← Quay lại trang sách

Chương 9 KẺ TRỪNG PHẠT-*-“TÔI Ở ĐÂY LÀ ĐỂ XỬ LÝ ĐÁM SÚNG CỐI NÀY!”

Chắc bạn nghĩ rằng một khi quân đội đã vạch ra một cuộc tấn công lớn thì họ sẽ có cách điều quân ngay đến vùng chiến sự.

Bạn nghĩ sai rồi.

Vì việc xử lý khối u và sau đó là con gái ra đời, cuối cùng tôi đã rời nước Mỹ chậm hơn so với đồng đội khoảng một tuần. Lúc tôi hạ cánh xuống Baghdad vào tháng Tư năm 2006 thì trung đội của tôi đã được gửi về hướng Tây tới khu vực Ramadi rồi. Có vẻ như không ai biết làm thế nào để đưa tôi đến đó. Tôi phải tự xoay xở để đi tới chỗ đồng đội.

Một chuyến bay thẳng đến Ramadi là không thể, chiến sự ở đó quá nóng. Vì vậy, tôi phải tự tìm giải pháp của riêng mình. Tình cờ tôi gặp một lính biệt kích cũng đang trên đường đi Ramadi. Chúng tôi trò chuyện, cùng nghĩ đủ loại mưu kế để tìm cách đi nhờ tại sân bay quốc tế Baghdad.

Tình cờ, tôi nghe lỏm được một viên sĩ quan nói chuyện về những vấn đề mà Lục quân đang gặp phải với đám bắn súng cối của bọn phiến quân tại một căn cứ ở phía Tây. Thật trùng hợp một cách ngẫu nhiên, chúng tôi cũng nghe về một chuyến bay tới chính căn cứ đó; thế là người lính biệt kích và tôi đã đâm bổ đến để tìm cách leo lên chuyến máy bay lên thẳng đó.

Một viên đại tá ngăn bọn tôi lại khi chúng tôi lên tàu bay.

“Tàu bay đầy người rồi,” ông ta hét lên với tay lính biệt kích. “Tại sao các cậu cần lên chuyến bay này hả?”

Cầm hộp đựng khẩu súng trên tay tôi nói với viên đại tá, “Dạ, báo cáo chỉ huy, chúng tôi là lính bắn tỉa đến để xử lý các vấn đề về súng cối của chỉ huy đấy.”

“Ồ, được đấy!” viên đại tá hét lên với phi hành đoàn. “Hai anh chàng này cần phải bay chuyến sớm nhất. Để các cậu ấy lên đi.”

Chúng tôi nhảy lên máy bay, gạt hai tên của họ xuống ghế chờ.

Khi chúng tôi đến căn cứ, vấn đề súng cối đã được xử lý rồi. Nhưng chúng tôi vẫn gặp vấn đề, không có chuyến bay nào đến Ramadi cả, triển vọng đến được với đơn vị còn mong manh hơn cả nhìn thấy tuyết rơi ở Dallas vào tháng Bảy.

Nhưng rồi tôi có một ý tưởng. Tôi dẫn cậu lính biệt kích đến bệnh viện của căn cứ, và tìm một sĩ quan quân y. Tôi đã làm việc với nhiều sĩ quan quân y khi là một SEAL, theo kinh nghiệm của tôi, các bác sĩ quân y của Hải quân đều biết cách giải quyết vấn đề theo cách riêng của họ.

Tôi lấy ra trong túi một huy hiệu của SEAL và nhanh chóng để trong lòng bàn tay, tôi sẽ trao đổi nó khi chúng tôi bắt tay. (Huy hiệu của SEAL là một biểu tượng đặc biệt được tạo ra để tôn vinh những thành viên của một đơn vị vì tinh thần dũng cảm hoặc vì những chiến công đặc biệt khác. Một huy hiệu của SEAL đặc biệt có giá trị, vì nó vừa rất hiếm vừa vì tính biểu tượng của nó. Việc trao nó cho người nào trong Hải quân giống như trao cho người đó một cái bắt tay bí mật.)

“Nghe này,” tôi nói với viên sĩ quan quân y. “Tôi cần một ân huệ đặc biệt. Tôi là một SEAL, lính bắn tỉa. Đơn vị tôi đang ở Ramadi. Tôi cần đến đó ngay, cậu này sẽ đi cùng với tôi.” Tôi chỉ về phía cậu lính biệt kích.

“Được rồi,” viên sĩ quan quân y nói, giọng gần như thì thầm. “Đến văn phòng của tôi đi.”

Chúng tôi đến văn phòng của anh ta. Anh lấy ra một con dấu cao su, đóng dấu vào tay chúng tôi rồi viết gì đó bên cạnh con dấu.

Đó là một mã thương tích nguy kịch.

Viên sĩ quan quân y đã cấp máy bay cấp cứu chuyển chúng tôi tới Ramadi. Chúng tôi là những người đầu tiên và có thể là duy nhất được máy bay cấp cứu chở thẳng ra chiến trường chứ không phải rời khỏi đó.

Và tôi nghĩ chỉ có các SEAL mới có thể sáng tạo như vậy.

Tôi cũng không biết tại sao điều đó lại hiệu nghiệm, nhưng đúng là nó hiệu quả thật. Không ai trong cái trực thăng đó thắc mắc về hướng bay cũng như “những vết thương” nghiêm trọng của chúng tôi.

CĂN CỨ SHARK

Ramadi ở Al-Anbar, cũng cùng tỉnh với Fallujah, khoảng 50 ki lô mét về phía Tây. Nghe nói nhiều phiến quân chạy khỏi Fallujah đã tụ quân tại đó. Có rất nhiều bằng chứng về việc này: các cuộc tấn công tăng lên kể từ khi Fallujah được bình định. Tới năm 2006, Ramadi được coi là thành phố nguy hiểm nhất ở Iraq, thật là một danh hiệu chết người.

Trung đội của tôi đã được điều động đến Doanh trại Ramadi, một doanh trại Mỹ dọc bờ sông Euphrates ở ngoại ô thành phố. Căn cứ của chúng tôi mang tên là Căn cứ Shark, được một đơn vị đặc nhiệm thành lập từ trước đây và ở ngay phía ngoài hàng rào của Doanh trại Ramadi.

Khi rốt cuộc tôi cũng đến nơi thì đồng đội của tôi đã được cử đến làm việc ở phía Đông Ramadi. Thu xếp việc di chuyển qua thành phố là điều không thể. Tôi rất tức tối, tôi nghĩ mình đã đến quá muộn để cùng tham gia chiến đấu.

Tôi phải kiếm việc gì đó cho đến khi có thể tìm được cách gặp lại trung đội, tôi đã hỏi ban chỉ huy xem tôi có thể lên ngồi gác trên tháp canh hay không. Đám phiến quân vẫn kiểm tra ranh giới ngoại vi của căn cứ, đột nhập lại gần hết mức có thế và bắn vào căn cứ bằng những khẩu AK.

Ban chỉ huy bảo tôi, “Được chứ, làm đi.”

Tôi đi ra và mang theo khẩu súng bắn tỉa của mình.

Gần như ngay sau khi tôi vào vị trí, tôi thấy hai tên đang lảng vảng vòng quanh ở đằng xa, tìm vị trí để nấp và bắn vào căn cứ.

Tôi chờ cho đến khi chúng đột ngột nhảy ra khỏi chỗ nấp.

Pằng.

Tôi đã hạ gục tên đầu tiên. Bạn hắn quay đầu và tháo chạy.

Pằng.

Hạ nốt.

NGÔI NHÀ BẢY TẦNG

Tôi vẫn chờ cơ hội để gia nhập với trung đội của tôi khi đơn vị Lính thủy đánh bộ ở vùng phía Bắc cuối thành phố yêu cầu lính bắn tỉa giúp cảnh giới từ ngôi nhà bảy tầng gần nơi họ đồn trú.

Tay chỉ huy đề nghị tôi tới cùng một đội bắn tỉa. Chỉ có hai lính bắn tỉa nữa ở căn cứ. Một người đang trong quá trình hồi phục chấn thương và phải dùng morphine; người còn lại là một sĩ quan, nhưng tỏ ra lưỡng lự không muốn tham dự.

Tôi đề nghị được dùng cái anh đang phải dùng morphine, nhưng lại phải nhận ông sĩ quan này.

Chúng tôi tìm được hai tay súng chuyên dùng súng trường M60, gồm Ryan Job để giúp chút cơ bắp, và một sĩ quan chỉ huy, chúng tôi thẳng tiến đi giúp Lính thủy đánh bộ.

Ngôi nhà bảy tầng là một tòa nhà cao, nham nhở, cách bốt của Lính thủy đánh bộ khoảng 200 mét. Nó được xây bằng xi măng đã ngả màu nâu nhạt, và tọa lạc ở nơi từng là một đường phố chính trước cuộc chiến; trông nó gần giống một tòa nhà văn phòng hiện đại hoặc có thể sẽ là như vậy, nếu không có những chiếc cửa sổ bị mất và những lỗ thủng to tướng vì bị tên lửa và súng cối bắn vào. Đó là tòa nhà cao nhất trong khu vực và có một lợi thế hoàn hảo để nhìn khắp thành phố.

Chúng tôi xuất quân rất sớm cùng với vài lính thủy đánh bộ và lực lượng an ninh địa phương Jundis. Jundis là lực lượng dân quân Iraq trung thành hoặc là binh lính đang được huấn luyện; có nhiều nhóm Jundis khác nhau, mỗi nhóm đều có mức độ chuyên môn và hiệu quả riêng của họ, mà thường là ở mức ngược lại của hai thứ này.

Trong khi trời vẫn còn sáng, chúng tôi đã bắn lác đác vài phát, tất cả đều nhắm vào những phiến quân bị cô lập. Khu vực xung quanh tòa nhà khá đổ nát, một bức tường quét vôi trắng có chiếc cổng sắt cầu kỳ ngăn mảnh đất trống rải rác cát với các mảnh khác.

Đêm xuống, bất ngờ chúng tôi ở giữa đám phiến quân. Chúng đang trên đường tấn công vào bốt của Lính thủy đánh bộ, và chúng tôi chỉ tình cờ ở trên đường đi của bọn chúng. Bọn chúng rất đông.

Lúc đầu, bọn chúng không nhận ra chúng tôi đang ở đó, và đấy là một thời cơ để mở. Thế rồi tôi nhìn thấy ba tên với những khẩu súng phóng lựu chống tăng đang nhắm vào chúng tôi cách khoảng một dãy nhà. Tôi đã bắn lần lượt từng tên một, cứu chúng tôi khỏi việc bị vùi xác dưới những quả lựu đạn của bọn chúng.

Cuộc đọ súng nhanh chóng làm chúng tôi phải di chuyển. Lính thủy đánh bộ gọi chúng tôi qua điện đài và yêu cầu chúng tôi rút về chỗ họ.

Bốt của bọn họ cách chừng vài trăm mét. Trong khi một tay súng bắn khẩu M60, sĩ quan của tôi và tôi ở lại bắn yểm trợ, những người còn lại trong nhóm đi xuống tầng dưới và di chuyển về bốt của Lính thủy đánh bộ. Mọi việc tiến triển quá nhanh đến mức khi bọn họ đã rút hết sạch thì chúng tôi đã bị bao vây. Chúng tôi phải ở nguyên tại chỗ.

Ryan nhận ra tình thế khó khăn của chúng tôi ngay khi về đến bốt của Lính thủy đánh bộ. Cậu ta và viên chỉ huy đã tranh luận xem liệu có phải yểm trợ cho chúng tôi hay không. Viên chỉ huy khẳng định rằng nhiệm vụ của họ là ở lại với lực lượng Jundis Iraq đã đóng quân ngay trong doanh trại của Lính thủy đánh bộ. Viên sĩ quan ra lệnh Ryan ở lại; Ryan nói với tay sĩ quan rằng cậu ấy có thể làm được gì với lệnh đó.

Ryan chạy lên mái nhà của lực lượng Lính thủy đánh bộ, tại đó cậu ta đã cùng với lực lượng Lính thủy đánh bộ xả đạn xuống yểm trợ cho chúng tôi khi chúng tôi đẩy lùi bọn phiến quân.

Lính thủy đánh bộ đã phái một đội tuần tiễu đến giải cứu chúng tôi. Khi nhìn thấy họ xuất phát từ trong bốt, tôi phát hiện ra một tên phiến quân đang di chuyển phía sau họ.

Tôi đã bắn một phát. Đội tuần tra nằm rạp xuống đất. Tên Iraq kia cũng vậy, dù hắn không đứng dậy nữa.

“Có một tay súng bắn tỉa [của bọn phiến quân] ở đó, hắn bắn rất cừ,” tiếng của người phụ trách điện đài. “Hắn suýt nữa hạ được chúng tôi.”

Tôi vớ lấy điện đài của mình.

“Đó là tôi đấy, đồ não phẳng. Nhìn lại phía sau đi.”

Bọn họ quay lại và nhìn thấy một tên man rợ với súng phóng lựu cầm tay đang nằm chết trên nền đất.

“Ơn Chúa, cảm ơn cậu,” người lính thủy đánh bộ trả lời.

“Không có gì.”

Bọn Iraq có cả lính bắn tỉa tham gia tối hôm đó. Tôi đã bắn gục hai tên trong số đó, một tên ở trên tháp của nhà thờ, còn tên kia ở một tòa nhà bên cạnh. Đó là một trận đấu mà bọn chúng hiệp đồng tác chiến rất tốt, một trong những trận được tổ chức tốt hơn cả trong những cuộc đụng độ của chúng tôi ở khu vục này. Điều đó thật bất thường, bởi nó diễn ra vào ban đêm; bọn xấu thường không cố gắng và hay theo đuổi vận may trong đêm tối.

Cuối cùng, mặt trời cũng mọc, cuộc đọ súng lắng xuống. Lính thủy đánh bộ đã điều một loạt xe bọc thép đến để yểm trợ chúng tôi, và chúng tôi đã chạy được về doanh trại của họ.

Tôi đến gặp viên chỉ huy và báo cáo với ông về những gì đã xảy ra. Tôi gần như chưa kịp mở miệng nói lời nào thì một viên sĩ quan lính thủy đánh bộ lực lưỡng chạy thộc vào văn phòng.

“Tay lính bắn tỉa ở tòa nhà bảy tầng là thằng chết tiệt nào đấy?” ông ta gầm lên.

Tôi quay lại và nói với ông ta rằng đó là tôi, và dốc hết sức để đối phó với trận lôi đình vì lỗi lầm nào đó mà tôi không hề hay biết.

“Tôi muốn bắt tay cậu, con trai,” ông nói và tháo găng tay ra. “Cậu đã cứu mạng tôi.”

Ông chính là người mà tôi đã gọi là đồ não phẳng trên điện đài lúc trước. Tôi chưa từng gặp một lính thủy đánh bộ nào dễ chịu hơn.

“HUYỀN THOẠI”

Ngay sau đó đồng đội từ cuộc phiêu lưu ở miền Đông đã trở về. Họ chào đón tôi nồng nhiệt như thường lệ.

“Ồ, chúng tớ biết là Huyền thoại đã ở đây rồi,” họ nói ngay khi nhìn thấy tôi. “Thật tình cờ là chúng tớ nghe tin là có hai vụ hạ sát ở Doanh trại Ramadi. Người ta đang bị chết dần ở miền Bắc. Chúng tớ biết là Huyền thoại ở đây. Cậu là tên khốn duy nhất có thể giết bất cứ kẻ thù nào ở đó.”

Tôi cười phá lên.

Biệt danh “Huyền thoại” bắt nguồn từ hồi còn ở Fallujah, có thể là lúc xảy ra sự kiện bóng bãi biển, hoặc có thể từ khi tôi bắn được một phát tầm xa thực sự. Trước đó, biệt danh của tôi là Tex.

Tất nhiên, nó không chỉ là “Huyền thoại” đơn thuần, còn có chút giễu cợt kèm theo từ “Huyền thoại” đó nữa. Một trong những người bạn của tôi, Dauber, tôi nghĩ là vậy, thậm chí còn biến báo hẳn từ “Huyền thoại” (The Legend) và gọi tôi là “Thần thoại” (The Myth), để làm tôi bớt tự phụ.

Cách khen chê kiểu này hoàn toàn thành thật, theo một cách nào đó nó còn vinh dự hơn cả một lễ gắn huân chương vào bộ quân phục chính thức.

Tôi thực sự thích Dauber. Mặc dù cậu ta là lính mới, một lính bắn tỉa tương đối khá. Cậu ta có thể độc lập tác chiến trong một cuộc chiến đấu và hay phun ra những lời độc địa. Tôi dành cho cậu ta thái độ hòa nhã, và khi cần bắt nạt cậu ta, tôi không nện cậu... quá tay.

Cho dù đám bạn có trêu chọc biệt danh đó, “Huyền thoại” vẫn là một biệt danh tốt đẹp mà ta có thể nhận. Lấy ví dụ Dauber. Đó không phải tên thật của cậu ta (lúc đó, cậu ta đang làm những việc mà chúng tôi gọi là “công tác chính phủ”). Biệt danh của cậu ta lấy từ một nhân vật trong loạt phim truyền hình Coach. Trong phim, Dauber là kiểu nhân vật ngớ ngẩn điển hình. Trong cuộc sống, cậu ta thực sự là một chàng trai thông minh, nhưng thực tế đó chẳng được màng tới trong việc đặt biệt danh cho cậu.

Nhưng một trong những biệt danh hay nhất chính là của Ryan Job: Biggles.

Nó là một cái tên to tát và ngớ ngẩn cho một gã to lớn và ngốc nghếch. Dauber tạo nên giá trị cho cái tên đó, cậu ta khăng khăng rằng từ đó là sự kết hợp giữa từ “big” (to lớn) và từ “giggles” (cười rúc rích) vốn đã được đặt cho một người họ hàng của cậu.

Một hôm cậu ta nhắc tới từ đó, thế là đặt luôn cho Ryan. Ai đó trong đội đã dùng nó, và trong vòng vài giây, cái tên gắn luôn với cậu ta.

Biggles.

Tất nhiên, Ryan rất ghét cái tên này, mà rõ ràng cậu ta đã tự nguyện dính với nó.

Sau đó, có người còn tìm ra cái tên “con hà mã nhỏ màu tím”. Tất nhiên, cái tên này phải được gắn với ai có gương mặt kiểu hà mã. Và thế là Ryan trở thành Biggles the Desert Hippo (tạm dịch: Hà mã sa mạc Biggles).

Ryan vẫn là Ryan, cậu ta đã đảo ngược lại được tất cả. Cái tên đấy không còn là chuyện cười về cậu ta nữa, mà là chuyện cười của chính cậu ta. Cái tên Biggies the Desert Hippo trở thành tay súng M60 giỏi nhất hành tinh.

Cậu ta mang biệt danh hà mã đó khắp mọi nơi, thậm chí cả trên chiến trường. Các bạn chỉ còn cách phải yêu quý gã này mà thôi.

KẺ TRỪNG PHẠT

Trung đội tôi có biệt danh riêng, một cái tên khác ngoài biệt danh Cadillac.

Chúng tôi tự gọi mình là Những kẻ trừng phạt.

Đối với những ai chưa từng biết đến nhân vật này, thì Kẻ trừng phạt xuất hiện lần đầu trong loạt truyện tranh của nhà xuất bản Marvel vào những năm 1970. Anh ta là một kẻ có chất thực sự, hóa giải những điều bất công, đem lại công lý. Một bộ phim cùng tên vừa mới ra lò; Kẻ trừng phạt mặc một chiếc sơ mi có hình đầu lâu trắng đã được cách điệu.

Cậu lính thông tin của chúng tôi đề xuất biệt danh đó trước đợt dàn quân. Tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng những việc Kẻ trừng phạt đã làm thật thú vị: chỉnh cái sai trở thành đúng. Anh ta đã giết những kẻ xấu. Anh khiến cho những kẻ làm điều sai trái phải khiếp sợ.

Đó là điều mà tất cả chúng tôi hướng tới. Vì vậy, chúng tôi đã phỏng theo biểu tượng của Kẻ trừng phạt - cái đầu lâu - và biến nó thành biểu tượng của chúng tôi với một vài điều chỉnh. Chúng tôi phun sơn biểu tượng đó lên những chiếc xe Hummer, áo chống đạn, mũ bảo hiểm và tất cả súng ống của chúng tôi. Và chung tôi cũng phim sơn biểu tượng đó lên bất cứ tòa nhà hay bức tường nào nếu có thể. Chúng tôi muốn bọn chúng biết rằng, Chúng tao có mặt ở đây, và chúng tao muốn chơi chúng mày.

Đó là phiên bản tâm lý chiến của chúng tôi.

Chúng mày nhìn thấy bọn tao không? Bọn tao sẽ là những người đánh tan xác chúng mày. Hãy biết sợ bọn tao đi. Bởi vì bọn tao sẽ giết chúng mày, lũ chó đẻ.

Chúng mày xấu xa. Bọn tao còn xấu xa hơn. Bọn tao xấu và rất chất.

Trung đội kết nghĩa của chúng tôi muốn dùng mẫu mà chúng tôi đã sử dụng để đánh dấu các đồ chơi súng ống của chúng tôi, nhưng chúng tôi không cho họ dùng. Chúng tôi đã nói với họ rằng chúng tôi đã là Kẻ trừng phạt rồi. Họ phải tìm biểu tượng khác của riêng họ thôi.

Chúng tôi cũng đùa vui với những chiếc Hummer. Chúng cũng được đặt tên, hầu hết là bằng tên các nhân vật của G.I. Joe[*] như Duke, Snake Eyes. Vì chiến tranh vốn đã tệ hại rồi, không có nghĩa là ta không thể đùa vui đôi chút.

Chu thich: 6. Bộ phim G.I. Joe: The Rise of Cobra (Biệt đội Mãng xà), được chuyển thể từ bộ đồ chơi nổi tiếng của công ty Hasbro (công ty sản xuất đồ chơi Transformer) tên là G.I. Joe: A Real American Hero.

Chúng tôi là một đội tốt trong đợt dàn quân đó, bắt đầu từ hàng lãnh đạo cao nhất. Những sĩ quan tử tế, và một vị chỉ huy thực sự xuất sắc tên là Tony.

Tony được huấn luyện để trở thành một tay súng bắn tỉa. Ông không chỉ là một kẻ trực tiếp tham chiến, mà còn là một kẻ tham chiến từng trải, ít nhất là đối với một SEAL. Có tin đồn rằng ông đã bốn mươi tuổi trong đợt dàn quân đó.

Thường thì các SEAL không ra chiến trường chiến đấu ở tuổi đó, và phải đứng ngoài cuộc chiến. Chúng tôi mệt rã rời. Nhưng bằng cách nào đó Tony vẫn gắng sức được. Ông là một tay chơi quá rắn, và chúng tôi sẽ theo ông tới cùng trời cuối đất.

Tôi là người dẫn đầu, thường thì lính bắn tỉa đều giữ vị trí đó khi chúng tôi đi tuần. Tony hầu như luôn đi ngay sau tôi. Thường thì chỉ huy đi phía sau của đội hình để yểm trợ cho cả đội, nhưng trong trường hợp này vị trung úy của chúng tôi lý lẽ rằng, có hai lính bắn tỉa ở phía trước trung đội sẽ hiệu quả hơn.

Một buổi tối nọ, ngay sau khi toàn trung đội tập hợp trở lại, chúng tôi đi khoảng 17 cây số về phía Đông Ramadi. Khu vực này màu xanh và màu mỡ, đến mức trông nó giống như rừng nhiệt đới của Việt Nam, khi so sánh với sa mạc mà chúng tôi từng chiến đấu. Chúng tôi gọi khu vực này là Viet Ram.

Một buổi tối không lâu sau khi đơn vị chúng tôi hợp nhất, chúng tôi đã đến khu vực tuần tra và bắt đầu đi bộ về hướng bị nghi là pháo đài của bọn phiến quân. Cuối cùng, chúng tôi tới một cái hào lớn có chiếc cầu bắc ngang. Thông thường, những chiếc cầu này đều đặt bẫy mìn, và trong trường hợp này, chúng tôi có tin tình báo cho biết chắc chắn chiếc cầu này đã bị đặt mìn. Do đó, tôi lên cầu và đứng đó, chiếu đèn la-de để tìm dây bẫy.

Tôi quét ánh sáng ngang dọc khắp cầu nhưng không thấy gì cả. Tôi cúi xuống thấp hơn chút nữa và kiểm tra lại, vẫn không có gì. Tôi tìm khắp mọi nơi mà tôi nghĩ có thể có, nhưng không tìm thấy dây tiếp xúc, không IED, không bẫy mìn, không gì cả.

Nhưng vì đã được thông báo là chiếc cầu có bẫy mìn, tôi chắc rằng phải có gì ở đó.

Tôi lại tìm. Cậu chuyên gia tháo gỡ chất nổ và bom mìn (EOD) đang đứng đợi ngay phía sau tôi. Tất cả những gì tôi phải làm là tìm ra dây bẫy hoặc chính quả bom đó, còn cậu ta sẽ tháo gỡ nó trong giây lát.

Nhưng tôi không thể tìm thấy cái quái gì hết. Cuối cùng, tôi nói với Tony, “Cứ băng qua thôi.”

Đừng có hình dung sai lệch đi: tôi sẽ không chạy ào qua chiếc cầu đó đâu. Một tay tôi cầm khẩu súng trường, tay kia tôi bảo vệ “món đồ gia bảo” của mình.

Điều đó sẽ chẳng cứu được mạng tôi nếu một quả bom tự chế nổ tung, nhưng ít nhất thì tôi giữ được cái xác để tổ chức lễ tang.

Chiếc cầu chỉ dài khoảng trên ba mét, nhưng tôi phải mất gần một tiếng mới vượt qua được. Cuối cùng, tôi cũng sang được bên kia chiếc cầu, người tôi ướt đẫm mồ hôi. Tôi quay lại giơ ngón tay cái lên ra hiệu. Nhưng chẳng còn ai ở đó cả. Tất cả bọn họ đều đã nấp sau các tảng đá và bụi rậm, chờ trận lôi đình của tôi.

Ngay cả Tony, với vai trò là người dẫn đầu, lẽ ra phải ở ngay đằng sau tôi.

“Đồ chó đẻ!” tôi gào lên. “Các cậu chết hết ở đâu rồi?”

“Chẳng có lý do gì để cả hai chúng ta cùng phải nổ tan xác cả,” Tony thản nhiên nói với tôi lý lẽ thực dụng khi ông vừa băng qua cầu.

CÁC THÔNG NGÔN

Fallujah đã đực giải phóng trong một cuộc tấn công toàn diện, di chuyển qua thành phố theo một cách rất có tổ chức. Trong khi cuộc tấn công đó thành công, nó cũng gây ra rất nhiều thiệt hại, mà điều này được cho là gây tổn hại đến sự ủng hộ đối với chính phủ mới của Iraq.

Bạn có thể tranh luận rằng điều đó đúng hoặc sai, tôi chắc là như vậy, nhưng ban chỉ huy tối cao của Mỹ không muốn điều tương tự xảy ra ở Ramadi. Do đó, trong khi Lục quân hoạch định kế hoạch giải phóng Ramadi với mức độ thiệt hại thấp nhất, chúng tôi lao vào cuộc chiến ở khu vực lân cận.

Chúng tôi bắt đầu với các cuộc chiến đấu trực tiếp. Chúng tôi có bốn thông dịch viên (interpreter) mà chúng tôi gọi tắt là các terp. Họ giúp chúng tôi tiếp xúc với dân địa phương. Ít nhất là luôn có một hoặc thường thì là hai terp sẽ đi cùng chúng tôi.

Một terp mà tất cả chúng tôi đều quý mến là Moose. Anh là một người kiên cường. Anh đã làm công việc này từ cuộc xâm chiếm năm 2003. Anh là người Jordan, và là người duy nhất trong số các terp được chúng tôi cấp súng. Chúng tôi biết là anh sẽ chiến đấu, anh muốn trở thành một người Mỹ đến mức sẵn sàng hy sinh vì điều đó. Mỗi khi chúng tồi liên hệ, anh đều có mặt và sẵn sàng chiến đấu.

Anh không phải là tay súng giỏi, nhưng anh có thể khiến kẻ thù sao nhãng. Điều quan trọng nhất, anh biết khi nào thì có thể và khi nào thì không thể bắn, không dễ dàng như vẻ bề ngoài của hiệu lệnh đơn thuần.

Có một ngôi làng nhỏ bé ở ngoài căn cứ Shark mà chúng tôi gọi là Gay Tway. Nó tràn ngập bọn phiến quân. Chúng tôi mở cổng, bước vào và bắn các mục tiêu của mình. Có một căn nhà mà chúng tôi đánh đến ba hoặc bốn lần. Sau lần đầu tiên, bọn chúng thậm chí còn không bận tâm đẩy cửa về chỗ cũ nữa.

Tại sao chúng vẫn trở lại căn nhà đó, tôi không biết. Nhưng chúng tôi cũng vẫn trở lại; chúng tôi cần phải biết địa điểm này thật kỹ.

Chúng tôi không mất quá nhiều thời gian trước khi thiết lập được nhiều mối quan hệ ở làng Gay Tway và làng Viet Ram. Một đơn vị Vệ binh Quốc gia bảo vệ khu vực này, và chúng tôi bắt đầu hợp tác với họ.

CÁC MỤC TIÊU

Một trong những nhiệm vụ ban đầu của chúng tôi giúp bên Lục quân chiếm lại khu vực xung quanh một bệnh viện bên một con sông ở Viet Ram. Một tòa nhà bằng bê tông bốn tầng được khởi công rồi bị bỏ dở cách đây vài năm. Phía Lục quân muốn hoàn thiện nốt công trình này cho người dân Iraq; chăm sóc y tế tử tế là một nhu cầu lớn ở đây. Nhưng họ không thể tiếp cận được khu vực để triển khai bất cứ việc gì, bởi vì ngay sau khi tiến gần, họ đã bị tấn công. Vì vậy, chúng tôi tới để giải quyết.

Trung đội của tôi gồm mười sáu người đã nhập với khoảng hai mươi binh lính khác nữa để giải phóng làng bên cạnh khỏi bọn phiến quân. Tiến vào thị trấn một buổi sáng sớm, chúng tôi chia ra và bắt đầu đánh chiếm các ngôi nhà.

Tôi dẫn đường, mang theo khẩu súng Mk-12, là người đầu tiên tiến vào từng căn nhà. Khi căn nhà đã an toàn, tôi chạy lên nóc nhà bắn yểm trợ cho đồng đội phía bên dưới, và tìm bọn phiến quân mà chúng tôi tin chắc sẽ tấn công ngay khi biết chúng tôi ở đó. Cả đội nhảy cóc dần lên phía trước, giải phóng từng khu ngay khi tới.

Khác với ở thành phố, những căn nhà nơi đây không kề sát cạnh nhau, vì vậy quá trình đánh chiếm lâu hơn và trải trên diện rộng hơn. Nhưng cũng rất nhanh sau đó, bọn khủng bố biết được chúng tôi đang ở đâu và chúng tôi định làm gì, bọn chúng đã tập họp lại rồi tổ chức một cuộc tấn công nhỏ từ một nhà thờ. Nấp sau những bức tường của nhà thờ, bọn chúng bắt đầu nã đạn AK như mưa vào đội quân đang chiến đấu trên mặt đất.

Tôi ở trên một mái nhà khi cuộc chiến bắt đầu. Ngay lập tức chúng tôi dùng bất cứ vũ khí nào có trong tay để bắn bọn xấu xa: M-4, M-60, súng trường bắn tỉa, súng phóng lựu 40 li, rốc két chống tăng cầm tay LAW - tất cả những gì chúng tôi có. Chúng tôi đốt trụi nhà thờ đó.

Tình thế của trận đánh nhanh chóng chuyển sang hướng có lợi cho chúng tôi. Đám lính chiến đấu trên mặt đất thực hiện một cuộc tấn công về phía nhà thờ, hy vọng sẽ bắt được bọn phiến quân trước khi bọn chúng có thể rút lui về chỗ cống rãnh nào đó mà bọn chúng đã nhao ra. Chúng tôi đã tăng cường hỏa lực, nhắm vào mục tiêu phía trên đầu để bắn cầu vồng ngăn không cho bọn chúng rút lui.

Vào khoảng giữa cuộc chiến, một vỏ đạn bằng đồng nóng giãy của một khẩu súng khác, có lẽ là từ khẩu M-60 ngay bên cạnh tôi đã rơi vào chân tôi, rồi lọt vào cổ giày, chỗ ngay cạnh mắt cá chân tôi. Nó nóng khủng khiếp, nhưng tôi không thể làm gì với nó, có quá nhiều bọn xấu nhảy ra từ phía sau những bức tường tìm cách giết hại đồng đội tôi.

Tôi đang đi đôi giày leo núi đơn giản chứ không phải là đôi giày chiến đấu. Đó là phong cách bình thường của tôi, vì đôi giày đó nhẹ hơn và thoải mái hơn, và thông thường thì cũng quá đủ để bảo vệ đôi chân của tôi. Thật không may, tôi đã không lo việc buộc dây giày tử tế trước khi chiến đấu, vì vậy có một khoảng trống giữa quần và đôi giày, chính là nơi vỏ đạn đã bất ngờ rơi xuống sau khi bị văng ra.

Các huấn luyện viên của Chương trình BUD/S từng nói với tôi những gì về việc có thể sẽ không có cái gọi là “thời gian nghỉ” trong chiến đấu ấy nhỉ?

Khi tình hình dịu xuống, tôi đứng dậy và lôi vỏ đạn ra, một mảng da bị lột ra theo.

Chúng tôi chiếm được nhà thờ, giải quyết nốt phần còn lại của ngôi làng, và thế là xong một ngày.

NHỮNG CÁCH TIÊU DIỆT KẺ THÙ KHÁC NHAU

Chúng tôi đi tuần tra với đơn vị lục quân thêm vài lần nữa, tìm cách làm giảm bớt sự kháng cự trong khu vực. Ý tưởng thật đơn giản, nếu có nguy cơ rủi ro: chúng tôi xuất hiện để hút hỏa lực của bọn phiến quân. Khi bọn chúng xuất hiện, chúng tôi có thể bắn trả và tiêu diệt bọn chúng. Và chúng tôi thường sử dụng chiến thuật đó.

Bị đẩy khỏi ngôi làng và nhà thờ, bọn phiến quân rút về phía bệnh viện. Chúng thích tòa nhà của bệnh viện, không phải chỉ vì nó là một tòa nhà lớn và được xây dựng tử tế (do đó có thể bảo vệ bọn chúng), mà còn bởi chúng biết rằng chúng tôi rất e dè tấn công vào các bệnh viện, ngay cả sau khi bệnh viện đã bị bọn khủng bố chiếm đóng.

Cũng phải mất một thời gian, nhưng rồi cuối cùng ban chỉ huy phía Lục quân cũng quyết định phải tấn công vào bệnh viện.

Tốt rồi, tất cả chúng tôi đều nói với họ như vậy khi nghe về kế hoạch. Làm tới thôi.

Chúng tôi lập trạm quan sát ở một ngôi nhà cách tòa nhà bệnh viện khoảng hai hoặc ba trăm mét, ngang qua một khoảng sân thoáng đãng. Ngay sau khi bọn phiến quân thấy chúng tôi, chúng để chúng tôi chiếm ngôi nhà đó.

Một đồng đội của tôi đã bắn một quả rốc két Carl Gustav vào nóc tòa nhà mà bọn chúng đang bắn ra. Quả Gustav gây ra một lỗ thủng lớn ở đó. Xác chết văng tung tóe.

Phát rốc két đó đã loại nhiều tên khỏi cuộc chiến, và khi sự kháng cự yếu đi, lực lượng của Lục quân tiến vào và chiếm được tòa nhà. Khi bọn chúng xuống mặt đất, gần như không còn sự kháng cự nào nữa. Còn vài tên chúng tôi chưa hạ được thì bỏ chạy.

Thường thì thật khó mà đếm được có bao nhiêu phiến quân đang chống lại chúng tôi trong một trận chiến như vậy. Một nhóm nhỏ vẫn có thể tổ chức một cuộc chiến tương đối tốt. Khoảng trên chục người chiến đấu có sự yểm trợ từ phía sau có thể cầm chân được bước tiến của một đơn vị trong chốc lát, tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Tuy nhiên, khi bọn phiến quân vấp phải một lực lượng hùng hậu, bạn có thể đếm được khoảng một nửa bọn chúng rút về phía sau hoặc bất cứ nơi nào có thể.

Trước đây, chúng tôi đã dùng súng không giật chống tăng cầm tay, loại tầm xa bắn đạn hỏa tiễn 66 li Carl Gustav, nhưng theo tôi được biết đây là lần đầu tiên chúng tôi thực sự triệt hạ cả rổ kẻ thù bằng loại vũ khí này, hoặc cũng có thể là lần đầu tiên một đơn vị thuộc lực lượng SEAL dùng đến nó. Đây đương nhiên là lần đầu tiên chúng tôi sử dụng nó để chiếm đánh một tòa nhà. Khi chuyện này lan rộng, dĩ nhiên mọi người đều muốn sử dụng nó.

Về mặt kỹ thuật, súng không giật phóng đạn rốc két Carl Gustav được phát triển để chiến đấu chống xe bọc thép, nhưng rồi chúng tôi đã phát hiện ra rằng nó rất mạnh để đánh chiếm các tòa nhà. Thực tế là nó tuyệt diệu ở Ramadi, nó có thể thổi bay cả bê tông cốt thép và xóa sạch bất kỳ kẻ nào ở phía trong. Sức ép của vụ nổ có thể quét sạch bên trong.

Chúng tôi có các loại đạn khác nhau dùng cho súng này. (Nhớ rằng, thực tế nó được coi như một loại súng trường không giật hơn là một súng phóng rốc két.) Thường thì bọn phiến quân hay nấp sau các hào chắn và những rào chắn khác được bảo vệ chặt chẽ. Trong trường hợp đó, bạn có thể dùng loại đạn nổ trên không ở trên đầu bọn chứng. Loại nổ trên không thường tệ hơn rất nhiều so với các loại nổ trên mặt đất.

Loại rốc két Gustav sử dụng tương đối dễ dàng. Bạn phải đeo hai lớp bảo hộ tai và cẩn thận về vị trí đứng khi bắn, nhưng kết quả thì thật là “khủng”. Sau một thời gian, mọi người trong trung đội đều muốn sử dụng loại này, tôi thề rằng có các cuộc chiến về việc ai sẽ được bắn loại rốc két đó.

Khi làm nghề mà công việc của bạn là phải giết người, bạn bắt đầu sáng tạo trong việc thực hiện nó.

Bạn nghĩ đến việc làm sao dùng được hỏa lực mạnh nhất có thể khi tham gia chiến đấu. Và bạn bắt đầu nghĩ ra những cách thức mới mẻ và sáng tạo để tiêu diệt kẻ thù của mình.

Chúng tôi có quá nhiều mục tiêu ở Viet Ram đến mức chúng tôi bắt đầu tự hỏi, còn loại vũ khí nào mà chúng tôi chưa sử dụng để giết bọn chúng?

Chưa dùng súng ngắn để giết ư? Ít nhất thì bạn phải sử dụng một lần.

Chúng tôi dùng các loại vũ khí khác nhau để trải nghiệm, để hiểu về tính năng của từng loại vũ khí trong chiến đấu. Nhưng thỉnh thoảng nó như một trò chơi, khi phải chiến đấu hằng ngày, bạn bắt đầu tìm kiếm một loại khác đi chút ít. Dù sao đi nữa bọn phiến quân vẫn còn đầy, và vô vàn cuộc chiến nữa.

Rốc két Gustav hóa ra là một trong những vũ khí hiệu quả nhất khi chúng tôi đối mặt với đám phiến quân bắn ra từ các tòa nhà. Chúng tôi cũng có loại rốc két LAW (Light Anti-amor Weapon, vũ khí chống thiết giáp loại nhẹ), súng nhẹ hơn và dễ mang theo hơn. Nhưng rất nhiều trong số loại rốc két này té ra là đạn lép. Và khi đã bắn một phát LAW, ta hết việc luôn, bởi nó là loại vũ khí không có khả năng tự nạp đạn. Loại Carl Gustav thì luôn là vũ khí siêu đẳng.

Còn một loại vũ khí khác mà chúng tôi cũng sử dụng khá nhiều là loại máy phóng lựu đạn 40-mm. Máy phóng có hai loại, một loại được gắn dưới khẩu súng hường, còn loại kia là vũ khí hoạt động độc lập. Chúng tôi có cả hai loại đó.

Lựu đạn tiêu chuẩn của chúng tôi được gọi là “lựu đạn mảnh”, một loại lựu đạn nổ và bắn tung tóe những mảnh hoặc mẩu nhỏ ra khắp khu vực. Đây là một loại vũ khí sát thương truyền thống, đã được thử nghiệm và đáng tin cậy.

Trong khi chúng tôi đang trong đợt dàn quân này, chúng tôi nhận được một loại phóng đạn mới sử dụng thiết bị nổ áp nhiệt. Loại này có “tiếng nổ” long trời, chỉ cần một quả lựu đạn loại này bắn vào một tên bắn tỉa của kẻ thù trong góc nhỏ của công trình cũng có thể làm cả tòa nhà đổ sập, vì sức ép quá lớn của vụ nổ. Tất nhiên, thường thì chúng tôi sẽ bắn vào một tòa nhà lớn hơn, nhưng sức công phá của nó vẫn khủng khiếp. Ta có một cú nổ tàn bạo, một quầng lửa, và chẳng còn kẻ thù nào nữa. Có vũ khí này rồi, bạn sẽ thích nó thôi.

Khi phóng lựu đạn ta phải dùng thước ngắm mà chúng tôi gọi là thước tính độ lệch ngang Kentucky: ước tính tầm xa, điều chỉnh độ lệch đứng của máy phóng lựu rồi bắn. Chúng tôi thích loại súng M-79, một phiên bản độc lập được sử dụng lần đầu tiên trong chiến tranh Việt Nam, vì nó có ống ngắm khiến việc ngắm mục tiêu dễ dàng hơn và bắn vào bất cứ thứ gì ta muốn. Bằng cách này hay cách khác, bạn sẽ nhanh chóng hiểu rõ mọi điều, bởi bạn sử dụng vũ khí quá nhiều.

Chúng tôi tiếp xúc với súng mỗi khi ra ngoài.

Chúng tôi thích nó.

TAYA:

Tôi đã trải qua một khoảng thời gian nhọc nhằn với lũ trẻ sau khi Chris ra trận. Mẹ tôi đến và giúp tôi, nhưng đó vẫn là một quãng thời gian khó khăn.

Tôi nghĩ là tôi chưa sẵn sàng sinh thêm con. Tôi rất giận Chris, lo cho anh ấy, và căng thẳng về việc chăm sóc cho một đứa trẻ vừa chào đời với một đứa đang chập chững. Thằng bé tò mò với mọi thứ, còn con bé con thì dính chặt lấy tôi.

Tôi nhớ là tôi chỉ ngồi trên chiếc trường kỷ và khóc ròng trong bộ áo choàng tắm cả ngày. Tôi cho con bé bú và cố gắng cho cậu con trai ăn. Tôi cứ ngồi đó và khóc mãi.

Vết mổ sinh vẫn chưa lành. Nhiều phụ nữ đã nói với tôi, ”Sau khi mổ đẻ, chỉ sau một tuần là tôi có thể lau nhà và hoàn toàn khỏe mạnh bình thường.” Nhưng, sáu tuần sau tôi vẫn còn đau, vết mổ chưa liền và chưa hồi phục chút nào hết. Tôi bực tức là mình đã không hồi phục nhanh như những người phụ nữ đó. (Sau đó, tôi phát hiện ra rằng thông thường chỉ sau khỉ mổ đẻ lần thứ hai thì phụ nữ mới hồi phục nhanh chóng. Chẳng ai nói cho tôi về điều này cả.)

Tôi cảm thấy yếu đuối. Tôi cáu giận với chính mình vì đã không mạnh mẽ hơn. Thật là tuyệt vọng.

Các cự ly ở phía Đông của Ramadi phù hợp với khẩu súng trường.300 Win Mag của tôi, và tôi bắt đầu dùng khẩu súng này thường xuyên trong các cuộc tuần tra. Sau khi Lục quân chiếm được bệnh viện, bọn phiến quân tiếp tục nổ súng và tấn công. Chẳng bao lâu sau bọn chúng cũng bắt đầu dùng hỏa lực súng cối. Vì vậy, chúng tôi mệt rã, vừa chiến đấu với bọn phiến quân đang bắn Lục quân, vừa tìm kiếm nhóm bắn súng cối.

Một hôm, chúng tôi đóng chốt trong một tòa nhà hai tầng cách bệnh viện không xa. Bên Lục quân tìm cách sử dụng thiết bị đặc biệt để dò xem súng cối bắn từ đâu đến, và chúng tôi đã chọn ngôi nhà này, vì nó ở gần khu vực mà Lục quân đã xác định có súng cối. Nhưng không hiểu vì lý do nào đó, hôm đó bọn phiến quân lại quyết định im hơi lặng tiếng.

Có lẽ bọn chúng đã chán ngán việc phải chết.

Tôi quyết định xem liệu chúng tôi có thể dụ bọn chúng ra không. Tôi luôn mang theo lá cờ Mỹ trong bộ áo giáp của tôi. Tôi lấy cờ ra và căng loại dây 550 (tức là loại dây ni lông thông thường nhưng hay được gọi là dây dù) qua các lỗ khuyên của lá cờ. Tôi cột một đầu dây vào mép mái nhà, rồi ném nó sang phía bên kia, thế là lá cờ đã được treo lên phía bên kia của tòa nhà. Vài phút sau, khoảng dăm bảy tên phiến quân đã nhảy ra cùng với súng trường tự động bắt đầu bắn xối xả vào lá cờ của tôi.

Chúng tôi bắn trả lại. Một nửa trong số chúng gục xuống, nửa còn lại quay đầu chạy.

Tôi vẫn giữ được lá cờ. Bọn chúng bắn nát hai ngôi sao. Theo tính toán của tôi thì đó là một cuộc trao đổi công bằng với sinh mạng của bọn chúng.

Khi chúng tôi mệt mỏi, bọn phiến quân đã di chuyển ra xa hơn và tăng cường yểm trợ để tạo khoảng cách giữa chúng tôi và bọn chúng. Thỉnh thoảng, chúng tôi phải kêu gọi sự hỗ trợ của không lực để tấn công vào bọn đang nấp sau những bức tường hoặc các đường hào ở phía xa.

Vì sợ có thiệt hại ngoài ý muốn, chỉ huy và các phi công ngần ngại trong việc sử dụng bom. Thay vào đó, các máy bay phản lực sẽ xả súng máy xuống bọn phiến quân trên mặt đất. Chúng tôi cũng có các máy bay lên thẳng tấn công: trực thăng Cobras và Hueys của Lính thủy đánh bộ, những loại máy bay này có cả đại liên và rốc két.

Một hôm, khi chúng tôi đang trực, sếp và tôi phát hiện thấy một tên mang theo một khẩu súng cối đặt ở trên thùng xe của một chiếc ô tô cách chỗ chúng tôi khoảng 800 mét. Tôi bắn hắn ta; một tên khác từ trong tòa nhà mà hắn đang ẩn nấp chạy ra, sếp tôi hạ gục hắn. Chúng tôi đề nghị một cuộc không kích; một chiếc máy bay phản lực F/A-18 bắn tên lửa vào chiếc xe đó. Xe nổ liên hoàn thêm lần nữa sau cú nổ của tên lửa, hóa ra bọn chúng đã xếp thuốc nổ lên xe trước khi chúng tôi phát hiện ra chúng.

GIỮA NHỮNG NGƯỜI ĐANG NGỦ

Một hoặc hai tối sau đó, tôi đi bộ qua một làng gần đó trong đêm tối, bước cả lên những thân người, không phải của người chết, mà là những người Iraq đang ngủ. Trong sa mạc ấm áp, các gia đình người Iraq thường hay ngủ ngoài trời.

Tôi đang trên đường tìm một vị trí để có thể đặt một trạm quan sát cho một cuộc tấn công ở khu vực chợ, nơi một trong những tên phiến quân có cửa hàng. Tin tình báo của chúng tôi cho biết đây là nơi chứa các loại vũ khí xếp trên chiếc xe mà chúng tôi vừa cho nổ tung.

Bốn đồng đội khác và tôi phải dừng lại cách cả đội khoảng sáu cây số đang chuẩn bị tổ chức cuộc tấn công vào buổi sáng. Nhiệm vụ của chúng tôi là phải đến đó trước họ, trinh sát và theo dõi khu vực, rồi bảo vệ họ khi họ tiến quân vào.

Đi qua khu vực do phiến quân chiếm đóng vào ban đêm không đến nỗi nguy hiểm như ta nghĩ. Bọn chúng hầu như đều ngủ say. Bọn Iraq thường thấy đoàn xe của chúng tôi kéo vào lúc ban ngày rồi rút ra trước khi trời tối. Vì vậy, bọn phiến quân này cho rằng tất cả chúng tôi đã kéo về căn cứ. Bọn chúng không bố trí lính trực, không canh gác, không có lính gác bảo vệ khu vực.

Tất nhiên, ta phải để ý quan sát xem mình bước vào đâu - trong đêm, một người trong trung đội suýt nữa đã giẫm lên một người Iraq đang ngủ khi đi vào khu vực mục tiêu của chúng tôi. Rất may anh ta kịp thời phát hiện ra và tránh được, và chúng tôi đã có thể tiếp tục hành quân mà không đánh thức ai hết. Nàng tiên răng chẳng có gì mà phàn nàn với chúng tôi cả.

Chúng tôi tìm được khu chợ và lập chốt quan sát. Đó là một dãy nhỏ các lán một tầng bé tí xíu dùng làm các cửa hàng. Chúng không có cửa sổ, người ta mở cửa chính và bán hàng ngay phía trước các lán này.

Ngay sau khi chúng tôi vào vị trí ẩn náu, thì chúng tôi nhận được một cú gọi trên điện đài báo rằng một đơn vị nữa cũng đã có mặt ở đâu đó trong khu vực.

Sau đó ít phút, tôi phát hiện ra một nhóm người rất đáng ngờ.

“Này,” tôi nói qua điện đài. “Tôi nhìn thấy bốn gã mang theo súng AK và lưới thiết bị, tất cả đều giống như du kích Hồi giáo. Chúng là người của ta à?”

Chúng tôi mặc bộ đựng đồ bằng vải lưới hoặc áo vest có túi hoặc đai để đeo các vũ khí dùng trong chiến đấu. Còn những tên tôi nhìn thấy giống như lực lượng du kích Hồi giáo, tức là bọn chúng ăn mặc giống bọn phiến quân thường mặc ở các vùng nông thôn, mặc những bộ choàng dài của đàn ông và choàng khăn. (Ở thành phố, chúng thường mặc quần áo kiểu phương Tây - quần áo ấm rộng.)

Bốn tên này từ phía con sông đi lên, đó chính là nơi mà tôi đã dự đoán chúng sẽ xuất hiện.

“Chờ một chút, chúng tôi sẽ xác định,” người phụ trách điện đài nói từ đầu dây bên kia.

Tôi vẫn theo dõi bọn họ. Tôi không có ý định bắn, không đời nào tôi có ý định tìm cách bắn người Mỹ cả.

Đơn vị tranh thủ thời gian để trả lời cho Trung tâm Hành quân Chiến thuật (Tactical Operation Center - TOC) của chúng tôi, còn nơi này, đến lượt họ cũng phải nắm được những người nào trong trung đội chúng tôi. Tôi vẫn theo dõi khi những người đàn ông tiến vào.

“Không phải người của ta,” cuối cùng cũng có điện đài gọi lại. “Nhóm đó hủy chiến dịch rồi.”

“Tuyệt. Tôi sẽ cho bốn tên này đi theo hướng của anh.”

(Tôi tin rằng nếu người của ta ở đây, tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy họ cả. Họ là các ninja mà.)

Tất cả mọi người đều bực mình. Các đồng đội ngồi sau chiếc xe Hummer đã sẵn sàng, họ canh chừng khu vực sa mạc, chờ bọn du kích xuất hiện. Tôi quay lại việc canh gác của mình, theo dõi khu vực dự kiến chúng tôi sẽ tấn công.

Vài phút sau, những gì tôi thấy chỉ là bốn tên phiến quân đã đi qua tôi lúc trước.

Tôi hạ một tên; một tay súng bắn tỉa khác hạ được một tên nữa trước khi bọn chúng có thể ẩn núp.

Rồi sáu hoặc bảy tên phiến quân xuất hiện phía sau bọn chúng.

Bây giờ chúng tôi ở trung tâm của cuộc chiến. Chúng tôi bắt đầu phóng lựu đạn. Những người khác trong trung đội nghe tiếng súng nổ và chạy đến. Nhưng những tay súng phiến quân gục ngã trước chúng tôi đã biến mất.

Yếu tố bất ngờ qua đi, trung đội tiếp tục thẳng tiến với cuộc tấn công khu chợ trong đêm tối. Họ đã tìm thấy một ít đạn dược và súng AK, nhưng chẳng là gì nếu so với kho dự trữ vũ khí thực sự.

Chúng tôi không bao giờ phát hiện ra bọn phiến quan đang ẩn nấp đang định làm gì. Đó là một bí ẩn nữa của chiến tranh.

ƯU TÚ CỦA ƯU TÚ

Tôi nghĩ tất cả các SEAL đều đánh giá cao những người anh em của chúng tôi trong đơn vị ưu tú chống khủng bố mà bạn đã đọc rất nhiều về họ ở trong nước. Họ là một nhóm ưu tú trong những nhóm ưu tú khác.

Chúng tôi không tương tác nhiều với họ ở Iraq. Lần duy nhất tôi có nhiều việc để cùng chiến đấu với họ xảy ra sau khoảng vài tuần, sau khi chúng tôi tiến vào trung tâm Ramadi. Họ đã biết là chúng tôi ở đó, đang tiêu diệt được rất nhiều tên man rợ, vì thế họ cử lính bắn tỉa đến để xem chúng tôi đang làm gì. Tôi đoán là họ muốn tìm xem chúng tôi đang làm gì mà có kết quả.

Nhìn lại, tôi cảm thấy tiếc là đã không tìm cách tham gia cùng với họ. Lúc bấy giờ, họ chưa sử dụng lính bắn tỉa nhiều như các đơn vị khác. Những người lính chiến thực hiện phần lớn công việc, mà tôi lại không thích trở thành một lính chiến. Tôi yêu công việc của tôi đang làm. Tôi muốn trở thành người lính bắn tỉa. Tôi đã quen dùng khẩu súng trường bắn tỉa của tôi và bắn kẻ thù. Tại sao tôi lại phải từ bỏ, chuyển đến Bờ Đông (East Coast), và trở thành một lính mới hoàn toàn lại từ đầu? Và còn chưa kể đến khóa học giống như Chương trình BUD/S mà bạn phải vượt qua để chứng tỏ mình phù hợp nữa.

Tôi sẽ phải mất nhiều năm làm lính chiến trước khi theo đuổi việc trở thành một lính bắn tỉa một lần nữa. Tại sao phải làm như vậy khi tôi đã đang bắn tỉa rồi, và tôi yêu thích công việc đó?

Nhưng bây giờ nghe về những công việc và chiến công của họ, tôi nghĩ mình nên theo họ mới phải.

Những gã này nổi tiếng là ngạo mạn và tự phụ. Điều đó hoàn toàn sai. Tôi đã có dịp gặp một số người bọn họ sau chiến tranh, khi họ đến một cơ sở đào tạo do tôi quản lý. Họ là những con người cực kỳ thực tế, rất khiêm tốn về những chiến công của họ. Tôi thực sự ước rằng tôi được trở lại chiến đấu cùng với họ.

DÂN THƯỜNG VÀ LŨ MAN RỢ

Chính thức thì cuộc tấn công ở Ramadi vẫn chưa bắt đầu, nhưng chúng tôi đã đầy việc.

Một hôm, có tin tình báo liên quan đến việc bọn phiến quân cài đặt các thiết bị nổ IED dọc một con đường cao tốc nào đó. Chúng tôi đã đến ngay và giám sát chặt chẽ con đường. Chúng tôi cũng đánh vào các căn nhà và cảnh giới các cuộc phục kích nhắm vào các đoàn quân xa cũng như các căn cứ quân sự của Mỹ.

Đúng là thật khó để tách biệt giữa dân thường và đám phiến quân trong một số tình huống nhất định, nhưng ở đây bọn phiến quân lại làm việc đó trở nên dễ dàng hơn cho chúng tôi. Ví dụ như các máy bay không người lái UAV (Unmanned Aerial Vehicle) sẽ theo dõi một con đường, khi phát hiện có người đang cài đặt bom, họ không những sẽ xác định được vị trí của trái bom đó mà còn theo dõi được tên phiến quân đến tận nhà của hắn. Điều đó đã cung cấp nguồn tin tình báo cho chúng tôi về chỗ bọn phiến quân đang đóng.

Bọn khủng bố chuẩn bị tấn công người Mỹ sẽ tự làm lộ mình khi di chuyển có tính chiến thuật để tiếp cận các đoàn quân từ xa hoặc khi đến gần một căn cứ. Chúng ẩn nấp xung quanh với súng AK đã lên đạn, khiến thật dễ dàng phát hiện ra bọn chúng.

Chúng cũng tìm cách phát hiện ra chúng tôi. Nếu chúng tôi chiếm được một căn nhà trong một ấp nhỏ, chúng tôi sẽ để gia đình trong nhà đó ở trong cho an toàn. Những người sống gần đó sẽ biết nếu gia đình nào không ra ngoài trước 9 giờ sáng, nghĩa là có người Mỹ ở trong nhà. Đó là lời mời ngỏ cho bất kỳ một tên phiến quân nào trong khu vực đến và tìm cách giết chúng tôi.

Điều đó đã trở nên quá dễ đoán, dường như xảy ra theo một lịch trình nhất định. Cứ khoảng 9 giờ sáng, sẽ có một cuộc đấu súng; tình hình sẽ giảm xuống vào khoảng giữa trưa. Rồi đến 3 hoặc 4 giờ chiều sẽ lại có một cuộc đọ súng nữa. Nếu như không phải là cuộc chiến giữa sự sống và cái chết, nó sẽ thật khôi hài.

Và ở thời điểm đó, nó cũng khôi hài, theo một cách éo le nhất.

Bạn không thể biết chúng sẽ tấn công từ hướng nào, nhưng chiến thuật hầu như không đổi. Bọn phiến quân sẽ bắt đầu bằng súng tự động, bắn bừa bãi ở chỗ này một tí, chỗ kia một tẹo. Rồi bạn dùng súng phóng lựu chống tăng trút cả chùm lửa vào; rốt cuộc bọn chúng chạy tán loạn và tìm cách thoát thân.

Một hôm, chúng tôi loại được một nhóm phiến quân cách bệnh viện không xa. Ngay lúc ấy chúng tôi đã không nhận ra có điều gì, nhưng tin tình báo của Lục quân sau đó cho biết chỉ huy của phiến quân đã gọi điện thoại di động cho một vài tên khác, yêu cầu gửi thêm đến quân bắn súng cối, bởi nhóm phiến quân đang đánh vào bệnh viện vừa bị giết.

Những tên đến thay đó không bao giờ xuất hiện.

Tiếc thật. Lẽ ra chúng tôi có thể giết cả bọn chúng nữa.

Giờ thì ai cũng biết đến Predator, loại máy bay không người lái cung cấp rất nhiều thông tin tình báo cho lực lượng quân đội Mỹ trong chiến tranh. Nhưng có điều mà nhiều người không biết là chúng tôi còn có loại máy bay không người lái bỏ được trong ba lô, một loại máy bay phóng lên bằng tay, nhỏ cỡ bằng một máy bay phản lực có điều khiển từ xa mà trẻ con đủ mọi lứa tuổi vẫn thường chơi ở Mỹ.

Nó đặt vừa một chiếc ba lô. Tôi chưa bao giờ điều khiển nó, nhưng hình như chúng hoạt động tốt. Phần phức tạp nhất, ít nhất từ những gì mà tôi có thể thấy, chính là việc phóng. Người ta phải phi nó khá mạnh bằng tay để nó cất cánh được. Người điều khiển sẽ quay khởi động động cơ, rồi liệng nó lên không trung; nó cũng đòi hỏi vài kỹ năng nhất định.

Bởi vì chúng bay thấp và có động cơ nhỏ tương đối ồn ào, nên từ dưới mặt đất người ta có thể nghe thấy tiếng của loại máy bay không người lái bỏ túi này. Chúng có tiếng kêu rất đặc biệt, bọn Iraq nhanh chóng nhận ra khi có tiếng ồn đó nghĩa là chúng tôi đang theo dõi. Bọn chúng trở nên cẩn trọng hơn ngay sau khi nghe thấy tiếng kêu đó, điều này làm tiêu tan mục đích của chúng tôi.

Ở vài thời điểm, tình hình trở nên căng thẳng đến mức chúng tôi phải sử dụng hai tần số điện đài khác nhau, một cái để liên hệ với TOC, còn cái kia để liên hệ giữa các trung đội với nhau. Có quá nhiều cuộc trao đổi qua lại trên điện đài đến nỗi các thông tin từ TOC tràn ngập làm nghẽn mạch lúc chúng tôi liên lạc.

Lần đầu tiên chúng tôi đi ra ngoài, chỉ huy của chúng tôi yêu cầu bộ phận trực ban đánh thức ông mỗi khi chúng tôi chạm mặt quân địch hoặc khi chiến đấu. Sau đó, chúng tôi chiến đấu nhiều đến mức ông phải sửa lại lệnh là chỉ báo cáo cho ông nếu chúng tôi đối mặt quân địch dài cả tiếng đồng hồ.

Còn cuối cùng thì chỉ thông báo cho tôi nếu có ai đó bị thương.

Căn cứ Shark là một thiên đường lúc bấy giờ, một ốc đảo nhỏ để nghỉ ngơi và thư giãn. Không phải vì nó quá hoành tráng. Nó có sàn đá còn các cửa sổ thì che chắn bằng các bao cát. Trước hết, chiếc giường của chúng tôi thật là thân thiết, và cảm giác thân thuộc chính là chiếc rương đựng đồ cũ kỹ đặt cuối chân giường. Nhưng chúng tôi không cần gì nhiều. Chúng tôi hoạt động bên ngoài ba ngày, chỉ trở lại có một ngày. Tôi sẽ ngủ, hoặc có thể chơi điện tử suốt cả ngày, sử dụng máy tính hoặc gọi điện về nhà. Thế là hết thời gian và đến lúc chuẩn bị để trở lại thực thi nhiệm vụ.

Phải hết sức cẩn thận khi nói chuyện qua điện thoại. An ninh tác chiến hay OpSec (viết tắt của thuật ngữ quân sự Operational Security), rất nghiêm ngặt. Không được nói bất kỳ điều gì cho bất kỳ ai tiết lộ chúng tôi đang làm gì, hoặc chúng tôi định làm gì, thậm chí đặc biệt là chúng tôi đã làm gì.

Tất cả các cuộc đàm thoại của chúng tôi gọi đi từ căn cứ đều được ghi âm. Có một phần mềm để nghe các từ khóa; nếu đủ thông tin như trên, họ sẽ ngắt cuộc gọi, và ta có thể sẽ gặp rắc rối to. Có một lần, một gã nào đó đã nói thao thao về một chiến dịch, thế là tất cả chúng tôi bị cắt liên lạc một tuần. Hắn khá là bẽ mặt và tất nhiên chúng tôi dần hắn ta nhừ tử. Hắn cũng tỏ ra biết ăn năn.

Thỉnh thoảng, bọn xấu làm cho công việc của chúng tôi thật dễ dàng.

Một hôm chúng tôi đi ra ngoài và đóng chốt ở một làng gần con đường chính. Đó là một vị trí rất tốt, từ đó chúng tôi có thể hạ thủ vài tên phiến quân khi chúng tìm cách vượt qua khu vực này trên đường tấn công bệnh viện.

Thật bất ngờ, một chiếc xe tải nhỏ - một loại phương tiện chuyên chở có cabin và một chiếc giường đặt ở phía sau nơi người ta có thể chở các thiết bị - chệch choạng từ đường phố lao về phía ngôi nhà của chúng tôi. Không chỉ chở thiết bị, chiếc xe còn chở bốn tay súng phía đằng sau, chúng bắt đầu bắn vào chúng tôi khi chiếc xe vượt qua một bãi khá rộng.

Tôi bắn vào tên lái xe. Chiếc xe xoay nghiêng đi rồi dừng lại. Tên ngồi ghế khách trong cabin nhảy ra ngoài và chạy sang phía tên lái xe. Một người của tôi bắn hắn ta trước khi bọn chúng có thể chạy tiếp. Chúng tôi nã súng vào những tên còn lại, giết sạch bọn chúng.

Một lúc sau, tôi phát hiện ra một chiếc xe ben đang hướng vào con đường chính. Tôi không để ý nhiều đến nó cho tới khi nó rẽ vào con đường dẫn vào nhà và phóng thẳng về phía chúng tôi.

Chúng tôi đã hỏi chủ nhà và biết rằng không ai ở đó lái chiếc xe ben ngu xuẩn ấy cả. Rõ ràng