt hắn.
Mất một lúc như vậy.
Thế đã là khá nhiều để đánh gục hắn. Tôi lật hắn lại và còng tay.
Lên boong và lục soát con tàu, chính thức được gọi là VBSS (viết tắt của Visit, Board, Search, Seize - Kiểm tra, Tiếp cận, Lục soát, Bắt giữ) là một nhiệm vụ tiêu chuẩn của SEAL. Trong khi lực lượng Hải quân “chính quy” có những thủy thủ được huấn luyện đặc biệt để thực hiện công việc trong thời bình, chúng tôi được huấn luyện để thực hiện việc tìm kiếm ở những nơi mà sự kháng cự là phổ biến. Và trong việc chuẩn bị cho cuộc chiến suốt mùa đông năm 2002-2003, tức cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh Péc-xích sát Iraq. Sau này Liên Hiệp Quốc đã ước tính rằng, với sự vi phạm các biện pháp trừng phạt quốc tế, hàng tỉ đô la dầu lửa và các loại hàng hóa khác đã bị buôn lậu qua biên giới Iraq và rơi vào túi của chính quyền Saddam.
Buôn lậu có nhiều hình thức. Ta có thể tìm thấy dầu lửa trên các xe chở lúa mì, giấu trong các thùng rượu. Phổ biến hơn, các con tàu chở hàng nghìn, hàng nghìn gallon[*] dầu lửa, vượt quá mức cho phép trong chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên Hiệp Quốc.
Chu thich: Đơn vị đo chất lỏng của Mỹ, một gallon tương đương 3,785 lít.
Không chỉ là dầu. Một trong những chuyến tàu chở hàng lậu lớn nhất mà chúng tôi tóm được mùa đông năm ấy là quả chà là. Rõ ràng món hàng này đem lại một giá khá hời trên thị trường thế giới.
Chính trong những tháng đầu của lần điều động đầu tiên này tôi trở nên quen thuộc với Wojskowa Formacja Specjalna GROM im. Cichociemnych Spadochroniarzy Armii Krajowei – Tổ chức Quân sự Đặc biệt GROM của Lực lượng lính nhảy dù trong đêm và thầm lặng thuộc Quân đội Ba Lan, nổi tiếng với tên viết tắt GROM. Đây chính là Lực lượng Đặc nhiệm của Ba Lan, nổi danh trong các chiến dịch đặc biệt, họ đã hợp tác với chúng tôi trong việc hạ gục kẻ thù.
Nói chung, chúng tôi làm việc trên một chiếc tàu lớn, được dùng như một cảng nổi cho những chiếc RHIB của chúng tôi. Một nửa trung đội sẽ tuần tra trong một ca dài hai mươi tư tiếng. Chúng tôi có thể đi thuyền đến một điểm được chỉ định và trôi nổi trên biển trong đêm để chờ đợi. Nếu may mắn, một chiếc trực thăng hoặc một con tàu có thể phát tín hiệu về một con tàu đang trốn khỏi Iraq ở sát mặt nước. Bất kỳ thứ gì chuyên chở hàng hóa sẽ bị tiếp cận và kiểm tra. Chúng tôi sẽ đến đó và dỡ hàng xuống.
Vài lần chúng tôi đã làm việc trên chiếc xuồng Mk-V. Tàu Mk-V là một loại tàu phục vụ hoạt động đặc biệt mà có người so sánh với những con tàu PT[*] hồi Thế chiến 2. Xuồng đó trông giống như một con tàu cao tốc bọc thép, có nhiệm vụ giúp các SEAL thoát hiểm càng nhanh càng tốt. Thân tàu được làm bằng nhôm, nó có thể sục mạnh đuôi tàu xuống, những con tàu này được cho là có thể đạt tốc độ 65 hải lý một giờ. Nhưng điều chúng tôi khoái là các boong tàu phẳng phía dưới khung kết cấu tàu. Thông thường, chúng tôi có thể chở được hai chiếc xuồng Zodiac ở đằng sau. Nhưng vì không cần xuồng nữa, cả nhóm có thể lên tàu từ những chiếc RHIB và dãn ra tranh thủ ngủ một lát cho tới khi tàu đến nơi được chỉ định. Chúng tôi ngả người dọc theo ghế ngồi hay co mình nằm nghỉ dưới mép phía đầu tàu.
Chu thich: PT Boat viết tắt của Patrol Torpedo Boat, tàu của Hải quân Hoa Kỳ, được trang bị vũ khí nhẹ, dài từ 18 đến 31 mét, thường dùng để phóng ngư lôi trong Thế chiến 2.
Hạ gục các con tàu trong Vùng Vịnh nhanh chóng trở thành chuyện thường ngày. Chúng tôi thực hiện hàng chục phi vụ trong một đêm. Nhưng thành tích lớn nhất của chúng tôi không phải đến từ Iraq, mà cách đó khoảng 2.400 ki lô mét, ngoài khơi châu Phi.
TÊN LỬA SCUDVào cuối mùa thu, một trung đội SEAL tại Philippines đã áp sát mạn của một con tàu chở hàng. Kể từ đó trở đi, tàu của Bắc Hàn bị đưa vào tầm ngắm.
Chiếc tàu chở hàng 3.500 tấn có một lịch sử khá thú vị trong việc vận chuyển hàng hóa ra vào Bắc Hàn. Theo một tin đồn, con tàu đã chở hóa chất có thể sử dụng để chế tạo vũ khí hủy hoại thần kinh. Thế mà trong trường hợp này các giấy tờ của tàu khai là tàu chở xi măng.
Thực ra thứ hàng mà con tàu đang chở là tên lửa Scud.
Con tàu đang bị theo dõi ở vùng Sừng Châu Phi[*] trong khi chính quyền của Tổng thống Bush quyết định sẽ làm gì với nó. Cuối cùng, Tổng thống ra lệnh phải tiếp cận và lục soát con tàu đó: loại nhiệm vụ mà các SEAL rất xuất sắc.
Chu thich: Horn of Africa: bán đảo thuộc Đông Phi lấn ra biển Ả Rập vài trăm cây số và nằm dọc theo bờ phía Nam của Vịnh Aden.
Chúng tôi có một trung đội ở Djibouti, nơi gần hơn với con tàu đó rất nhiều so với đội của chúng tôi. Nhưng vì có chuỗi mệnh lệnh và nhiệm vụ nối tiếp nhau, hóa ra đơn vị đó đang phục vụ cho lực lượng Lính thủy đánh bộ trong khi chúng tôi phục vụ trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Hải quân, chúng tôi được giao nhiệm vụ hạ gục tàu chở hàng này.
Bạn có thể hình dung trung đội kết nghĩa của chúng tôi vui mừng như thế nào khi thấy chúng tôi đổ bộ lên Djibouti. Không chỉ vì chúng tôi đã “cướp” một sứ mệnh mà họ cho là của họ, mà họ còn phải chịu sự bẽ mặt khi giúp chúng tôi trút bớt gánh nặng và sẵn sàng chiến đấu.
Ngay khi bước ra khỏi máy bay, tôi nhận ra một thằng bạn thân.
“Ê, mày!” tôi hét lên.
“Xéo mẹ mày đi,” hắn đáp lại.
“Có chuyện gì vậy?”
“Mẹ mày.”
Đấy là kiểu hắn chào mừng tôi. Tôi chẳng trách gì hắn cả; ở địa vị của hắn, có lẽ tôi cũng đã vãi đái ra rồi. Hắn và những người khác rốt cuộc cũng kéo đến, bọn hắn không phát rồ vì chúng tôi, mà phát điên vì tình hình đang diễn ra. Họ bất đắc dĩ phải giúp chúng tôi chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ, rồi đưa chúng tôi lên một chiếc trực thăng chuyên chở thư tín và quân nhu từ chiến hạm USS Nassau, một loại tàu tấn công đổ bộ hoạt động ở vùng Ấn Độ Dương.
Amphibs, như họ thường gọi, là những chiếc tàu tấn công lớn dùng để chở binh lính và trực thăng, đôi khi còn chở cả các loại máy bay tấn công Harrier của lực lượng Lính thủy đánh bộ nữa. Chúng trông giống như chiếc tàu hàng không mẫu hạm kiểu cũ với một boong tàu làm đường băng. Con tàu khá rộng, và có các phương tiện chỉ huy và kiểm soát có thể sử dụng như các đài chỉ huy và hoạch định tác chiến trong suốt các chiến dịch tấn công.
Có nhiều cách hạ gục một con tàu, tùy thuộc vào các điều kiện và mục tiêu. Trong khi chúng tôi có thể dùng trực thăng bay tiến đến con tàu chở hàng của Bắc Triều Tiên, nhìn vào ảnh con tàu chúng tôi để ý thấy có nhiều dây vắt phía trên boong tàu. Các dây này cần phải loại bỏ trước khi chúng tôi đổ bộ, việc này làm cho thời gian hoạt động của chúng tôi kéo dài hơn.
Biết là chúng tôi sẽ để mất yếu tố bất ngờ nếu đến đó bằng trực thăng, chúng tôi đã chọn sử dụng các RHIB để thay thế. Chúng tôi bắt đầu tập chạy xuồng ra khỏi mạn tàu của chiến hạm Nassau bằng những chiếc xuồng do Đơn vị Xuồng Đặc biệt (Special Boat Unit) đem tới đó. (Special Boat Unit là đơn vị chuyên chở riêng của lực lượng SEAL. Họ quản lý các loại thuyền RHIB, Mk-V và các loại tàu bè khác liên quan đến SEAL. Giữa những nhiệm vụ đó, các đơn vị đều được vũ trang và huấn luyện để thực hiện các trận đánh thọc sườn rất dũng mãnh để giúp các SEAL ra hoặc vào khu vực nguy hiểm.)
Trong khi đó chiếc tàu chở hàng vẫn tiến về phía chúng tôi. Chúng tôi lên đạn vì nó đã vào trong tầm ngắm, sẵn sàng nổ súng. Nhưng trước khi chúng tôi có thể lên xuồng thì có một cuộc gọi lệnh cho chúng tôi dừng lại. Quân đội Tây Ban Nha đã tiến vào.
Cái gì?
Chiếc tàu khu trục nhỏ Navarra của Tây Ban Nha đã chạm trán với con tàu Bắc Hàn, đúng là con tàu này đã không đánh lừa được ai bằng cách không treo cờ và giấu tên con tàu đi. Các bản báo cáo sau này cho biết, lực lượng đặc nhiệm của Tây Ban Nha đã tiến vào sau khi chiếc tàu đó không chịu dừng lại theo lệnh của tàu khu trục. Tất nhiên, họ đã sử dụng trực thăng, và hệt như chúng tôi đã nghĩ, đã bị trì hoãn vì phải dọn dẹp đám dây nhợ phía trên boong tàu. Theo những gì tôi nghe được, sự trì hoãn đó đã giúp cho tên thuyền trưởng trên con tàu có đủ thời gian để loại bỏ các giấy tờ phạm tội và những bằng chứng khác, đó là điều tôi nghĩ đã xảy ra.
Rõ ràng có nhiều điều diễn ra phía sau hậu trường mà chúng tôi không hề hay biết.
Điều gì cũng được.
Nhiệm vụ của chúng tôi nhanh chóng thay đổi từ việc hạ gục con tàu sang chiếm boong và bắt giữ con tàu, cũng như tìm ra tên lửa Scud.
Các bạn sẽ không nghĩ rằng việc tìm ra tên lửa lại khó khăn thế đâu. Nhưng trong trường hợp này, không thể nào phát hiện ra chúng. Hầm chứa hàng của con tàu đầy các bao xi măng, loại gần 40 cân[*] một bao. Phải có đến hàng trăm nghìn bao.
Chu thich: Nguyên văn là 80 pound, một pound xấp xỉ 0,45kg.
Chỉ có một nơi duy nhất có thể giấu tên lửa Scud. Chúng tôi bắt đầu chuyển các bao xi măng. Từng bao một. Đó là công việc mà chúng tôi phải làm trong suốt 24 giờ liên tục. Không được ngủ, chỉ có việc chuyển các bao xi măng đi. Bản thân tôi cũng phải bê đi hàng nghìn bao xi măng. Thật khốn nạn. Bụi phủ đầy người tôi. Chỉ có Chúa mới biết phổi của tôi rồi sẽ ra sao. Cuối cùng, chúng tôi cũng tìm thấy những container phía bên dưới. Đèn pin và cưa được chúng tôi đem ra.
Tôi dùng một trong những chiếc cưa siêu nhanh. Cũng được gọi là loại cưa đứt đoạn, trông nó như một chiếc cưa xích với lưỡi cưa tròn phía trước. Nó có thể cắt xuyên bất cứ cái gì, kể cả container chứa tên lửa Scud.
Mười lăm tên lửa Scud nằm dưới những bao xi măng. Thú thật từ trước đến nay tôi chưa bao giờ được nhìn thấy tên lửa Scud gần sát như vậy, tôi thấy chúng trông cứ lạnh ngắt đi. Chúng tôi chụp ảnh, và vẫy mấy gã EOD lại - Explosive Ordinance Disposal tức chuyên gia tháo gỡ chất nổ, hay chuyên gia tháo gỡ bom - để đảm bảo rằng những tên lửa này không hoạt động.
Lúc này toàn trung đội bị bụi xi măng phủ kín. Vài gã chạy ra mạn tàu để giũ bụi. Tôi thì không. Vì tôi đã có kinh nghiệm trong việc lặn, tôi sẽ không tranh thủ bất cứ cơ hội nào để làm điều đó. Có quá nhiều xi măng, và có trời mới biết điều gì sẽ xảy ra khi xi măng gặp nước?
Chúng tôi giao lại con tàu chở hàng cho lực lượng Lính thủy đánh bộ và trở lại chiến hạm Nassau. Bộ Chỉ huy ra lệnh cho chúng tôi rút lui và quay trở lại Kuwait theo “đúng cách như khi được điều động đến.”
Tất nhiên, toàn những chuyện bẩn bựa. Chúng tôi đóng trên chiến hạm Nassau trong hai tuần. Vì lý do nào đó, Hải quân không tính đến cách dùng một trong vô số chiếc trực thăng đang đậu trên boong sân bay để đưa chúng tôi trở lại Djibouti. Vì thế, chúng tôi chỉ còn biết chơi điện tử và nâng tạ trong khi chờ đợi. Cứ thế rồi ngủ thôi.
Thật không may, trò chơi điện tử duy nhất chúng tôi có lúc bấy giờ là trò Madden Football. Tôi chơi trò này khá giỏi đấy. Cho tới lúc đó, tôi chưa từng chơi nhiều trò chơi điện tử. Giờ thì tôi đã trở thành một chuyên gia rồi, nhất là trò Madden. Có lẽ đó là nơi tôi đã “nghiền” môn này. Tôi nghĩ, cho đến tận hôm nay, vợ tôi vẫn còn đay nghiến về hai tuần tôi đóng quân trên chiến hạm Nassau.
Ghi chú về các tên lửa Scud: Các tên lửa đó trên đường đến Yemen. Hay ít ra đó là những gì Yemen đã nói. Có tin đồn những tên lửa đó là một phần trong thỏa thuận với Libya liên quan tới việc thanh toán để đưa Saddam Hussein sang sống lưu vong, nhưng tôi không biết nguồn tin đó có đúng hay không. Trong bất kỳ tình huống nào, thì các tên lửa Scud cũng được tháo ra và chuyển tới Yemen, Saddam vẫn ở Iraq, còn chúng tôi quay trở lại Kuwait sẵn sàng cho cuộc chiến.
LỄ GIÁNG SINHTháng Mười hai năm ấy là Giáng sinh đầu tiên tôi xa nhà, và có cảm giác hơi buồn. Ngày cứ trôi đi và không có gì đáng nhớ cả.
Tôi rất nhớ những món quà mà gia đình Taya gửi tôi năm đó, như một chiếc xe Hummer điều khiển từ xa chẳng hạn.
Đó là loại đồ chơi nhỏ, có điều khiển bằng sóng vô tuyến, có thể chạy vèo vèo xung quanh. Vài người Iraq làm việc ở căn cứ quân sự dường như chưa bao giờ thấy thứ gì giống như vậy. Tôi điều khiển chiếc xe về phía họ và họ kêu thét lên rồi ù té chạy. Tôi không biết có phải họ nghĩ đó là một loại tên lửa điều khiển từ xa hay thứ gì đó đại loại như vậy không. Tiếng họ kêu thất thanh cùng với việc bỏ chạy cuống cuồng theo chiều ngược lại, làm tôi khoái gấp đôi. Kiểu phấn khích rẻ tiền này ở Iraq là vô giá.
Một số người làm việc cho chúng tôi không phải là những người ưu việt, và không phải tất cả bọn họ đều đặc biệt ưa thích người Mỹ.
Họ tóm được một gã thủ dâm vào đồ ăn của chúng tôi.
Ngay lập tức hắn được hộ tống khỏi căn cứ. Người đứng đầu đã ra lệnh đó, chính là các sĩ quan chỉ huy của chúng tôi, họ biết rằng ngay sau khi đám lính phát hiện ra những việc hắn đã làm, có lẽ sẽ có người tìm cách giết hắn.
Chúng tôi đóng ở hai trại khác nhau ở Kuwait: Ali Al-Salem và Doha. Tiện nghi ở cả hai trại đều chỉ là những thứ tối thiểu mà thôi.
Doha là một căn cứ lớn của quân đội Mỹ và đóng vai trò quan trọng trong cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ Nhất và có thể cả lần thứ hai nữa. Chúng tôi được giao quản lý một kho hàng ở đây và các phòng lắp ghép sẵn với sự giúp đỡ của các Seabee (Công binh Hải quân), các kỹ sư chiến đấu trong Hải quân. Sau này chúng tôi sẽ còn nhờ cậy các Seabee với sự hỗ trợ tương tự.
Ít nhất đối với chúng tôi, Ali al-Salem thậm chí còn hoang sơ hơn. Tại đó chúng tôi có một cái lều và một giá kệ lắp ghép; chỉ có thế mà thôi. Tôi nghĩ, sức mạnh tạo nên SEAL là không có nhiều nhu cầu lắm.
Lần đầu tôi tận mắt thấy trận bão cát sa mạc là ở Kuwait. Ngày đột nhiên trở thành đêm. Cát cuộn xoáy khắp nơi. Từ xa bạn có thể thấy cuộn mây lớn màu vàng nâu tiến về phía mình. Rồi đột nhiên, nó chuyển thành màu đen và bạn cảm thấy như mình đang ở giữa đường hầm xoắn tít, hoặc có thể như chu trình xả của một loại máy giặt kỳ quái dùng cát thay cho nước.
Tôi nhớ đang ở trong nhà chứa máy bay, ngay cả khi cửa đã được đóng chặt, không thể tin nổi là vẫn có hàng đống bụi trong không khí. Cát là những hạt nhỏ mịn mà bạn chẳng bao giờ muốn bị nó rơi vào mắt, vì nó sẽ không bao giờ rơi ra. Chúng tôi nhanh chóng học cách đeo kính bảo hộ để bảo vệ mắt; kính râm không có tác dụng gì.
TAY SÚNG 60Là lính mới, tôi được giao khẩu súng 60.
Tôi chắc nhiều người hiểu rằng “60” ở đây ám chỉ đến khẩu súng máy đa dụng M-60, một loại vũ khí có băng đạn đeo quanh thắt lưng đã phục vụ cho quân đội Hoa Kỳ với vô số phiên bản trong nhiều thập niên qua.
Khẩu súng M-60 được phát triển trong những năm 1950. Nó dùng loại đạn 7.62mm; thiết kế linh hoạt khiến nó có thể được dùng làm súng máy cơ bản trong xe bọc thép và trực thăng, và cũng là một loại vũ khí hạng nhẹ, có thể mang theo người để sử dụng cho cấp tiểu đội. Nó là con ngựa chiến trong chiến tranh Việt Nam, ở đó đám lính bộ binh Mỹ gọi nó là “con lợn” và đôi khi chửi rủa nòng súng nóng quá buộc phải đeo găng tay phủ a-mi-ăng để thay sau khi bắn hàng trăm đợt, rất bất tiện trong chiến đấu.
Hải quân đã có những cải tiến đáng kể đối với vũ khí này trong những năm qua, và nó vẫn là loại hỏa lực mạnh. Thực tế, mẫu mới nhất của loại súng này đã được cải tiến nhiều đến mức được xếp vào một loại khác hẳn: Hải quân gọi nó là Mk-43 Mod 0. (Một số người tranh cãi rằng nó phải được coi là một vũ khí hoàn toàn riêng biệt; tôi chẳng hơi đâu mà nhảy vào cuộc tranh cãi đó.) Nó tương đối nhẹ, trọng lượng chỉ khoảng mười kilôgam và nòng súng hơi ngắn. Nó có hệ thống rãnh trượt cho phép gắn ống ngắm và những thứ tương tự vào.
Gần đây trong quân đội vẫn đang sử dụng các loại súng M-240, M-249 và Mk-46, và một biến thể của loại súng M-249.
Theo quy định chung, các loại súng máy do những tay súng mang theo trong trung đội tôi thường được gọi là các tay súng 60, ngay cả khi chúng là loại súng hoàn toàn khác như Mk-48. Chúng tôi càng ngày càng dùng loại Mk-48 nhiều hơn trong thời gian tôi đóng quân ở Iraq, trừ phi nó có ý nghĩa quan trọng vì lý do nào đó, còn không tôi sẽ gọi bất kỳ khẩu súng máy nào dùng cho nhóm là một khẩu 60 và để cho kẻ khác phân loại chúng.
Cái tên khôi hài cũ “con lợn” đặt cho loại súng 60 vẫn tồn tại, khiến rất nhiều tay súng 60 được gọi là những con lợn, hoặc một biến thể đầy sáng tạo nào đó; ở trung đội chúng tôi, một anh bạn tên Bob đã bị gắn với cái tên này.
Tên này chưa bao giờ bị gắn cho tôi. Biệt danh của tôi là “Tex”, một trong những điều dễ chấp nhận hơn khi bị mọi người gọi lên trong tập thể.
Khi chiến tranh là điều khó tránh khỏi, chúng tôi bắt đầu tuần tra dọc biên giới Kuwait, đảm bảo rằng phía Iraq không tìm cách lẻn qua tiến hành một cuộc tấn công đón đầu. Chúng tôi cũng bắt đầu huấn luyện cho vai trò trong cuộc chiến sắp tới.
Điều đó có nghĩa là dành thời gian chủ yếu trên những chiếc DPV, còn được gọi là những chiếc xe leo cồn cát của SEAL.
DPV viết tắt của “Desert Patrol Vehicles” - Xe Tuần tra Sa mạc, nhìn từ xa cực ngầu, và chúng được trang bị tốt hơn nhiều so với chiếc ATV[*] loại trung thông thường. Có một khẩu súng máy nòng 50 li và một súng phóng lựu Mk-19 đặt phía trước cùng một khẩu M-60 ở phía sau. Rồi đến các hỏa tiễn LAW, các vũ khí chống tăng bắn phát một, vốn đều là những “hậu duệ” của các loại súng ba-dô-ca và Panzerfaust[*] trong Thế chiến 2. Hỏa tiễn được đặt trên giá đỡ đặc biệt hình ống phía trên cao. Thêm một yếu tố “ngầu” nữa là bộ ăng-ten đặt trên nóc mỗi chiếc xe với một chiếc ăng-ten râu nhìn như dái lừa ngay bên cạnh.
Chu thich: Viết tắt của All Terrain Vehicle: loại xe địa hình bốn bánh, có khả năng chạy trên mọi địa hình từ vượt núi tới băng qua đầm lầy, sông nước.
Chu thich: Một loại súng phóng lựu chống tăng vác vai được sử dụng từ Thế chiến 2 ban đầu bởi Quân đội Đức, với cấu tạo vô cùng đơn giản và tầm bắn rất ngắn (khoảng 30m), sau này đã được cải tiến dần dần bằng những bộ đánh lửa mạnh hơn để nâng tầm bắn lên 60, 100, 150 hay thậm chí là 250m.
Trên thực tế, tất cả các bức hình các bạn xem về DPV đều đang bay vút qua một cồn cát và bật bánh xe lên khỏi mặt đất. Thật là một bức hình quá sức ấn tượng.
Rủi thay, nó chỉ là thế thôi, một bức hình không hơn. Không phải sự thật.
Theo tôi hiểu, các DPV đều dựa trên một thiết kế đã được dùng trong các cuộc đua ở Bajar[*]. Khi bỏ hết các phụ kiện ra, không nghi ngờ gì chúng chính là bản gốc. Vấn đề là chúng tôi không lái các DPV trần trụi. Với tất cả các món quân cụ đó, chúng tôi đã mang thêm một lượng nặng đáng kể. Rồi quân trang của chúng tôi, nước và thực phẩm cần thiết để sống vài ngày trong sa mạc. Xăng dự trữ. Chưa kể đến bộ ba SEAL được trang bị đầy đủ gồm: lái xe, hoa tiêu và tay súng “con lợn” nữa.
Chu thich: Cuộc đua xe địa hình diễn ra ở Baja California, một bán đảo nằm phía Tây Bắc nước Mexico.
Và trong trường hợp của chúng tôi, còn một lá cờ Texas bay phấp phới phía sau nữa. Cả chỉ huy và tôi đều là người Texas khiến cho lá cờ trở thành một phụ kiện bắt buộc.
Trọng tải tăng thêm nhanh chóng. Những chiếc DPV dùng một động cơ Volkswagen nhỏ, theo kinh nghiệm của tôi thì là một đồ bỏ đi. Nó có thể dùng tốt trong ô tô, hoặc có thể dùng cho xe leo cồn cát không phải chiến đấu. Nhưng nếu chúng tôi đi xe trong hai hoặc ba ngày, rồi kết cục chúng tôi cũng mất từng đó thời gian để sửa chữa khi chúng tôi trở về. Chắc chắn, có gì đó kiểu như chế hòa khí đã bị hỏng. Chúng tôi phải tự làm công việc bảo dưỡng. Rất may trong trung đội tôi có một thợ máy có bằng kỹ sư cơ khí của Hội Kỹ sư Dân dụng Hoa Kỳ (American Society of Civil Engineers - ASCE), và anh ta lĩnh trách nhiệm đảm bảo cho xe cộ chạy tốt.
Nhưng hạn chế lớn nhất của đám xe cộ là thực chất chúng đều là loại xe hai cầu. Đây là vấn đề rất lớn nếu mặt đất có chút ẩm ướt. Chừng nào chúng tôi cứ giữ cho xe đi thì thường là sẽ ổn, nhưng nếu chúng tôi dừng xe lại, chúng tôi gặp rắc rối ngay. Chúng tôi liên tục phải đào bới chúng khỏi cát ở Kuwait.
Chúng là một luồng gió khi đã chạy. Là tay súng, tôi có chỗ ngồi trên cao đằng sau lái xe và hoa tiêu đang ngồi cạnh nhau phía dưới tôi. Đeo kính đạn đạo chiến thuật và đội loại mũ dùng trên trực thăng, tôi tự cột mình vào dây chằng qua năm điểm và cố giữ như vậy khi chúng tôi phóng qua sa mạc. Chúng tôi chạy với tốc độ khoảng 112 ki lô mét một giờ. Tôi cho nổ vài phát đạn bằng khẩu súng máy 50 li[*], rồi kéo cần điều khiển bên cạnh ghế ngồi và xoay một vòng hướng ra phía sau. Lúc đó tôi chộp lấy khẩu M-60 và bắn thêm vài phát nữa. Nếu chúng tôi cảm thấy có thể có một cuộc tấn công từ phía bên sườn trong khi xe đang chạy, tôi sẽ nắm chắc khẩu M-4 I đang mang theo và bắn về hướng đó.
Chu thich: Nguyên văn là khẩu “.50-cal”: viết tắt của.50 Caliber machine gun, loại súng máy hạng nặng nổi tiếng của Mỹ, còn được gọi là Browning M2 hay M2HB.
Bắn súng máy hạng nặng thật là khoái!
Nhắm vào một gã điên phiến loạn trong khi xe đang nhảy chồm chồm lên xuống trên sa mạc lại là một chuyện khác. Bạn có thể nâng súng lên hay hạ xuống để nhằm cho trúng mục tiêu, nhưng bạn chẳng bao giờ nhắm chính xác được, tốt nhất là nã cả đống đạn thì mới hòng thoát khỏi đó.
Ngoài bốn chiếc DPV có ba chỗ ngồi ra, chúng tôi có hai xe sáu chỗ ngồi. Loại xe sáu ghế là mẫu đơn giản nhất, xe có ba hàng ghế, mỗi hàng hai chỗ, chỉ có một khẩu 60 duy nhất ở đằng trước. Chúng tôi dùng chiếc xe này làm xe chỉ huy và kiểm soát. Một cuộc chạy xe buồn chán. Kiểu như ngồi trong một chiếc xe chở hàng với Mẹ, còn Bố thì cưỡi xe thể thao.
Chúng tôi tập luyện trong vài tuần. Chúng tôi thực hiện vô vàn các cuộc tuần tra trên cạn, dựng chòi quan sát kín và làm các việc theo dõi và trinh sát (“surveillance and reconnaissance” - SR) dọc biên giới. Chúng tôi đào sâu để giấu những chiếc xe, phủ những tấm lưới lên, làm mọi cách cho chúng biến mất giữa sa mạc. Điều đó không hề dễ dàng gì đối với một chiếc DPV: thông thường thì rốt cuộc sẽ giống hệt một chiếc DPV đang cố giấu mình giữa sa mạc. Chúng tôi cũng tập luyện việc triển khai các DPV khỏi trực thăng, lái vọt ra từ phía sau và khi chúng tiếp đất thì hệt một rodeo trên những bánh xe.
Khi Tháng một sắp kết thúc, chúng tôi bắt đầu lo lắng, không phải vì chiến tranh sắp nổ ra, mà là cuộc chiến có thể bắt đầu mà không có chúng tôi. Cuộc dàn quân thông thường của SEAL khi đó mất sáu tháng. Chúng tôi được gửi đi từ tháng Chín, và luân phiên nhau trở về Mỹ trong vài tuần.
Tôi muốn xung trận. Tôi muốn làm những gì mà tôi đã được huấn luyện để làm. Những người Mỹ nộp thuế đã đổ cả đống tiền cho việc dạy dỗ tôi thành một SEAL. Tôi muốn bảo vệ đất nước tôi, làm nhiệm vụ của tôi, và làm công việc của tôi.
Hơn bất cứ điều gì, tôi muốn được trải nghiệm cảm giác mạnh của cuộc chiến.
Taya lại nhìn mọi việc theo một cách rất khác.
TAYA:
Tôi rất sợ trong suốt thời gian tăng cường lực lượng cho cuộc chiến. Cho dù chiến tranh chưa chính thức nổ ra, tôi biết họ đang tiến hành những chiến dịch nguy hiểm. Khi các SEAL hoạt động, luôn liên quan đến mạo hiểm. Chris cố làm cho mọi việc bớt nghiêm trọng đi để tôi không lo lắng, nhưng tôi đâu có mù tịt và tôi có thể đoán được mà. Nỗi lo lắng của tôi xuất hiện dưới nhiều cách khác nhau. Tôi thường hay giật mình. Tôi thấy những thứ mà thực tế không hề tồn tại. Tôi không tài nào ngủ nổi nếu không để đèn sáng; tối nào tôi cũng đọc sách cho đến khi mắt tự nhiên nhắm Lại. Tôi làm mọi việc có thể để tránh bị ở một mình hay có quá nhiều thời gian suy nghĩ.
Chris gọi cho tôi hai lần kể về tai nạn của chiếc trực thăng mà anh ở trong đó. Nhưng cả hai vụ đó đều rất nhỏ, nhưng anh lo người ta sẽ đưa tin và nếu nghe thấy về vụ tai nạn đó tôi sẽ lo lắng.
“Anh chỉ muốn em biết, phòng khi em nghe tin đó trong chương trình thời sự,” anh nói. “Chiếc trực thăng chỉ bị tai nạn nhẹ thôi, anh vẫn ổn.”
Có một hôm anh nói với tôi rằng anh phải tham gia một buổi huấn luyện trên trực thăng khác. Sáng hôm sau, tôi đang theo dõi thời sự thì người ta đưa tin một chiếc trực thăng đã bị rơi gần biên giới và tất cả đều đã chết. Phát thanh viên nói rằng chiếc máy bay chở đầy lính thuộc lực lượng đặc biệt.
Trong quân sự, “Lực lượng Đặc biệt” thường ám chỉ lực lượng hoạt động đặc biệt thuộc Bộ binh, nhưng phát thanh viên có xu hướng dùng thuật ngữ chỉ các SEAL. Ngay lập tức, tôi vội vã kết luận.
Từ hôm đó tôi không biết tin gì về anh nữa, mặc dù anh đã hứa sẽ gọi cho tôi.
Tôi tự nhủ với mình là sẽ không hoảng loạn. Đó không phải là anh.
Tôi lao vào công việc. Tối hôm đó, vẫn không có cuộc gọi nào, tôi bắt đầu thấy lo lo... Rồi có chút hoang mang. Tôi không thể nào ngủ được, dù tôi làm việc đến mệt lử và cố ghìm nước mắt chặn đứng mối dọa nạt đang tìm cách vượt qua bất cứ cảm giác bình tĩnh nào mà tôi đang vờ vĩnh.
Cuối cùng, khoảng một giờ sáng, tôi bắt đầu cảm thấy tan nát.
Điện thoại réo. Tôi nhảy bổ ra nhấc máy.
“Chào cưng!” anh nói, vui vẻ như thường.
Tôi bắt đầu khóc lóc om sòm.
Chris vẫn hỏi có việc gì vậy. Tôi không thốt ra được lời nào để giải thích. Nỗi lo sợ và tâm trạng nhẹ nhõm của tôi đã biến thành những tiếng nức nở không thể nào giải thích được.
Sau đó, tôi thề sẽ không xem thời sự nữa.