← Quay lại trang sách

Chương 4 CÒN NĂM PHÚT ĐỂ SỐNG-*-ĐỪNG LẪN XE LEO CÁT VỚI XE LỘI BÙN

Nai nịt và thắt dây an toàn, tôi ngồi lắc lư trên ghế xạ thủ của chiếc DPV ngay sau khi màn đêm buông xuống ngày 20 tháng Ba năm 2003, khi chiếc máy bay MH-53 của Lực lượng Không quân cất cánh rời đường băng ở Kuwait. Xe DPV được chất lên phía sau của chiếc máy bay PAVE-Low, chúng tôi đang trên đường thực thi nhiệm vụ mà chúng tôi đã diễn tập mấy tuần qua. Sự chờ đợi cuối cùng cũng kết thúc; Chiến dịch Giải phóng Iraq[*] đang diễn ra.

Chu thich: Chiến dịch này vốn là cuộc tấn công Iraq kéo dài từ ngày 20 tháng Ba tới ngày 1 tháng Năm năm 2003 của liên quân Mỹ, Anh, Úc và Ba Lan; được phía người Mỹ gọi là “Operation Iraqi Freedom” - Chiến dịch Giải phóng Iraq.

Rốt cuộc, cuộc chiến của tôi đã ở đây.

Tôi toát mồ hôi không chỉ vì phấn khích. Không biết chính xác Saddam cất giữ những gì, chúng tôi đã được lệnh phải mặc đầy đủ đồ bảo hộ MOPP (Mission Oriented Protective Posture) hay một số người gọi là bộ đồ du hành vũ trụ. Bộ đồ bảo hộ chống lại được các cuộc tấn công bằng hóa học, nhưng nó cũng thoải mái không kém bộ đồ ngủ bằng cao su, còn mặt nạ chống khí độc đi kèm với nó thì lại kém xa.

“Đang trên biển!” Ai đó thông báo qua điện đài.

Tôi kiểm tra súng ống. Tất cả đã sẵn sàng, gồm cả khẩu 50. Tất cả những gì tôi phải làm là mở khóa nòng và lên đạn.

Chúng tôi được đưa thẳng ra phía sau chiếc trực thăng. Chiếc thang dốc leo lên cửa sau không còn dựng đứng nữa, nên tôi có thể nhìn ra ngoài màn đêm. Bỗng nhiên, tôi thấy một dải màu đen phía trên mép thang có những đốm đỏ, phía Iraq đã kích hoạt hệ thống ra-đa và vũ khí phòng không mà bên tình báo khăng khăng rằng chúng không hề tồn tại, các phi công bắt đầu bắn pháo sáng ngụy trang để đánh lạc hướng và làm nhiễu hệ thống này.

Thế rồi những luồng pháo sáng và đạn bắn theo hình cầu vồng ngang qua ô chữ nhật chật hẹp màu đen.

Mẹ kiếp, tôi nghĩ. Chúng tôi sẽ bị bắn hạ trước cả khi tôi có cơ hội phát hiện ra một tên nào đó.

Không biết vì sao bọn Iraq tìm cách tránh chúng tôi. Chiếc trực thăng tiếp tục bay rồi sà xuống mặt đất.

“Bay trên đất liền!” Ai đó lại thông báo qua điện đài. Bây giờ chúng tôi đang bay trên đất liền.

Tất cả đang vượt khỏi tầm kiểm soát. Chúng tôi nằm trong một nhóm được giao nhiệm vụ tấn công vào các nguồn dầu lửa của Iraq trước khi phía Iraq có thể làm nổ tung hoặc phóng hỏa chúng như đã làm trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc năm 1991. Lực lượng SEAL và GROM đã đánh vào các giàn khoan dầu khí (Gas and Oil Platform - GOPLAT) ở Vùng Vịnh cũng như nhà máy lọc dầu trên bờ và cảng biển.

Mười hai người chúng tôi có nhiệm vụ tấn công sâu vào trong đất liền, ở khu vực nhà máy lọc dầu al-Faw. Chúng tôi phải mất thêm vài phút để bay vào một nơi chết tiệt toàn tiếng đại bác. Và khi chiếc trực thăng hạ cánh, chúng tôi đã ở trong một mớ bòng bong.

Thang dốc mở xuống và lái xe của chúng tôi nhấn ga. Tôi đã bật chốt an toàn và lên đạn, sẵn sàng nổ súng khi xe chúng tôi lao nhanh xuống cầu thang sau. Chiếc DPV lao vào chỗ lội... và ngay lập tức sa lầy.

Chó đẻ thật!

Người lái xe bắt đầu rồ máy và dồn số liên tục, cố gắng đưa chúng tôi thoát khỏi chỗ đó. Ít nhất thì chúng tôi đã rời khỏi chiếc trực thăng, một trong số những chiếc DPV còn lại bị mắc kẹt trên cầu thang. Khẩu 53 của nó giật lên giật xuống cố gắng trong tuyệt vọng để gỡ chiếc xe ra, đám phi công thì sợ bị bắn thôi rồi, bọn họ muốn thoát ngay lập tức.

Lúc này, tôi có thể nghe thấy các đơn vị DPV khác đang điểm quân và báo cáo qua điện đài. Chỉ có điều tất cả đều bị kẹt trong vũng bùn ướt đẫm dầu lửa. Các chuyên gia tình báo đã báo tin cho chúng tôi quả quyết rằng vùng đất mà chúng tôi sắp đổ bộ sẽ se mặt. Tất nhiên, cô ta và đám cộng sự cũng đã khăng khăng rằng phía Iraq không có vũ khí phòng không. Như người ta thường nói, tình báo quân sự rất oái oăm.

“Chúng tôi bị sa lầy!” Chỉ huy của chúng tôi nói.

“Vâng, chúng tôi cũng kẹt,” viên thiếu úy đáp lời.

“Chúng tôi cũng vậy,” ai đó nói.

“Mẹ kiếp, chúng ta phải ra khỏi đây thôi.”

Chỉ huy ra lệnh, “Được rồi, mọi người hãy rời xe và về vị trí của mình.”

Tôi cởi bộ áo giáp năm khuy bấm, tóm lấy khẩu 60 ở phía sau rồi vác lên vai đi về hướng hàng rào dùng để phong tỏa nhà máy lọc dầu. Công việc của chúng tôi là bảo vệ chiếc cổng ra vào, đâu phải không có xe là đồng nghĩa với việc chúng tôi không làm được việc đó.

Tôi tìm được một đống gạch vụn ngay tại cổng và đặt khẩu 60. Một gã tiến lại ngay cạnh tôi cùng một khẩu Carl Gustav[*]. Về mặt kỹ thuật, một khẩu súng trường không giật phóng ra một quả phi tiễn loại khủng có thể làm nổ tung một chiếc xe tăng, hay chọc thủng một lỗ lớn trong một tòa nhà. Không có gì qua được cổng đó nếu không có sự đồng ý của chúng tôi.

Chu thich: Một loại súng trường không giật, để phóng lựu chống tăng, được sản xuất đầu tiên ở Thụy Điển năm 1946, hiện tại được sử dụng phổ biến trong lực lượng quân đội Anh, Mỹ.

Phía Iraq đã thiết lập một vành đai phòng thủ bên ngoài nhà máy lọc dầu. Vấn đề duy nhất với bọn chúng là chúng tôi đã hạ cánh vào bên trong. Giờ chúng tôi đang ở giữa chúng và nhà máy lọc dầu, hay nói cách khác chúng tôi ở phía sau vị trí đóng quân của bọn chúng.

Bọn chúng không hề thích điều đó. Chúng quay lại và bắt đầu bắn chúng tôi.

Ngay khi nhận thấy chúng tôi không còn bị tấn công bằng khí độc nữa, tôi đã bỏ mặt nạ chống khí ra. Tôi đáp trả bằng khẩu súng 60 của tôi, tôi có rất nhiều mục tiêu, thực ra là quá nhiều. Chúng tôi đã bị áp đảo về mặt quân số. Nhưng đó không phải là vấn đề lớn. Chúng tôi đã gọi không quân hỗ trợ. Chỉ trong vài phút, tất cả các loại máy bay đã ở ngay trên đầu chúng tôi: F/A-18, F-16, A-10A, thậm chí cả pháo đài bay AC-130.

Những chiếc máy bay A-10 của Lực lượng Không quân, thường được biết đến với cái tên “Warthog” (Lợn rừng châu Phi) quả là tuyệt vời. Đó là những chiếc máy bay phản lực bay chậm theo chủ ý, chúng được thiết kế để bay thấp và chậm để có thể xả lượng đạn tối đa vào các mục tiêu dưới mặt đất. Ngoài bom và tên lửa ra, loại máy bay này còn được trang bị một khẩu pháo Gatling tự động nòng xoay cỡ 30mm. Những khẩu Gatling này đã nhai sạch cả đống quân thù đêm đó. Phía Iraq điều thêm xe bọc thép từ thành phố để tấn công chúng tôi, nhưng chúng không bao giờ tiếp cận được. Đã đến lúc bọn Iraq nhận ra rằng chúng bị ăn đòn và tìm cách tháo chạy.

Thật là một sai lầm lớn. Tháo chạy khiến cho bọn chúng dễ bị phát hiện hơn. Những chiếc máy bay tiếp tục bay đến, ghìm bọn chúng lại và nã súng vào bọn Iraq hết đạt này đến đợt khác. Ta sẽ nghe thấy tiếng từng đợt máy bay vụt qua đầu mình trên không trung, ùùùuuuuuu, rồi ta nghe thấy tiếng vọng lại, ầmmmmmm, theo sau rất sát là những tiếng nổ hòa theo và tiếng của bất kỳ sự tàn phá nào khác do loạt đạn gây ra.

Mẹ kiếp, tôi tự nhủ, điều này thật tuyệt. Mình thích đếch chịu được. Thật là căng thẳng và phấn khích nhưng mình mới thích nó làm sao.

NHIỄM KHÍ ĐỘC

Một đơn vị lính Anh bay đến vào buổi sáng. Lúc bấy giờ chiến sự đã kết thúc. Tất nhiên chúng tôi không thể cưỡng lại việc châm chọc bọn họ về điều đó.

“Cứ vào đi. Trận đánh đã xong rồi,” chúng tôi nói. “Các anh an toàn rồi đấy.”

Tôi không nghĩ là họ thấy nó hay ho gì, nhưng thật là khó nói. Họ nói một thứ tiếng Anh rất buồn cười. Kiệt sức, chúng tôi quay trở lại bên trong cổng, đến một ngôi nhà đã bị phá hủy gần hết trong trận bắn nhau. Chúng tôi đi vào trong cán nhà đổ nát, lăn ra giữa những đống gạch vỡ rồi ngủ thiếp đi.

Vài giờ sau tôi tỉnh dậy. Đồng đội của tôi cũng lần lượt bị đánh thức dậy. Chúng tôi đi ra ngoài và bắt đầu tuần tra vành đai của giếng dầu. Khi đi ra ngoài, chúng tôi phát hiện một số vũ khí phòng không mà phía Iraq không có. Nhưng báo cáo của bên tình báo không cần phải cập nhật nữa, những vũ khí phòng không này chẳng còn lành lặn để quấy nhiễu bất kỳ ai nữa.

Xác chết la liệt khắp mọi nơi. Chúng tôi nhìn thấy một tên bị bắn tan đít đúng như nghĩa đen của từ này. Hắn bị mất máu đến chết, trước khi hắn ta tự lê mình ra xa khỏi tầm của những chiếc máy bay. Anh có thể thấy vệt máu kéo dài trong bụi bẩn.

Trong khi chúng tôi đang giải quyết mọi chuyện, tôi phát hiện ra một chiếc xe Toyota bán tải đậu ở phía xa. Nó đang chạy trên đường và dừng lại cách chúng tôi chừng hơn 1,5 ki lô mét.

Những chiếc xe bán tải dân sự màu trắng đã được bọn Iraq sử dụng như xe quân sự trong suốt cuộc chiến tranh. Thường chúng là phiên bản của chiếc Toyota Hilux, loại xe bán tải nhỏ gọn có nhiều kiểu dáng khác nhau. (Ở Mỹ, xe Hilux thường được gọi với cái tên SR5; cuối cùng thì mẫu này đã dừng bán ở Mỹ, nhưng nó vẫn tiếp tục được bán ở nước ngoài.) Không chắc chuyện gì đang diễn ra, chúng tôi vẫn theo dõi chiếc xe tải vài phút cho đến khi nghe thấy một tiếng phụt.

Có gì đó rơi bộp xuống cách chỗ chúng tôi một vài mét. Bọn Iraq đã nã một viên pháo cối từ mé sau xe. Nó chìm nghỉm vào một vũng ngập ngụa dầu mà không hề phát nổ.

“Ơn Chúa là thứ đó đã không nổ,” ai đó đã nói: “Tụi mình mém chết.”

Khói trắng bắt đầu bốc lên từ cái hố nơi viên đạn rơi xuống.

“Khí độc!” ai đó hét lên.

Chúng tôi bắt đầu thục mạng về phía cổng. Nhưng ngay khi chúng tôi đến cổng những tên lính gác cổng người Anh đã đóng sầm cửa lại và không chịu mở ra.

“Các anh không thể vào!” Một tên trong số họ hét toáng lên. “Các anh bị trúng khí độc rồi.”

Trong khi chiếc máy bay Cobras của Lính thủy đánh bộ bay phía trên để xử lý những chiếc xe tải chở súng cối thì chúng tôi cố nghĩ xem liệu mình có chết không.

Vài phút sau, khi thấy mình vẫn còn thở được, chúng tôi nhận ra đó chỉ là khói, chỉ là khói mà thôi. Mà cũng có thể là hơi nước bốc lên từ đống bùn. Bất kể là gì, nó chỉ là tiếng kêu lèo xèo, không phát nổ cũng chẳng có khí độc nào cả.

Thật là nhẹ hết cả người.

SHATT AL-ARAB

Với việc nhà máy lọc dầu Al-Faw đã được an toàn, chúng tôi dựng lại hai chiếc DPV và lên đường, hướng về phía Bắc tới Shatt al-Arab, con sông ngăn cách Iran và Iraq khi chảy ra Vùng Vịnh. Công việc của chúng tôi là tìm kiếm những con thuyền tấn công tự sát và những kẻ gài mìn có thể đang xuôi theo dòng sông hướng ra Vùng Vịnh. Chúng tôi tìm được một đồn biên phòng cũ bị bọn Iraq bỏ hoang để lập một trạm quan sát.

Quy tắc Tham chiến của chúng tôi khi cuộc chiến xảy ra khá đơn giản: Nếu anh thấy bất cứ người nào độ tuổi khoảng từ 16 đến 65 và là đàn ông, bắn chúng đi. Hãy giết bất kể thằng đàn ông nào anh gặp.

Đó không phải là cách nói chính thức nhưng ý tưởng thì là như vậy. Tuy nhiên, giờ đây chúng tôi đang theo dõi tình hình Iran, chúng tôi phải tuân thủ nghiêm ngặt mệnh lệnh không được nổ súng, ít nhất là đối với Iran.

Hằng đêm có ai đó đứng bên kia bờ sông và bắn về phía chúng tôi. Chúng tôi sẽ báo cáo nghiêm túc tình hình và xin phép được nổ súng đáp trả. Câu trả lời luôn dứt khoát là “KHÔNG!”, rất to và rõ ràng.

Nhìn lại thì thấy điều này thật có lý. Vũ khí hạng nặng của chúng tôi chỉ là một khẩu Carl Gustav và hai khẩu 60. Phía Iran có cả đống pháo và đều được quay nòng về phía chúng tôi. Chúng tôi chẳng làm bất cứ hành động gì để chúng tấn công chúng tôi. Thực tế thì điều bọn chúng đang làm là cố dụ chúng tôi vào một cuộc chiến để có thể giết chúng tôi.

Thế nhưng việc này làm chúng tôi tức giận. Khi có ai đó bắn vào bạn, bạn muốn bắn trả.

Sau khi kết thúc giai đoạn đỉnh điểm khỏi đầu cuộc chiến, tinh thần cúa chúng tôi chùng hẳn xuống. Chúng tôi chỉ ngồi chơi quanh quẩn chẳng biết làm gì. Một gã có cái máy quay video và chúng tôi đã quay một video để tiêu khiển. Chẳng có gì mà làm. Chúng tôi tìm được vài thứ vũ khí của bọn Iraq rồi tập kết lại thành một đống và đặt mìn phá hủy. Nhưng chỉ có thế thôi. Phía Iraq không điều thuyền về hướng chúng tôi nữa, còn bọn Iran chỉ bắn lẻ tẻ từng phát rồi té đi và đợi chúng tôi phản ứng. Thú giải trí hứng thú nhất mà chúng tôi có thể làm là lội xuống nước và tè về hướng bọn chúng.

Trong vòng một tuần chúng tôi thay phiên nhau canh gác - cứ hai người trực thì bốn người được nghỉ - theo dõi điện đài và quan sát mặt nước. Cuối cùng, một đội biệt kích SEAL khác đổi phiên cho chúng tôi, còn chúng tôi quay trở về Kuwait.

CUỘC ĐUA ĐẾN BAGHDAD

Còn bây giờ, cái được gọi là cuộc đua đến Baghdad đã bắt đầu. Các đơn vị của Mỹ và đồng minh rầm rập vượt qua biên giới, thực hiện những cuộc chuyển quân lớn mỗi ngày.

Chúng tôi có mấy ngày quanh quẩn trong doanh trại ở Kuwait để đợi nhiệm vụ. Cũng gây nản lòng như những ngày chúng tôi ở trạm vùng biên giới, việc này còn tệ hơn. Chúng tôi muốn chiến đấu. Có đầy nhiệm vụ mà chúng tôi có thể hoàn thành, ví dụ như tiêu diệt một số hệ thống phòng không được cho là “không tồn tại” nằm sâu trong biên giới Iraq, nhưng dường như ban chỉ huy không muốn sử dụng chúng tôi.

Việc dàn quân của chúng tôi đã được mở rộng vì vậy chúng tôi có thể tham gia vào việc khởi đầu cuộc chiến. Nhưng nay có tin đồn là chúng tôi sẽ quay trở lại Hoa Kỳ theo chế độ luân phiên và được Đội 5 thay thế. Không ai muốn rời khỏi Iraq lúc này khi chiến sự ngày càng nóng bỏng. Tinh thần sa sút hoàn toàn. Bọn tôi đều cáu điên.

Để đối phó, bọn Iraq đã điều động một số tên lửa Scud ngay trước khi cuộc chiến nổ ra. Hầu hết trong số đó đều bị tên lửa Patriot của chúng tôi xử lý, nhưng một quả đã lọt qua. Bạn không biết nó đã xóa sổ quán cà phê Starbucks nơi chúng tôi từng tụ bạ ở giai đoạn huấn luyện trước cuộc chiến thế nào đâu.

Đánh vào một quán cà phê quả là một điều tệ hại. Tôi nghĩ sự việc có thế đã còn tồi tệ hơn. Đó có thể là một quán Dunkin’ Donuts chẳng hạn.

Có một chuyện vui là Tổng thống Bush chỉ tuyên bố chiến tranh khi quán cà phê Starbucks bị tấn công. Bạn có thể gây rối với Liên Hiệp Quốc bất cứ chuyện gì, nhưng khi bạn bắt đầu tính chuyện can thiệp vào quyền uống cà phê thì có người phải trả giá.

Chúng tôi ngồi không trong ba hay bốn ngày, cằn nhằn và thất vọng suốt. Rồi rốt cuộc chúng tôi được nhập vào cuộc tấn công của Lực lượng Lính thủy đánh bộ ở khu vực Nasiriya. Chúng tôi trở lại cuộc chiến.

GẦN NASIRIYA

NASIRIYA LÀ MỘT THÀNH PHỐ TRÊN SÔNG EUPHRATES PHÍA Nam Iraq, khoảng 200 ki lô mét từ phía Tây Bắc Kuwait. Lính thủy đánh bộ đã chiếm được thành phố này vào ngày 31 tháng Ba, nhưng chiến sự trong khu vực tiếp tục thêm một thời gian nữa, vì một vài nhóm lính Iraq và Fedayeen vẫn tiếp tục kháng cự và tấn công người Mỹ. Khu vực này gần Nasiriya nơi binh nhì Jessica Lynch[*] bị bắt giữ trong suốt những ngày đầu của cuộc chiến.

Chu thich: Jessica Dawn Lynch (sinh ngày 26/4/1983) là cựu quân nhân Mỹ tham gia trong cuộc chiến của Hoa Kỳ và quân đồng minh ở Iraq. Ngày 23/3/2003, Lynch bị thương nặng khi đơn vị hộ tống của cô bị lực lượng Iraq phục kích trong Trận Nasiriyah. Sau đó, cô đã được Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ giải cứu thành công ngày 01/4/2003.

Một số nhà sử học tin rằng đây là vùng chiến sự ác liệt nhất mà Lính thủy đánh bộ từng tham gia trong suốt Chiến dịch giải phóng Iraq, so với những trận chiến ác liệt ở Việt Nam và ở Fallujah sau này. Ngoài thành phố này, Lính thủy đánh bộ còn chiếm được sân bay Jalibah, một số cầu bắc qua sông Euphrates, đường cao tốc và các thị trấn để đảm bảo an toàn cho hành lang tiếp cận Baghdad trong giai đoạn đầu của chiến tranh. Trên đường hành quân họ cũng đụng độ với bọn phiến loạn cuồng tín, những kẻ tạo nên đặc tính của cuộc chiến tranh sau khi Baghdad thất thủ.

Chúng tôi giữ một vai trò cực kỳ nhỏ trong cuộc xung đột ở đó. Dù chúng tôi tham gia vào một số trận đánh rất ác liệt, nhưng các trận đánh chủ yếu do Lính thủy đánh bộ thực hiện. Rõ ràng, tôi không thể viết để kể hết về tất cả việc đó; những gì tôi thấy được về toàn thể cuộc chiến giống như việc ngắm một bức tranh phong cảnh khổng lồ qua lỗ một cọng rơm.

Khi phối hợp với cả bộ binh và Lính thủy đánh bộ, ngay lập tức bạn nhận thấy sự khác biệt. Lính bộ binh tương đối rắn, nhưng khả năng chiến đấu của họ có thể tùy thuộc vào các đơn vị riêng biệt. Một số người rất xuất sắc, đầy những phẩm chất hào hùng của chiến binh hàng đầu. Một số lại tệ hại kinh khủng; còn hầu hết thuộc hạng làng nhàng giữa hai loại đó.

Theo cảm nhận của tôi thì Lính thủy đánh bộ đều là những kẻ hiếu chiến bất kể thế nào. Bọn họ sẽ chiến đấu đến chết thì thôi. Mỗi người trong bọn họ đều muốn ra mặt trận để tiêu diệt kẻ thù. Họ là những “người mẹ” rất khủng, có trách nhiệm nặng nề.

Chúng tôi tiến vào sa mạc lúc nửa đêm bằng hai chiếc DPV ba ghế, phóng ra từ cầu thang hậu của chiếc máy bay trực thăng loại MH 53. Mặt đất cứng nên không có chiếc nào bị sa lầy.

Chúng tôi hậu thuẫn cho mũi nhọn tấn công của Hoa Kỳ, không có đơn vị nào của kẻ thù trong khu vực. Chúng tôi lái xe qua sa mạc đến khi tới một căn cứ quân sự. Chúng tôi nghỉ ngơi ở đó vài tiếng rồi thực hiện việc trinh sát cho Lính thủy đánh bộ trước khi họ tiến vào.

Sa mạc không phải hoàn toàn trống trải. Trong khi có những dải đất dài hoang vu, thì cũng có vài thị trấn và khu định cư rất nhỏ rải rác ở phía xa. Chúng tôi chủ yếu đi men quanh các thị trấn và quan sát chúng từ xa. Công việc của chúng tôi là phát hiện đâu là điểm mạnh của kẻ thù, rồi thông báo về bằng điện đài để lực lượng Lính thủy đánh bộ có thể quyết định nên tấn công hay có thể bỏ qua. Thường xuyên như vậy, chúng tôi chạy lên những chỗ đất cao, dừng lại một lúc và quan sát.

Chúng tôi chỉ có một cuộc đụng độ đáng kể ngày hôm đó. Chúng tôi đang men theo một thành phố. Rõ ràng là chúng tôi đã tiến quá gần vì bọn chúng bắt đầu nã đạn vào chúng tôi. Tôi bắn trả bằng khẩu súng máy 50 li, rồi xoay khẩu 60 để nã đạn khi chúng tôi té khỏi khu vực đó.

Hẳn chúng tôi đã phải đi hàng trăm ki lô mét ngày hôm ấy. Chúng tôi ngả lưng một chút lúc chiều muộn, nghỉ ngơi chốc lát, rồi lại tiếp tục khi đêm xuống. Đêm đó, khi chúng tôi bắt đầu nổ súng tấn công, thì được lệnh phải thay đổi kế hoạch. Trạm chỉ huy yêu cầu chúng tôi quay về và điều trực thăng tới đón chúng tôi.

Bạn có thể nghĩ rằng công việc của chúng tôi là nổ súng khiêu khích, bởi vì việc đó làm lộ ra kẻ thù đang ở đâu. Bạn có thể nghĩ rằng việc chúng tôi tiến gần kẻ thù tới mức chúng phải nổ súng nghĩa là chúng tôi đã phát hiện ra một lực lượng quan trọng mà trước đó chưa tùng biết. Bạn có thể nghĩ vậy bởi điều đó có nghĩa là chúng tôi đang làm việc rất tốt.

Bạn có thể đúng. Nhưng với sĩ quan chỉ huy của chúng tôi, mọi thứ đều hỏng bét cả. Ông muốn chúng tôi không đụng độ với bọn chúng. Ông không muốn có nguy cơ phải chịu bất kỳ thương vong nào, ngay cả khi điều đó có nghĩa là chúng tôi không thể làm tròn nhiệm vụ của mình một cách thích đáng. (Và tôi phải nói thêm rằng, cho dù có nổ súng hay đụng độ trước đó, chúng tôi chưa hề phải gánh chịu chút thương vong nào.)

Chúng tôi rất cáu. Chúng tôi ra thực địa với hy vọng được trinh sát trong một tuần. Chúng tôi còn đầy nhiên liệu, nước và thực phẩm, và đã tính đến việc lấy thêm tiếp tế thế nào nếu cần. Khỉ thật, lẽ ra chúng tôi đã có thể đến thẳng Baghdad, lúc này vẫn nằm trong tay của bọn Iraq.

Chúng tôi báo cáo về căn cứ, thất vọng tràn trề.

Đối với chúng tôi, đó không phải kết thúc chiến tranh, mà là dấu hiệu rất xấu về những điều ở phía trước.

Bạn phải hiểu là: không một SEAL nào muốn chết. Mục đích của chiến tranh, như tướng Patton[*] đã nói, là làm cho những tên khốn ngu xuẩn khác phải chết. Nhưng chúng tôi cũng muốn chiến đấu.

Chu thich: George Smith Patton Jr. (1885-1945) còn được gọi là George Patton III, là một vị tướng, nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng của Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến 2.

Một phần là vì lý do cá nhân. Tương tự như với các vận động viên: một vận động viên luôn muốn tham dự một trận đấu lớn, muốn cạnh tranh trên sân cỏ hoặc trên võ đài. Nhưng mặt khác, có một lý do lớn hơn theo tôi nghĩ, là lòng yêu nước.

Đó là điều mà nếu giải thích thì bạn sẽ không hiểu nổi. Nhưng có thể điều dưới đây sẽ giúp chăng?

Vào một đêm muộn, chúng tôi đang mệt nhoài vì chiến đấu. Mười người chúng tôi đã trải qua gần 48 giờ đồng hồ trên tầng hai một tòa nhà gạch cũ bị bỏ hoang, chiến đấu trong sức nóng gần 40 độ C mà chúng tôi vẫn mặc áo giáp phủ toàn thân. Những viên đạn bay vào dường như không ngớt, phá hủy các bức tường xung quanh chúng tôi. Thời gian giải lao duy nhất mà chúng tôi có được là khi nạp đạn.

Cuối cùng, khi mặt trời mọc vào sáng hôm sau, tiếng súng nổ và đạn bắn vào bức tường mới chấm dứt. Trận chiến đã kết thúc. Mọi thứ trở nên yên tĩnh đến kỳ lạ.

Khi Lính thủy đánh bộ đến giải cứu chúng tôi, họ thấy tất cả mọi người trong phòng nếu không gục bên cạnh tường thì đổ vật trên sàn, đầy vết thương hoặc kiệt sức trong tình cảnh đó.

Một trong số những người lính thủy đánh bộ lấy ra một lá cờ Mỹ và treo lên. Ai đó đã chơi bản nhạc bài quốc ca, tôi không biết nhạc phát ra từ đâu, nhưng biểu tượng và cách nó vọng tới tâm hồn thật không gì sánh được; đó mãi là một trong những ký ức mạnh mẽ nhất của tôi.

Mọi người mệt lử sau trận chiến đều đứng dậy, đi đến bên cửa sổ và chào cờ. Mỗi lời trong bản nhạc đó đã vang vọng trong mỗi chúng tôi khi chúng tôi ngắm lá cờ sao vạch đang thực sự tung bay trong nắng sớm của buổi bình minh. Đó là sự nhắc nhở về những gì mà chúng tôi đang chiến đấu, những gì làm cho nước mắt, máu cùng mồ hôi đang ào ạt chảy trên người tất cả chúng tôi.

Tôi đã sống ở nơi đúng là “Vùng đất của tự do” và “quê hương của lòng dũng cảm”. Với tôi nó không hề sáo rỗng. Tôi cảm nhận được nó từ tận trái tim mình. Tôi cảm nhận được nó trong lồng ngực mình. Thậm chí ngay cả trong trận đấu bóng, khi có người nói chuyện hoặc không bỏ mũ ra khi cử quốc ca, cũng làm tôi nổi giận. Tôi cũng không phải là người sẽ im lặng về điều đó.

Đối với bản thân tôi và lực lượng SEAL mà tôi đang gắn bó, tinh thần yêu nước và tham gia vào các cuộc chiến đấu nóng bỏng có mối liên hệ vô cùng sâu sắc. Nhưng một đơn vị như của chúng tôi có thể chiến đấu nhiều đến đâu phụ thuộc rất nhiều vào sự lãnh đạo. Phần lớn điều đó phụ thuộc vào ban chỉ huy, những sĩ quan sẽ chỉ huy chúng tôi. Các sĩ quan của lực lượng SEAL cũng đủ loại. Có người giỏi giang, có người kém cỏi, và cũng có những người vớ vẩn.

Ồ, họ có thể là những cá nhân cứng rắn, nhưng cần phải cứng rắn hơn nữa về mặt cá nhân mới trở thành lãnh đạo giỏi được. Cả phương pháp lẫn mục tiêu đều phải góp phần vào sự cứng rắn đó.

Các chỉ huy cấp cao của chúng tôi muốn chúng tôi đạt được 100% thành công với số lượng thương vong bằng không. Điều đó nghe có vẻ thật đáng ngưỡng mộ, ai lại không muốn thành công cơ chứ, và ai lại muốn người khác bị thương bao giờ? Nhưng trong chiến tranh những điều này thật ngược đời và phi thực tế. Nếu thành công 100% và thương vong bằng không là mục tiêu của bạn thì bạn sẽ tham gia rất ít chiến dịch. Bạn sẽ không bao giờ dám chấp nhận bất kỳ rủi ro nào, như vậy liệu có thực tế hay không?

Về mặt lý tưởng, chúng tôi có thể thực hiện việc bắn tỉa để canh gác và đảm trách nhiệm vụ trinh sát cho Lực lượng Lính thủy đánh bộ trên khắp khu vực Nasiriya. Chúng tôi có thể đóng một vai trò lớn hơn nhiều trong cuộc tiến công của lực lượng Lính thủy đánh bộ. Chúng tôi có thế cứu được vài mạng trong số họ.

Chúng tôi muốn ra ngoài vào ban đêm và tấn công những thành phố và thị trấn lớn tiếp theo mà lực lượng Lính thủy đánh bộ sẽ hành quân qua. Chúng tôi làm giảm sức nặng các mục tiêu mà họ phải chiến đấu, tiêu diệt nhiều hết sức có thể những kẻ thù xấu xa. Chúng tôi đã thực hiện một vài nhiệm vụ như vậy, nhưng chắc chắn là ít hơn rất nhiều so với việc chúng tôi có thể làm.

ÁC QUỶ

Tôi chưa từng biết nhiều về đạo Hồi. Được nuôi dưỡng theo đạo Thiên Chúa, hiển nhiên tôi biết rằng đã có những xung đột về tôn giáo trong nhiều thế kỷ. Tôi biết về các cuộc Thập tự chinh, và tôi cũng biết rằng đã có những cuộc chiến và hành động bạo tàn không dứt.

Nhưng tôi cũng biết rằng Thiên Chúa giáo đã phát triển từ thời Trung cổ. Chúng ta không giết người bởi vì họ thuộc về một tôn giáo khác.

Thứ người mà chúng tôi đang chiến đấu ở Iraq, sau khi quân đội của Saddam bỏ trốn hoặc bị đánh bại, là những kẻ cuồng tín. Bọn chúng căm thù chúng tôi vì chúng tôi không phải là những tín đồ Hồi giáo. Chúng muốn giết chúng tôi, cho dù chúng tôi vừa mới lật đổ tên độc tài của họ, chỉ vì chúng tôi đã thực hành một tôn giáo khác với tôn giáo của chúng.

Chẳng phải tôn giáo dạy con người ta có lòng khoan dung hay sao?

Mọi người thường nói rằng để giết kẻ thù thì anh phải giữ khoảng cách với hắn. Nếu điều đó là đúng, thì ở Iraq bọn phiến loạn sẽ thực hiện nó thật dễ dàng. Câu chuyện tôi kể ở phần đầu về người mẹ đã làm với con mình bằng cách kéo chốt lựu đạn chỉ là một trong nhiều ví dụ vô cùng khủng khiếp.

Những kẻ cuồng tín mà chúng tôi đang chiến đấu chẳng coi trọng thứ gì ngoài cách lý giải méo mó của chúng về tôn giáo. Và nửa thời gian của chúng chỉ để kể lể rằng chúng coi trọng tôn giáo của mình, nhưng hầu hết thậm chí còn không cầu nguyện. Một số còn chơi ma túy nên chúng mới có thế chiến đấu với chúng tôi.

Phần lớn những kẻ phiến loạn là những tên hèn nhát. Chúng có thói quen dùng ma túy để tăng lòng can đảm. Nếu không có ma túy, chỉ mỗi ma túy thôi, chúng chẳng làm được gì. Tôi có một cuốn băng để đâu đó quay cảnh người cha và cô con gái trong một ngôi nhà đang bị lục soát. Họ đang ở tầng dưới; bỗng nhiên có tiếng nổ kèm theo chớp lửa trên tầng hai.

Trong đoạn video, ông bố đã núp đằng sau cô con gái, sợ rằng hắn ta sẽ bị giết và sẵn sàng hy sinh cô con gái của mình.

NHỮNG XÁC CHẾT BỊ CHÔN GIẤU

Chúng có thể là những tên hèn nhát, nhưng chúng cũng có thể giết người. Bọn phiến loạn chẳng lo gì đến các Quy tắc Tham chiến hay tòa án quân sự. Nếu chúng có lợi thế thì lợi thế của chúng là có thể tiêu diệt bất kỳ một người phương Tây nào chúng thấy, dù họ là người lính hay dân thường.

Một hôm, chúng tôi đã được cử đến một ngôi nhà mà chúng tôi nghe nói có thể có tù nhân Mỹ. Chúng tôi không tìm thấy ai trong ngôi nhà. Nhưng trong tầng hầm, rõ ràng có dấu hiệu đất đã bị đào xới. Vì vậy, chúng tôi lắp đèn chiếu sáng và bắt đầu đào.

Một lúc sau, tôi thấy một chiếc ống quần, sau đó là một thi thể vừa mới được chôn xuống.

Một người lính Mỹ. Bộ binh.

Bên cạnh anh ta là xác một người khác. Rồi một người nữa, người này mặc đồ của Lính thủy đánh bộ.

Em trai tôi đã gia nhập Lính thủy đánh bộ vài ngày trước sự kiện ngày 9 tháng Mười một. Tôi chưa có tin gì từ nó, và tôi nghĩ có thể nó đã được điều động đến Iraq.

Vì lý do nào đó, khi giúp kéo cái xác lên, tôi đã chắc chắn đó là xác của em trai tôi.

Không phải. Tôi thầm cầu nguyện và chúng tôi lại tiếp tục đào.

Lại một thi thể khác, một Lính thủy đánh bộ nữa. Tôi cúi xuống và cố gắng bắt mình phải kiểm tra.

Không phải nó.

Nhưng giờ đây, với từng cái xác chúng tôi lôi ra khỏi nơi chôn vùi, đã chất thành một đống, càng làm cho tôi tin hơn là sẽ thấy em trai mình. Bụng tôi thắt lại. Tôi lại tiếp tục đào. Tôi muốn ói.

Cuối cùng, chúng tôi đã đào xong. Em trai tôi không có trong số đó.

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút, thậm chí còn phấn khởi, em trai tôi đã không nằm trong số đó. Sau đó, tôi lại cảm thấy nỗi buồn vô tận cho những chàng trai trẻ đã bị giết hại mà chúng tôi vừa lôi thi thể của họ ra.

Cuối cùng khi nhận được tin từ cậu em trai, tôi phát hiện ra rằng, dù nó cũng đang đóng quân ở Iraq nhưng không ở gần nơi mà tôi đã tìm thấy những cái xác. Tôi chắc rằng nó cũng đã trải qua nỗi sợ hãi và thời kỳ khó khăn của mình; nhưng nghe thấy giọng em trai khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều.

Tôi vẫn là một người anh lớn, hy vọng bảo vệ được em mình. Khỉ gió, nó đâu cần tôi chăm sóc nữa; nó đã là một Lính thủy đánh bộ và là một con người cứng cỏi. Nhưng dù sao những bản năng cố hữu này của tôi không bao giờ nhạt phai.

Tại một khu vực khác, chúng tôi đã tìm thấy những thùng đựng nguyên liệu hóa chất định dùng vào việc sản xuất các loại vũ khí hóa sinh. Mọi người đều nói rằng không có vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq, nhưng dường như họ muốn đề cập đến những quả bom hạt nhân hoàn chỉnh, chứ không phải là thứ vũ khí hóa học gây chết người hàng loạt kia, hoặc là những hóa chất nguyên liệu mà Saddam đã dự trữ.

Có thể là do những chữ viết trên các thùng đó chỉ ra rằng các hóa chất này được chuyển đến từ Pháp và Đức, những nước được coi là đồng minh phương Tây của chúng tôi.

Điều mà tôi luôn băn khoăn là Saddam có thể giấu được bao nhiêu vũ khí trước khi chúng tôi chính thức xâm lược Iraq. Chúng tôi đã được cảnh báo rất nhiều trước khi đổ bộ lên đất nước này, rằng chắc chắn hắn ta đã có đủ thời gian để di chuyến và chôn giấu hàng tấn nguyên liệu. Chúng đã được chuyển đi đâu, chúng sẽ xuất hiện ở chỗ nào, chúng sẽ gây độc hại gì? Tôi nghĩ đó là những câu hỏi tương đối xác đáng chưa từng có lời giải đáp.

Một hôm chúng tôi nhìn thấy có gì đó trên sa mạc và nghĩ rằng thiết bị nổ tự chế IED (Improvised Explosives Device) đang bị chôn ở đó. Chúng tôi gọi đội tháo dỡ bom mìn đến và họ đã tới xử lý. Kỳ lạ chưa, thứ họ tìm được không phải một quả bom mà là một chiếc máy bay.

Saddam đã chôn giấu một loạt máy bay chiến đấu trong sa mạc. Hắn đã cho bọc chúng bằng một lớp nhựa rồi tìm cách giấu đi. Có lẽ hắn đã đoán là chúng tôi sẽ đến như trong chiến dịch Bão táp Sa mạc, đánh nhanh rồi rút.

Hắn đã sai lầm về điều đó.

“CHÚNG TÔI SẮP CHẾT”

Chúng tôi tiếp tục phối hợp tác chiến với Lính thủy đánh bộ khi họ hành quân lên phía Bắc. Nhiệm vụ của chúng tôi về cơ bản là phải đi trước cuộc tấn công của họ, trinh sát những cứ điểm phòng thủ. Mặc dù chúng tôi đã có tin tình báo là có một số lính của kẻ thù trong vùng, nghe đâu chúng không phải là những đơn vị lớn.

Đến lúc này, chúng tôi vẫn tác chiến với toàn trung đội; toàn bộ mười sáu người. Chúng tôi đã đến gần một khu vực có các tòa nhà nhỏ bên rìa một thị trấn. Khi đến đó, chúng tôi bắt đầu nổ súng.

Trận chiến nhanh chóng leo thang, và chỉ trong vài phút chúng tôi nhận ra mình đã bị bao vây, đường thoát của chúng tôi bị chia cắt bởi một nhóm vài trăm lính Iraq.

Tôi đã giết rất nhiều lính Iraq, tất cả chúng tôi đều làm như vậy, nhưng cứ bắn một tên, dường như lại có bốn hay năm tên hiện ra thay thế. Việc này diễn ra hàng giờ, với cuộc đấu súng tăng dần khốc liệt rồi lại giảm xuống.

Hầu hết những trận đấu súng ở Iraq đều rời rạc. Cuộc chiến có thể rất dữ dội trong vài phút, quá lắm là trong một giờ hoặc hơn, nhưng cuối cùng bọn Iraq sẽ phải rút lui. Hoặc chúng tôi phải rút lui.

Điều đó đã không xảy ra ở đây. Đấu súng tiếp tục kéo dài suốt đêm. Bọn Iraq biết rằng chúng đông hơn và chúng tôi đang bị bao vây nên chúng không rút. Dần dần bọn chúng quây lại mỗi lúc một gần chúng tôi hơn, cho đến khi rõ ràng bọn chúng sắp nghiền nát chúng tôi.

Chúng tôi toi rồi. Chúng tôi sẽ chết. Hoặc tệ hơn, chúng tôi sẽ bị bắt làm tù binh. Tôi đã nghĩ về gia đình và tình hình sẽ khủng khiếp đến thế nào nếu điều đó xảy ra. Tôi quyết định tôi sẽ chết trước.

Tôi sắp bắn hết số đạn mình có, nhưng bây giờ màn đấu súng xáp lại gần hơn nữa. Tôi bắt đầu nghĩ những gì mình sẽ làm nếu tôi bị bọn chúng bắt. Tôi sẽ dùng súng lục, dao, đôi tay tôi nữa, bất kể thứ gì.

Rồi sau đó tôi sẽ chết. Tôi nghĩ về Taya, về việc tôi đã yêu cô ấy biết chừng nào. Tôi cố gắng để không bị phân tâm về bất cứ điều gì và cố gắng tập trung vào chiến đấu.

Bọn Iraq tiếp tục tấn công. Chúng tôi ước tính là chúng tôi chỉ còn năm phút để sống thôi. Tôi bắt đầu đếm trong đầu.

Tôi chẳng còn cách cái chết bao xa thì nghe tín hiệu từ điện đài vọng tới, “Chúng tôi đang đến chi viện từ hướng 6 giờ.”

Những đơn vị bằng hữu sắp tới chỗ chúng tôi.

Đơn vị kỵ binh.

Thực ra là Lính thủy đánh bộ. Chúng tôi sẽ không chết. Dù sao cũng không phải là trong năm phút nữa.

Ơn Chúa!

BÊN NGOÀI CUỘC CHIẾN

Cuộc đụng độ đó hóa ra lại là trận đánh quan trọng cuối cùng của chúng tôi trong suốt đợt điều động đó. Sĩ quan chỉ huy đã kéo chúng tôi trở về căn cứ.

Đó là một sự lãng phí. Lính thủy đánh bộ vẫn kéo quân vào Nasiriya mỗi đêm, cố gắng quét sạch khu vực này khi bọn phiến loạn nổi dậy. Họ có thể giao cho chúng tôi tuần tra khu vực riêng của chúng tôi. Chúng tôi có thể tham gia và loại bỏ những kẻ xấu, nhưng sĩ quan chỉ huy phủ quyết điều đó.

Chúng tôi nghe tin này khi đang ở căn cứ tiền phương và doanh trại nơi chúng tôi đang ngồi không, chờ xem có việc gì thực sự để làm không. Lực lượng đặc biệt của Ba Lan (GROM) đang thực thi nhiệm vụ của họ. Họ nói chúng tôi là những con sư tử bị lũ chó dắt đi.

Đám Lính thủy đánh bộ thì nói toạc móng heo chẳng thèm ý tứ. Mỗi đêm khi trở về họ độp thẳng vào mặt chúng tôi:

“Đêm nay các cậu đã hạ được bao nhiêu tên rồi? Ô, thế đấy, các cậu có ra ngoài quái đâu.”

Một lũ quái. Nhưng tôi chẳng thể trách cứ gì họ. Tôi nghĩ đám chỉ huy của chúng tôi là một lũ đầu đất.

Chúng tôi đã được huấn luyện để phá hủy con đập Mukarayin, phía Đông Bắc Baghdad. Con đập này rất quan trọng, không chỉ bởi nó là nguồn cung cấp thủy điện mà còn bởi nếu được phép nó có thể xả lũ để kìm chân các lực lượng quân sự tấn công bọn Iraq trong vùng. Tuy nhiên, nhiệm vụ này liên tục bị trì hoãn, và cuối cùng được giao cho Đội SEAL số 5 khi đến lượt họ luân phiên quay trở lại Vùng Vịnh vào giai đoạn cuối trong thời gian đóng quân của chúng tôi. (Nhiệm vụ này, vốn tuân theo kế hoạch cơ bản của chúng tôi, đã thành công.)

Lẽ ra chúng tôi có thể hoàn thành rất nhiều việc. Những nhiệm vụ đó tác động đến cuộc chiến tranh tới mức nào thì tôi không biết. Nhưng chắc chắn chúng tôi có thể đã cứu sống được nhiều mạng người ở chỗ này hay chỗ khác, và có thể rút ngắn thời gian xung đột từ một đến vài ngày. Thay vào đó, chúng tôi được thông báo chuẩn bị trở về nước. Đợt điều động của chúng tôi đã chấm dứt.

Tôi ở lại căn cứ thêm một vài tuần mà chẳng có gì để làm cả. Tôi cảm thấy mình như một kẻ cực kỳ hèn nhát, chơi game và đợi tàu đến đón về.

Tôi khá bực mình. Thực tế là tôi điên đến mức muốn rời khỏi Lực lượng Hải quân và bỏ làm một SEAL luôn cho rồi.