← Quay lại trang sách

Chương 10 ÁC QUỶ THÀNH RAMADI-*-TIẾN VÀO

Vài đêm sau, tôi trèo lên một chiếc ca nô tuần sông của Lính thủy đánh bộ, còn được gọi là SURC (Small Unit Riverine Craft - một loại tàu nhỏ đi tuần trên sông), nấp kỹ dưới boong phía sau lá chắn bằng thép của súng máy. Lính thủy đánh bộ nằm ôm súng trường 60 ở phía mũi để quan sát khi chiếc ca nô này và một chiếc khác cùng cả nhóm của chúng tôi nhẹ lướt về phía thượng lưu của con sông, lặng lẽ hướng đến điểm tập kết.

Những tên gián điệp của bọn phiến quân nấp gần những cây cầu và vô số điểm khác nhau trong thành phố. Nếu chúng tôi ở trên mặt đất, bọn chúng sẽ lần ra hành trình của chúng tôi. Nhưng trên mặt nước, chúng tôi không phải là một mối đe dọa trực tiếp, và bọn chúng không để ý lắm.

Chúng tôi di chuyển rất chậm rãi. Trạm dừng tiếp theo của chúng tôi gần trung tâm thành phố, nằm sâu trong địa phận của kẻ thù.

Ca nô của chúng tôi áp dần vào bờ, rồi chạy thẳng đến bên bờ ke của một con kênh. Tôi đứng lên và bước qua cánh cửa vòm nhỏ ở mũi tàu, suýt ngã khi nhảy lên mặt đất. Tôi chạy vội lên chỗ đất khô, rồi dừng lại chờ những người trong trung đội tập họp lại quanh tôi. Chúng tôi dẫn theo tám người Iraq cùng đi trên ca nô, cộng thêm vài thông ngôn, chúng tôi chỉ có khoảng trên hai chục người.

Những người Lính thủy đánh bộ quay lại mặt nước và chiếc ca nô tiếp tục lướt trên sông.

Xác định xong địa điểm, tôi bắt đầu di chuyển ngược lên phố hướng về phía mục tiêu. Những căn nhà nhỏ lờ mờ ở phía trước; có nhiều ngõ ngách các con phố rộng hơn, một mê cung các tòa nhà, và bóng của các công trình xây dựng lớn hơn đổ xuống.

Tôi đi chưa được bao xa thì ống ngắm la-de trên súng trường của tôi tắt. Hết pin. Tôi ngừng lại.

Viên trung úy vội chạy đến hỏi, “Cái quái gì đang xảy ra vậy?

Tôi giải thích, “Tôi cần phải thay pin ngay lập tức.” Không có ống ngắm la-de, tôi sẽ là kẻ mù ngắm bắn, so với việc không ngắm mà bắn thì chỉ hơn một chút.

“Không được, phải đưa tất cả chúng ta rời khỏi đây ngay.”

“Được rồi.”

Vì vậy tôi lại bắt đầu đi, đưa tất cả đến một ngả đường giao nhau gần đó. Một bóng người xuất hiện trong bóng tối ở phía trước, dọc theo bờ một con kênh cạn để thoát nước. Tôi thấy loáng thoáng bóng vũ khí của hắn ta, quan sát một lát tôi rõ thêm - một khẩu AK-47, buộc thêm một băng đạn vào thân súng.

Muj.

Kẻ thù. Hắn quay lưng lại và đang quan sát đường phố thay vì mặt nước, nhưng hắn được vũ trang đầy đủ và ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Không có ống ngắm La-de của khẩu súng, tôi bắn như mù. Tôi ra hiệu cho viên trung úy. Anh ấy chạy đến rất nhanh, ngay phía sau tôi, và Đoàng.

Anh ấy hạ thủ tên phiến quân đó. Anh ấy cũng suýt làm thủng màng nhĩ tôi, phát súng được bắn cách đầu tôi chưa đến chục cen ti mét.

Không có thời gian để mà cằn nhằn. Tôi chạy về phía tên Iraq ngã xuống, nhưng tôi không chắc hắn đã chết hay chưa, hoặc có còn tên nào khác ở gần đó không. Cả trung đội tiến theo sau, tản ra và “ập” vào các ngóc ngách.

Tên đó đã chết. Tôi giật lấy khẩu AK của hắn. Chúng tôi chạy lên con phố dẫn đến ngôi nhà mà chúng tôi sẽ đánh chiếm, bỏ qua một số căn nhà nhỏ hơn trên đường. Chúng tôi cách con sông khoảng vài trăm mét, ngay cạnh hai đường phố chính để kiểm soát góc này của thành phố.

Giống như rất nhiều căn nhà của người Iraq, mục tiêu của chúng tôi có một bức tường bao quanh cao chừng gần hai mét. Cổng khóa kín, vì vậy tôi đã đeo khẩu súng M-4 trên vai, rồi rút khẩu súng lục ra, chạy về phía bức tường và leo lên với cánh tay còn rảnh.

Khi tôi leo lên được trên bức tường, tôi thấy có một số người đang ngủ trên khoảng sân nhỏ. Tôi nhảy vào trong khu nhà, chĩa súng vào bọn họ, chờ đợi anh em trong trung đội đến sau tôi mở cổng.

Tôi đợi.

Và đợi. Đợi mãi.

“Đi nào,” tôi rít khe khẽ. “Xông vào đi nào.”

Chẳng có gì hết.

Một số người Iraq bắt đầu cựa quậy.

Tôi đi từ từ về phía cổng, biết rằng tôi chỉ có một mình. Tất cả những gì tôi biết là tôi ở trong đó, chĩa khẩu súng lục vào khoảng trên chục tên phiến quân, và tách biệt với các anh em còn lại bằng một bức tường dày và chiếc cổng bị khóa chặt.

Tôi tìm đến cổng và cố đẩy tung nó ra. Trung đội của tôi và lính jundis của Iraq chạy vào, bao vây những người vẫn đang ngủ trên sân nhà. (Ở bên ngoài cũng có một sự lộn xộn, vì lý do nào đó họ đã không nhận ra là chỉ có một mình tôi ở bên trong.)

Những người ngủ trong sân hóa ra chỉ là một gia đình đông đúc bình thường. Một số người của tôi đã dồn họ vào một nơi mà không phải bắn dọa phát nào, tập hợp họ lại và chuyển họ đến một khu vực an toàn. Trong khi đó, những người còn lại chạy vào tòa nhà, rà soát từng phòng nhanh hết sức có thể. Có một căn nhà chính và một căn nhà nhỏ hơn kế bên. Trong khi người của tôi kiểm tra vũ khí, bom và bất cứ thứ gì khả nghi, tôi chạy lên mái nhà.

Một trong những lý do chúng tôi chọn căn nhà này là vì chiều cao của nó, phần chính của căn nhà cao ba tầng, vì vậy tôi sẽ có tầm nhìn khá ổn ra khu vực xung quanh.

Không có gì xáo trộn. Đến giờ mọi việc đều ổn cả.

“Căn nhà an toàn;” người lính thông tin điện đàm cho Lục quân. “Cứ tiến vào đi.”

Chúng tôi đã chiếm được căn nhà sẽ trở thành bốt chiến đấu tiền phương Chim Ưng (Combat Outpost Falcon hay COP Falcon), và một lần nữa, chúng tôi làm được mà không phải chiến đấu gì.

HẠ SĨ HẢI QUÂN/ LÍNH THAM MƯU

Ban chỉ huy của chúng tôi đã giúp hoạch định các cuộc hành quân của COP Falcon, làm việc trực tiếp với các chỉ huy Lục quân. Sau khi vạch xong kế hoạch, họ tới gặp chỉ huy trung đội và yêu cầu chúng tôi bổ sung. Tôi đã tham gia sâu hơn hẳn so với trước đây vào quá trình hoạch định chiến thuật này.

Tôi có cảm giác hỗn độn. Một mặt, tôi đã có kinh nghiệm và kiến thức để bổ sung điều gì đó hữu ích. Mặt khác, nó buộc tôi phải làm kiểu công việc mà tôi không hề thích thú. Nó có vẻ mang tính chất “hành chính” hoặc quan liêu một chút, nói theo ngôn ngữ văn phòng bên dân sự là công việc bàn giấy của những kẻ chuyên mặc áo sơ mi và đeo cà vạt.

Là quân nhân có bậc lương E6, tôi là một trong số những người có quân hàm cao trong trung đội. Thông thường, ở trung đội sẽ có một trung sĩ (bậc lương E7 trong thang lương từ E1 thấp nhất đến E9 cao nhất của lương Hải quân), anh này là hạ sĩ quan ngạch quân dịch, và một LPO (Leading Petty Officer) tương đương cấp chuẩn thượng sĩ (còn gọi là hạ sĩ nhất của Hải quân). Nói chung, LPO là một sĩ quan ở bậc E6, và cả trung đội chỉ có một người. Trong trung đội của tôi, chúng tôi có tới hai hạ sĩ quan như vậy. Tôi là một E6 thâm niên ít hơn, và một người thâm niên cao hơn - Jay, một E6, là LPO, vì vậy tôi thoát được rất nhiều trách nhiệm hành chính cho vị trí đó. Mặt khác, tôi được hưởng lợi từ cấp bậc đó. Đối với tôi, nó giống như câu chuyện cổ tích Goldilocks và ba Con Gấu, chức vụ của tôi hơi cao để phải làm những sự vụ vớ vẩn, nhưng lại hơi thấp để làm công tác quản lý. Tôi ở đúng vị trí tôi thích.

Tôi ghét cứ phải ngồi trước máy tính và hoạch định mọi thứ, chưa kể đến việc phải làm bản trình chiếu slide về những gì mình đã vạch ra. Tôi thích cách ra khẩu lệnh đơn giản, “Này, theo lệnh tôi, tôi sẽ nói những gì trung đội ta cần phải thực hiện trong đợt hành quân này.” Nhưng viết hết ra cũng rất quan trọng: nếu tôi bị hạ, người khác sẽ thay thế và biết được việc gì đang diễn ra.

Tôi có lần dính vào một công việc hành chính chẳng liên quan gì đến hoạch định kế hoạch tác chiến cả: đánh giá các hạ sĩ quan cấp bậc E5. Tôi thực sự ghét công việc này. (Jay có một chuyến công tác ngắn và để đống việc này cho tôi, tôi dám chắc là vì Jay cũng không hề muốn làm mấy cái việc ấy.) Mặt tích cực của công việc này là tôi có thể nhận ra được người của chúng tôi tốt đến mức nào. Trong trung đội không có ai là đồ bỏ đi, đó là một nhóm thật sự xuất sắc.

Ngoài cấp bậc và kinh nghiệm của tôi, ban chỉ huy muốn tôi tham gia vào việc lập kế hoạch vì những người lính bắn tỉa đóng một vai trò xông xáo hơn trên chiến trường. Theo thuật ngữ quân sự, chúng tôi đã trở thành một nhân tử lực - một yếu tố có giá trị nhân sức mạnh lực lượng lên nhiều lần, chúng tôi có thể làm được nhiều hơn những gì mà bạn nghĩ chỉ dựa trên tính toán lực lượng thuần túy.

Phần lớn các quyết định hoạch định liên quan đến các chi tiết như chiếm những căn nhà tốt nhất để lập trạm quan sát, con đường nào để tiến quân vào, rải quân ra sao, chúng tôi sẽ làm gì sau khi chiếm được những căn nhà đầu tiên, v.v... Một số quyết định cần phải rất khôn khéo. Ví dụ như làm thế nào để tìm được vị trí nấp cho lính bắn tỉa. Cách tốt nhất là phải lẻn vào đó mà không ai thấy. Điều đó có nghĩa là nên đi bộ vào bên trong, như chúng tôi từng làm ở một số làng. Nhưng bạn sẽ không muốn đi bộ qua những ngõ hẹp đầy rác rưởi, nó tạo ra nhiều tiếng động, và có quá nhiều khả năng dính một quả mìn IED hoặc một vụ mai phục.

Có một quan niệm sai lầm trong suy nghĩ đám đông, đó là lính đặc nhiệm luôn luôn nhảy dù hoặc tuột thang dây xuống khu vực đang có vấn đề. Đương nhiên chúng tôi dùng cả hai cách đó ở những nơi phù hợp, nhưng chúng tôi không bay vào bất cứ khu vực nào ở Ramadi. Máy bay lên thẳng có những lợi thế nhất định, như tốc độ và khả năng di chuyển đến một khu vực tương đối xa. Nhưng nó cũng ầm ĩ và thu hút sự chú ý trong một môi trường đô thị. Vì vậy, nó sẽ là mục tiêu tương đối dễ bắn hạ.

Trong trường hợp này, tiến quân bằng đường thủy là hợp lý nhất, bởi vì cách thiết kế của thành phố Ramadi và vì vị trí của các mục tiêu. Nó cho phép chúng tôi tiến vào một vị trí gần khu vực có mục tiêu một cách kín đáo và tương đối nhanh, và ít nguy cơ đụng độ hơn so với các con đường trên bộ. Nhưng quyết định đó đã dẫn đến một vấn đề không ngờ tới, chúng tôi không có xuồng.

Thông thường, lực lượng Sesl hợp tác với các đội Tàu Đặc Nhiệm (Special Boat Team) mà hồi đó cũng như từ trước vẫn thường được gọi là Đơn vị Tàu Đặc Nhiệm (Special Boat Unit) hay SBU. Tên khác nhưng vẫn cùng nhiệm vụ. Họ lái những chiếc xuồng cao tốc chở lực lượng SEAL vào và rồi đón họ ra; chúng tôi từng được một đơn vị này giải cứu khi chúng tôi bị “mất tích” ở bờ biển California trong lúc tập luyện.

Đã có chút xích mích giữa lực lượng SEAL và SBU tại các quán bar ở trong nước, nơi người ta thường nghe vài thành viên của SBU tự xưng là các SEAL. Những gã SEAL thì nghĩ và thỉnh thoảng hay nói rằng điều đó giống như một anh chàng lái xe tắc xi tuyên bố anh ta là một ngôi sao điện ảnh, bởi anh ta đã đưa ai đó đến trường quay.

Dù gì đi nữa, cũng có những anh chàng giỏi giang ở đơn vị đó. Điều cuối cùng chúng tôi cần là kề vai chiến đấu với những người sẽ hỗ trợ chúng tôi.

Nhưng việc này phải đến từ cả hai phía. Vấn đề của chúng tôi ở Ramadi xuất phát từ thực tế là đơn vị lẽ ra sẽ chiến đấu với chúng tôi lại từ chối giúp đỡ.

Họ nói với chúng tôi rằng họ có nhiệm vụ quan trọng đến mức không thể giúp chúng tôi được. Thực ra, họ nại lý do là đang ở chế độ sẵn sàng để chờ một đơn vị khác có ưu tiên cao hơn trong trường hợp đơn vị này cần đến họ. Thực tế là họ chẳng chờ ai cả.

Vâng, xin lỗi, tôi khá chắc nhiệm vụ của họ là giúp đỡ bất cứ ai đang cần giúp đỡ cho dù là việc gì đi nữa. Chúng tôi săn lùng xung quanh và tìm được một đơn vị Lính thủy đánh bộ được trang bị những chiếc xuồng SURC - loại tàu nhỏ, chạy trên vùng nước nông có thể đưa chúng tôi vào bờ. Xuồng của họ được bọc thép và trang bị súng máy ở cả đằng mũi lẫn đằng lái.

Những tay lái xuồng này là những gã quá được. Họ làm mọi điều mà lẽ ra một đơn vị SBU phải làm. Trừ việc từ chối chúng tôi.

Họ biết rõ nhiệm vụ của mình. Họ không giả vờ là người khác. Họ chỉ muốn đưa chúng tôi đến đó, theo con đường an toàn nhất có thể. Khi nhiệm vụ của chúng tôi hoàn thành, họ đến đón chúng tôi, cho dù đó là một điểm nóng. Những chàng Lính thủy đánh bộ sẽ đến trong tích tắc.

BỐT CHIẾN ĐẤU TIỀN PHƯƠNG CHIM ƯNG

Lục quân đã tiến vào cùng với những xe tăng, xe bọc thép và xe tải. Binh sĩ vác trên lưng những bao cát và củng cố các vị trí yếu trong nhà. Căn nhà mà chúng tôi đóng nằm ở góc của một điểm giao cắt hình chữ T của hai con đường chính mà chúng tôi gọi một trong hai con đường đó là Sunset. Lục quân muốn vị trí này vì vị trí chiến lược của nó; một nút cổ chai và một sự hiện diện khá rõ ràng trong lòng thành phố.

Những thành tố này cũng biến nơi đây thành mục tiêu hàng đầu.

Những chiếc xe tăng tiến vào ngay lập tức gây chú ý. Một vài tên phiến quân bắt đầu tiến về phía ngôi nhà khi xe tăng đến. Bọn xấu được trang bị súng AK, có lẽ đã nghĩ một cách ngu xuẩn rằng chúng có thể đe dọa được đội quân bọc thép đó. Tôi chờ cho đến khi chúng chỉ còn cách những chiếc xe tăng chừng 200 mét và hạ gục chúng. Chúng là những mục tiêu rất dễ bắn và găm chúng xuống đất trước khi chúng có thể phối hợp thành một cuộc tấn công có tổ chức.

Mấy giờ trôi qua. Tôi vẫn tiếp tục tìm mục tiêu: Bọn phiến quân đang thám thính khu vực, một hoặc hai tên cùng lúc, cố gắng lẻn vào phía sau chúng tôi.

Không có gì gấp gáp hay ồ ạt, nhưng cơ hội cứ đến đều đều. Sau này tôi gọi đó là những phát súng bất ngờ.

Chỉ huy của Lục quân ước chừng chúng tôi hạ được khoảng trên hai chục tên phiến quân trong vòng mười hai tiếng đồng hồ đầu tiên của cuộc chiến. Tôi không biết con số chính xác đến mức nào, nhưng trong ngày đầu tiên bản thân tôi cũng hạ được vài tên, mỗi tên chỉ cần một phát đạn. Việc bắn cũng chẳng phải là siêu đẳng gì, tất cả bọn chúng đều loanh quanh đâu đó cách chưa đầy 400 mét. Mà trong tầm đó thì loại súng.300 Win Mag bắn quá chuẩn.

Trong khi trời vẫn tối, bên Lục quân đã củng cố đủ sức phòng thủ ở Falcon để tự bảo vệ nếu họ bị tấn công. Tôi cùng với đồng đội tụt khỏi mái nhà và di chuyển ra ngoài một lần nữa, chạy về phía một khu chung cư đổ nát cách đó vài trăm mét. Tòa nhà này là một trong những tòa nhà cao nhất trong khu vực, có lợi thế tuyệt vời không chỉ đối với Falcon mà với cả khu vực. Chúng tôi gọi nó là cao điểm Bốn Tầng; rốt cuộc nó trở thành một bản doanh khác bên cạnh bản doanh Falcon suốt nhiều trận đánh sau đó.

Chúng tôi chiếm tòa nhà mà không gặp trở ngại gì. Nó trống trơn.

Chúng tôi không thấy gì thêm cho đến sáng hôm sau. Nhưng khi mặt trời nhô lên thì bọn phiến quân cũng vậy.

Chúng nhắm vào COP Falcon, nhưng vô ích. Chúng đi bộ, lái ô tô, đi xe gắn máy, tìm cách đến đủ gần mục tiêu để tung ra một cuộc tấn công. Lần nào cũng thấy chúng làm như sau: hai tên cưỡi một chiếc xe gắn máy, tên đầu tiên có một khẩu AK, tên thứ hai vác một súng phóng lựu.

Ý tôi là, cố lên các chú.

Chúng tôi đã bắn hạ rất nhiều tên. Bốn Tầng là một nơi nấp để bắn tỉa tuyệt vời. Nó là tòa nhà cao nhất trong khu vực, người ta không thể tiếp cận nó mà không bị phát hiện. Từ trên đó rất dễ phát hiện kẻ tấn công. Dauber nói chúng tôi đã hạ được hai mươi ba tên trong hai mươi tư tiếng đầu tiên khi chúng tôi ở đó; trong những ngày sau, chúng tỏi còn bắn hạ nhiều mục tiêu hơn.

Tất nhiên, sau phát đạn đầu tiên, vấn đề là vị trí chiến đấu chứ không phải là vị trí nấp để bắn tỉa nữa. Nhưng theo cách nào đó, tôi không ngại bị tấn công, bọn phiến quân chỉ làm cho tôi bắn chúng dễ dàng hơn mà thôi.

SỐ 100 VÀ 101

Nếu chiến sự quanh khi vực của bốt chiến đấu tiền phương COP Iron im ắng đến tẻ nhạt, thì chiến sự quanh COP Falcon ngược lại hoàn toàn: căng thẳng và dày đặc. Doanh trại của Lục quân là mối đe dọa thực sự đối với phiến quân, bọn chúng muốn xóa sổ doanh trại.

Bọn phiến quân ồ ạt tiến về phía chúng tôi. Điều đó chỉ khiến chúng tôi đánh bại bọn chúng dễ hơn.

Ngay sau khi cuộc tiến công vào Ramadi bắt đầu, tôi đã đạt được một mốc rất quan trọng đối với một lính bắn tỉa: tôi được xác nhận là đã hạ được mục tiêu thứ 100 và 101 trong đợt dàn quân đó. Một đồng đội đã chụp ảnh tôi để lưu truyền hậu thế, tay đang giơ cao tấm huân chương bằng đồng.

Có một cuộc đua nhỏ giữa bản thân tôi và một số lính bắn tỉa khác trong đợt dàn quân này, xem ai bắn được nhiều kẻ thù nhất. Không phải là chúng tôi làm chỉ vì các con số, ý nghĩa đạt được còn hơn cả con số bao nhiêu mục tiêu chúng tôi đã bắn hạ. Con số chỉ là vận may, bạn muốn có con số lớn nhất, nhưng đó không phải là tất cả những gì bạn có thể làm được.

Tôi thực sự muốn trở thành tay bắn tỉa hàng đầu. Ban đầu, có ba người chúng tôi bắn được nhiều mục tiêu nhất, rồi hai người bắt đầu bị tụt lại. “Đối thủ cạnh tranh” còn lại của tôi ở bên trung đội kết nghĩa, hoạt động ở phía Đông thành phố. Tổng số anh ấy bắn được nhiều hơn tôi một tên, anh ấy là người dẫn đầu.

Vị sếp lớn của chứng tôi tình cờ lại ở cùng phía thành phố với chúng tôi, ông vẫn theo dõi các trung đội hoạt động như thế nào. Một phần công việc đó là tổng kết số mục tiêu các tay bắn tỉa hạ được. Ông khích tôi khi tay bắn tỉa kia đang dẫn trước.

“Hắn sẽ phá kỷ lục của cậu thôi,” ông trêu chọc. “Tốt hơn là cậu phải cưỡi lên khẩu súng đó nhiều hơn nữa.”

Rồi mọi thứ cân bằng rất nhanh, thật bất ngờ là có vẻ như tất cả những tên xấu xa tồi tệ trong thành phố đều chạy qua ống ngắm của tôi. Tổng số kẻ thù tôi bắn hạ cao vọt lên, và chẳng ai đuổi kịp tôi nữa.

Đúng là vận may.

Nếu bạn quan tâm đến chuyện này, thì số lượng kẻ bị bắn hạ phải được xác nhận, tức là phải có người chứng kiến, đồng thời kẻ bị hạ cũng phải được xác nhận là đã chết. Vì vậy, nếu tôi bắn vào bụng một tên nào đó và hắn có thể bò quanh đâu mất khiến chúng tôi không thể thấy hắn trước khi hắn chết vì mất máu, thì hắn không được tính.

TÁC CHIẾN VỚI LỤC QUÂN

Khi các cuộc tấn công đầu tiên hạ nhiệt sau vài ngày chúng tôi đi bộ tuần tra từ khu Bốn Tầng quay lại COP Falcon. Ở đó chúng tôi gặp viên đại úy của đơn vị và nói với ông ấy là chúng tôi muốn đóng quân ngay tại Falcon thay vì cứ vài ngày tất cả lại phải quay về Doanh hại Ramadi.

Ông đã cho chúng tôi dãy phòng kết nghĩa. Chúng tôi trở thành đơn vị kết nghĩa với Lục quân.

Chúng tôi cũng nói với ông rằng chúng tôi sẽ giúp ông càn quét sạch sẽ bất cứ khu vực nào ông muốn. Nhiệm vụ của ông là càn quét sạch sẽ thành phố quanh COP Falcon, và nhiệm vụ của chúng tôi là giúp ông.

“Địa điểm tệ nhất của ông là ở đâu?” chúng tôi hỏi.

Ông ấy chỉ nó cho chúng tôi.

“Chúng tôi sẽ đi tới đó,” chúng tôi nói.

Ông ấy lắc đầu và đảo mắt.

“Các cậu điên rồi,” ông nói. “Các cậu có thể ở căn nhà đó, các cậu có thể trang bị cho nó bất cứ thứ gì các cậu thích, các cậu có thể đi bất kỳ đâu các cậu muốn. Nhưng tôi muốn các cậu biết rằng, tôi không ủng hộ các cậu nếu các cậu đến đó. Có quá nhiều IED ở đó, nếu đến đó tôi sẽ mất một chiếc xe tăng. Tôi không thể làm điều đó được.”

Cũng nhu nhiều người bên lục quân, tôi chắc rằng vị đại úy này lúc đầu nhìn chúng tôi đầy hoài nghi. Tất cả bọn họ đều cho rằng chúng tôi nghĩ chúng tôi giỏi hơn bọn họ, rằng chúng tôi có cái tôi quá lớn và quá huênh hoang mà chưa chứng minh cho họ thấy điều gì. Khi chúng tôi đã chứng minh cho họ thấy chúng tôi không nghĩ chúng tôi giỏi hơn họ, mà là có kinh nghiệm hơn, vâng, nhưng không hề nói quá chút nào, nếu các bạn hiểu ý tôi muốn nói, thì họ thường vây lấy chúng tôi. Chúng tôi thiết lập mối quan hệ tác chiến mạnh mẽ với các đơn vị, thậm chí quan hệ bạn bè còn kéo dài cả sau chiến tranh.

Đơn vị của viên đại úy đang xây dựng đồn bốt và hành quân tìm kiếm, họ sẽ chiếm toàn bộ khối nhà và lục soát nó. Chúng tôi bắt đầu hợp tác với họ. Chúng tôi tiến hành các cuộc tuần tra công khai vào ban ngày, ý tưởng là làm cho dân thường thấy quân đội hoạt động thường xuyên, để họ tin tưởng hơn rằng họ đang được bảo vệ hoặc ít nhất chúng tôi vẫn đang ở đó. Chúng tôi phân công một nửa trung đội thực hiện nhiệm vụ canh gác, nửa còn lại thực hiện nhiệm vụ tuần tra.

Phần lớn việc canh gác này được đặt gần tòa nhà Bốn Tầng. Những người ở tầng dưới thực hiện việc tuần tra và hầu như luôn đụng độ. Tôi ở tầng trên cùng với những tay súng bắn tỉa khác và ghim xuống đất bất kỳ kẻ nào tìm cách tấn công họ.

Hoặc chúng tôi mở rộng hoạt động ra khoảng năm trăm mét, sáu hoặc tám trăm mét, tiến sâu vào lãnh thổ Injun để tìm kiếm và chờ đợi kẻ thù. Chúng tôi đã đặt chốt quan sát trước một trong những đội tuần tra của viên đại úy kéo đến. Ngay sau khi người của ông ấy xuất hiện, họ đã lôi kéo toàn bộ bọn phiến quân về phía họ. Chúng tôi đã hạ gục bọn chúng. Bọn phiến quân rút lui và tìm cách bắn lại chúng tôi; chúng tôi lần lượt hạ bọn chúng. Chúng tôi vừa là người bảo vệ vừa là những con mồi và những kẻ tiêu diệt.

Sau vài hôm, viên đại úy đến gặp chúng tôi và nói, “Bọn cậu toàn thằng đỉnh. Tôi không quan tâm đến các cậu sẽ đi đâu, nếu các cậu cần tôi, tôi sẽ tới ngay chỗ các cậu. Tôi sẽ lái chiếc xe tăng đến tận cửa trước nhà các cậu.”

Từ đó trở đi, ông giành trọn được lòng tin và sự ủng hộ của chúng tôi.

Một buổi sáng, tôi đang quan sát trên tòa nhà bốn tầng trong khi một số đồng đội bắt đầu đi tuần tra ở gần đó. Khi họ đang vượt qua đường phố, tôi phát hiện một số tên phiến quân đang tiến về phố J, một trong những đường phố chính ở khu vực đó.

Tôi đã hạ thủ được hai tên. Đồng đội tôi chạy tán loạn. Không biết chuyện gì đang xảy ra, một người đã hỏi qua điện đài là thế quái nào tôi lại bắn vào bọn họ.

“Tôi đang bắn phía trên đầu các cậu ấy,” tôi nói với anh ta. “Hãy nhìn xuống dưới phố đi.”

Đám phiến quân bắt đầu tràn vào khu vực và một cuộc đọ súng ác liệt nổ ra. Tôi thấy một tên vác khẩu phóng lựu RPG, tôi đặt hắn trong tầm ngắm, rồi siết nhẹ cò súng.

Hắn gục xuống.

Vài phút sau, một tên bạn của hắn chạy đến để chộp khẩu súng phóng lựu.

Hắn lại gục xuống.

Việc này tiếp diễn một lúc. Phía dưới tòa nhà, một tên phiến quân với khẩu AK tìm cách bắn đồng đội chúng tôi. Tôi lại hạ gục hắn, rồi hạ tiếp một tên nữa chạy đến để giật khẩu súng của hắn ta, và thế là toi thêm một tên nữa.

Hẳn là môi trường đầy mục tiêu?! Chết tiệt, hàng đống phiến quân nằm ngổn ngang khắp phố. Cuối cùng bọn chúng cũng bỏ cuộc và biến mất. Đồng đội chúng tôi lại tiếp tục tuần tra. Nhóm jundis đã chứng kiến cuộc chiến ngày hôm đó; hai người trong số họ đã tử trận trong một cuộc đọ súng.

Thật khó thống kê được bao nhiêu tên đã bị tôi giết ngày hôm đó, nhưng tôi tin rằng tổng số ngày hôm đó là con số cao nhất tôi từng bắn được trong một ngày.

Chúng tôi biết rằng chúng tôi có quan hệ tốt với viên đại úy khi một hôm ông đến và nói với chúng tôi, “Này, các cậu làm cho tớ một việc thôi. Trước khi rời khỏi đây, tớ muốn được một lần bắn khẩu súng chính trên xe tăng của tớ, được không? Vì vậy, hãy gọi cho tớ nhé.”

Sau đó không lâu chúng tôi lại bước vào một cuộc chiến, và chúng tôi đã liên lạc với đơn vị của viên đại úy qua điện đài. Chúng tôi gọi viên đại úy, ông ta đưa xe tăng đến và đã được bắn súng.

Sự việc diễn ra nhiều ngày sau đó. Đến khi rời Ramadi, viên đại úy đã được bắn đến ba mươi bảy lần.

CẦU NGUYỆN VÀ VÒNG ĐEO TAY CÓ GÀI Ổ ĐẠN

Trước mọi cuộc hành quân chiến đấu, một nhóm người trong trung đội sẽ tập trung lại và cầu nguyện. Marc Lee dẫn đầu cả nhóm, thường cầu nguyện từ trái tim chứ không phải đọc lời cầu nguyện thuộc lòng trong trí nhớ.

Tôi không thường xuyên cầu nguyện mỗi khi ra ngoài, nhưng tôi luôn cảm ơn Chúa mỗi khi trở về.

Có một nghi lễ khác khi chúng tôi trở về, đó là hút xì gà.

Vài người bọn tôi sẽ tụ tập nhau lại và hút xì gà khi kết thúc một cuộc chiến đấu. Ở Iraq, có thể kiếm được xì gà Cu Ba; chúng tôi thường hút loại Romeo y Julieta No. 3s. Chúng tôi sẽ hút trọn ngày.

Một mặt, tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng chúng tôi không thể bị đánh bại. Mặt khác, chúng tôi cũng chấp nhận thực tế là chúng tôi có thể chết.

Tôi không tập trung vào cái chết, hoặc không mất nhiều thời gian để nghĩ về nó. Nó giống một ý tưởng hơn, thấp thoáng ở đằng xa.

Trong đợt dàn quân này tôi đã phát minh ra một loại vòng đeo cổ tay gài được ổ đạn, một loại gá nhỏ để cài đạn cho phép tôi dễ dàng nạp thêm đạn mà không ảnh hưởng đến vị trí khẩu súng của tôi.

Tôi lấy một gá giữ đạn được thiết kế để cột bằng dây da vào báng súng và cắt nó ra. Tôi kiếm vài đoạn dây dù luồn qua nó rồi buộc vào cổ tay trái của tôi.

Thường là khi bắn, tôi sẽ đặt ngửa nắm tay ở dưới khẩu súng để giúp tôi ngắm bắn. Động tác này đưa vòng đeo tay có gài ổ đạn lên gần hơn. Tôi có thể bắn, dùng tay phải rút đạn từ chỗ gài ra, và nạp thêm đạn trong khi mắt vẫn liên tục nhắm qua ống ngắm.

Là lính bắn tỉa dẫn đầu, tôi gắng giúp đỡ các tân binh, nói cho họ biết phải tìm kiếm những chi tiết nào. Ta có thể biết được kẻ nào là phiến quân không chỉ qua việc hắn có vũ khí gì mà qua cách hắn di chuyển. Tôi bắt đầu đưa ra những chỉ dẫn mà tôi đã học được từ ngày đầu ở Fallujah, một trận đánh mà đến giờ như thể đã diễn ra từ một triệu năm trước.

“Dauber, đừng sợ phải kéo cò súng,” tôi nói với cậu lính bắn tỉa trẻ tuổi hơn. “Nếu vẫn trong khuôn khổ của Quy tắc Tham chiến, cậu cứ bắn hắn ta.”

Lưỡng lự đôi chút là tâm lý khá phổ biến với những người mới. Có thể tất cả người Mỹ chúng ta thường có chút lưỡng lự khi nổ súng lần đầu tiên, ngay cả khi rõ ràng là chúng ta đang bị tấn công hoặc sẽ sớm bị tấn công.

Kẻ thù của chúng ta hình như không gặp vấn đề như vậy. Với chút ít kinh nghiệm, lính của chúng ta cũng không gặp vấn đề như vậy.

Nhưng không bao giờ có thể chắc được một người sẽ chiến đấu như thế nào dưới áp lực chiến đấu. Dauber thực sự đã làm rất tốt - tốt thật luôn. Nhưng tôi cũng thấy rằng, đối với một số lính bắn tỉa, việc căng thẳng quá khiến họ bắn trượt dù họ không gặp vấn đề gì trong quá trình huấn luyện. Đặc biệt có một cậu, một anh chàng xuất sắc, một SEAL giỏi, đã phá vỡ lời nguyền khi bắn trượt quá nhiều.

Bạn chẳng thể nào biết được người ta sẽ phản ứng thế nào.

Ramadi tràn ngập bọn phiến quân, nhưng cũng là nơi có đông dân cư. Thỉnh thoảng họ lang thang vào khu có đấu súng. Ta sẽ tự hỏi họ đang nghĩ cái quái gì không biết.

Một hôm, chúng tôi đang ở trong một căn nhà tại một khu vực khác của thành phố. Chúng tôi giao chiến với một nhóm phiến quân, giết được khá nhiều tên và đang chờ đợi trong lúc tạm lắng. Đám phiến quân có lẽ đang ở loanh quanh, cũng đang chờ đợi một cơ hội khác để tấn công.

Bọn phiến quân thường đặt những hòn đá nhỏ ở giữa đường để cảnh báo cho bọn khác nơi chúng tôi đang đóng quân. Dân thường khi nhìn thấy các hòn đá đó sẽ nhận ra ngay điều đang diễn ra. Họ thường sẽ tránh xa nơi đó. Hàng giờ trôi qua trước khi chúng tôi bắt gặp lại một ai đó, và tất nhiên cho đến thời điểm ấy, những người mà chúng tôi nhìn thấy đều mang súng và tìm cách giết chúng tôi.

Vì lý do nào đó, một chiếc xe chạy như bay qua các hòn đá, chẹt lên chúng, hướng về phía chúng tôi, vượt qua tất cả những xác chết trên đường.

Tôi ném một quả lựu đạn gây lóa, nhưng lựu đạn cũng không khiến lái xe dừng lại. Do đó, tôi bắn về phía trước xe. Viên đạn bay xuyên qua nắp máy xe. Hắn dừng lại và nhảy ra khỏi xe, vừa kêu la vừa nhảy lò cò xung quanh.

Có hai người phụ nữ ngồi cùng hắn trên xe. Họ ắt phải là những kẻ ngu ngốc nhất trong thành phố, bởi vì với tất cả những gì đã xảy ra, họ quên là chúng tôi đang ở đây hoặc những nguy hiểm quanh họ. Họ bắt đầu tiến về phía ngôi nhà của chúng tôi. Tôi ném thêm một quả lựu đạn gây lóa nữa và cuối cùng họ quay về hướng mà họ đã xuất hiện. Rốt cuộc, hình như họ cũng thấy mấy xác chết nằm ngổn ngang và bắt đầu hét lên.

Dường như bọn họ đã có một cuộc đào thoát yên ổn, trừ vết thương ở chân. Nhưng việc họ thoát chết đã là một phép mầu.

Trận đánh khốc liệt và chậm rãi, nhưng khiến chúng tôi thèm khát hơn. Chúng tôi khát khao điều đó. Khi kẻ thù đang ẩn nấp, chúng tôi tìm cách dụ bọn chúng ra để có thể hạ bọn chúng.

Một đồng đội có một chiếc khăn màu sặc sỡ, chúng tôi đã lấy chiếc khăn đó tạo thành một cái đầu xác ướp. Đeo cho nó cặp kính bảo hộ và chiếc mũ bảo hiểm, trông nó gần giống một người lính, tất nhiên là khi nhìn từ cách đó khoảng vài trăm mét. Rồi chúng tôi buộc nó vào một cái sào và dựng nó trên mái nhà để thu hút hỏa lực của địch vào ngày trận đánh diễn ra chậm chạp. Nó nhử ngay được dăm ba tên phiến quân ra ngoài, và chúng tôi đã hạ liền bọn chúng.

Cả ngày chúng tôi ngồi tàn sát bọn chúng.

Có những lúc chúng tôi thành công ở chốt quan sát đến mức tôi nghĩ những đồng đội của chúng tôi đi tuần trên phố bắt đầu có chút bất cẩn. Có lần tôi phát hiện ra bọn họ đi nghênh ngang giữa đường phố chứ không đi sát lề đường và cúi rạp xuống chỗ có chút che chắn bởi những bức tường và hàng cây thưa.

Tôi lấy điện đài gọi xuống.

“Này, tất cả các cậu phải tạo điều kiện để yểm trợ chứ,” tôi nói với họ, có chút mắng mỏ.

“Tại sao vậy?” một cậu trong trung đội tôi hỏi. “Các anh yểm trợ bọn tôi rồi còn gì.”

Cậu ta có thể chỉ đang nói đùa, nhưng tôi lại coi nó là nghiêm túc.

“Tôi không thể bảo vệ các cậu khỏi những gì mà tôi không nhìn thấy,” tôi nói. “Nếu tôi không thấy một tia sáng hay sự di chuyển nào, tôi sẽ chỉ phát hiện ra hắn khi hắn đã khai hỏa. Tôi có thể hạ được hắn sau khi hắn bắn cậu, nhưng như thế sẽ chẳng giúp được gì cho cậu nữa.”

Một buổi tối, khi trở về căn cứ Shark chúng tôi lại dính vào một cuộc đọ súng nữa, một trận đánh thần tốc kiểu đánh xong là bỏ chạy. Bỗng nhiên, một quả lựu đạn bay qua và nổ gần một vài đồng đội.

Đám phiến quân chạy thoát thân, còn chúng tôi xốc lại đội hình và đi tiếp.

“Brad, chân cậu bị làm sao đấy?” một người trong trung đội hỏi.

Cậu ta nhìn xuống. Chân cậu ta đầy máu.

“Có sao đâu,” cậu ta nói.

Hóa ra, cậu ta bị một mảnh kim loại cắm vào chỗ đầu gối. Có thể lúc đó chưa thấy đau - tôi không biết thực tế thế nào, bởi vì thực tế thì không một SEAL nào từng thừa nhận cảm thấy đau đớn ngay từ đầu cả nhưng khi trở lại cán cứ Shark, rõ ràng là vết thương của cậu ta không thể bỏ qua được. Mảnh đạn làm vỡ phía sau xương bánh chè. Cậu ta phải đi phẫu thuật.

Cậu ta được không vận ra ngoài, tổn thương đầu tiên của chúng tôi ở Ramadi.

NGƯỜI LÀM VƯỜN KIÊN ĐỊNH

Trung đội cạ cứng của chúng tôi đóng ở phía Đông thành phố, để giúp bên Lục quân đặt trạm bốt tiền phương bên đó. Về phía Bắc, lực lượng Lính thủy đánh bộ đang thực hiện nhiệm vụ của họ, chiếm đóng khu vực, cầm chân và càn quét phiến quân.

Chúng tôi trở lại trong một vài ngày để hợp tác với lực lượng Lính thủy đánh bộ khi họ đã chiếm được một bệnh viện phía Bắc thành phố bên bờ sông.

Phiến quân thường dùng bệnh viện làm điểm tập trung quân. Khi Lính thủy đánh bộ tiến quân vào, một thiếu niên, tôi đoán chừng mười lăm, mười sáu tuổi, xuất hiện trên đường phố với khẩu súng AK-47 trên tay bắn bọn họ.

Tôi hạ hắn ngay.

Một hoặc hai phút sau, một phụ nữ Iraq chạy đến, nhìn thấy hắn trên nền đất, bà ta xé toạc quần áo của mình. Chắc chắn đó là mẹ cậu ta.

Tôi từng thấy gia đình của đám phiến quân thể hiện niềm thương đau của họ, xé quần áo, thậm chí còn bôi máu lên chính người họ nữa. Nếu yêu thương con cái mình, tôi nghĩ, cần phải tách chúng ra khỏi chiến tranh. Họ cần phải ngăn cản con cái tham gia vào lực lượng phiến quân. Nếu cứ để bọn trẻ tìm cách giết chúng tôi, họ nghĩ điều gì sẽ xảy ra với con cái mình?

Có thể điều đó tàn nhẫn, nhưng thật khó thông cảm với nỗi đau của người chỉ tìm cách giết ta.

Có thể họ có cùng cảm giác đó với chúng tôi.

Những người ở trong nước, những người chưa từng tham gia chiến tranh, hoặc ít nhất là cũng không tham gia cuộc chiến tranh này, dường như có lúc không hiểu được quân đội ở Iraq phản ứng thế nào. Họ ngạc nhiên, sốc nữa, khi phát hiện ra chúng tôi thường đùa vui về cái chết, về những gì chúng tôi đã chứng kiến ở đây.

Nó có vẻ tàn nhẫn và không thích hợp. Có thể là như vậy, nếu đặt trong những hoàn cảnh khác. Nhưng trong bối cảnh nơi mà chúng tôi đang ở, điều đó lại hợp lý. Chúng tôi đã nhìn thấy những điều kinh khủng, và sống sót qua những điều kinh khủng ấy.

Tôi chắc rằng một phần trong đó để giảm bớt áp lực hoặc xả hơi. Một cách để đương đầu mà thôi. Nếu ta không thể làm các sự việc trở nên họp lý, ta phải tìm cách khác để xử lý chúng. Ta cười bởi ta phải có cảm xúc nào đó, bằng cách này hay cách khác, ta phải bày tỏ bản thân mình.

Mọi cuộc hành quân đều trộn lẫn cuộc sống vào cái chết theo những cách thật kỳ lạ.

Cũng trong chiến dịch chiếm bệnh viện đó, chúng tôi đã chiếm được một căn nhà dùng để trinh sát khu vực trước khi Lính thủy đánh bộ tiến vào. Chúng tôi nấp được một lúc thì có một tên xuất hiện cùng với một chiếc xe cút kít để chôn một quả mìn IED ở sân sau chỗ chúng tôi đóng quân. Một trong những lính mới của chúng tôi đã bắn hắn ta. Nhưng hắn không chết; hắn ngã gục xuống rồi lăn lộn trên nền đất, vẫn còn sống.

Tình cờ người bắn hắn ta là lính quân y.

“Cậu đã bắn hắn ta, cậu phải cứu hắn,” chúng tôi nói với cậu ta. Vậy là, cậu chạy xuống và tìm cách cứu hắn ta.

Không may là tên Iraq đó đã chết. Trong lúc lăn lộn, ruột hắn lòi ra ngoài. Cậu lính quân y và một tân binh khác đã khiêng cái xác rút đi cùng với chúng tôi khi rút quân.

Khi về đến hàng rào khu vực đóng quân của Lính thủy đánh bộ, họ không biết làm gì với cái xác. Cuối cùng, họ đã ném cái xác vắt qua hàng rào dây thép gai và trèo qua cái xác để vào. Giống như cảnh trong phim Weekend at Bernie’s[*] vậy.

Chu thich: Bộ phim hài Mỹ của đạo diễn Ted Kotcheff, sản xuất năm 1989.

Trong khoảng chưa đầy một giờ, chúng tôi đã bắn một tên định làm nổ tung chúng tôi, tìm cách cứu hắn, và mạo phạm thi thể hắn.

Chiến trường đúng là một chốn kỳ quái.

Ngay sau khi chiếm được bệnh viện, chúng tôi quay trở lại con sông, nơi ca nô của Lính thủy đánh bộ đã thả chúng tôi lên bờ. Khi chúng tôi đi xuống bờ sông, một khẩu súng máy của kẻ thù xé toạc màn đêm. Chúng tôi rạp xuống đất, nằm đó trong mấy phút, bị một tay súng duy nhất người Iraq ghìm chân lại.

Ơn Chúa, gã này bắn như hạch.

Luôn luôn có một sự cân bằng mong manh, giữa sự sống và cái chết, giữa hài kịch và bi kịch.

TAYA:

Tôi không bao giờ bật video mà Chris tự ghi hình anh đang đọc sách cho con trai của chúng tôi. Một phần là vì tôi không muốn nhìn thấy Chris, khiến cho tất cả nghẹn ngào. Tôi đã xúc động như vậy đủ rồi; thấy anh ấy trào nước mắt đọc sách cho con trai sẽ làm tôi tan nát hơn cả đã từng như thế.

Phần còn lại chỉ là một cảm xúc của riêng tôi - có lẽ là nỗi hờn giận với Chris - anh đã rời đi, anh cứ đi, đi luôn.

Thật nghiệt ngã, nhưng có thể đó là một bản năng sinh tồn.

Tôi có cảm giác tương tự như khi đọc những lá thư về cái chết của anh.

Trong khi anh được điều động, anh đã viết những lá thư sẽ được gửi cho bọn trẻ và tôi nếu anh chết. Sau đợt dàn quân đầu tiên, tôi đề nghị được đọc bất kỳ thứ gì anh đã viết, nhưng anh nói anh không còn giữ bất cứ thư nào. Sau đó anh không bao giờ viết thư, và tôi không bao giờ đề nghị được xem chúng nữa.

Có thể chỉ vì tôi đã cáu điên với anh ấy, nhưng tôi nghĩ thầm, chúng tôi sẽ không tôn vinh điều đó sau khi anh chết. Nếu anh cảm thấy thương yêu và tôn sùng, tốt hơn là anh hãy cho tôi biết trong khi anh vẫn còn đang sống.

Có thể điều đó không công bằng, nhưng rất nhiều điều của cuộc sống đâu có công bằng và đó là cảm nghĩ của tôi.

Hãy chứng minh ngay đi. Hãy biến nó thành sự thật. Đừng chỉ nói những điều nhảm nhí khi anh đã ra đi. Bằng không nó chỉ là những điều vớ vẩn.

THẦN HỘ MỆNH VÀ ÁC QUỶ

Chín mươi sáu người Mỹ đã bị giết trong các trận chiến ở Ramadi, vô số người bị thương và phải rút khỏi chiến trường. Tôi may mắn không phải là một trong số đó, mặc dù đã có quá nhiều lúc cận kề với cái chết đến mức tôi nghĩ rằng tôi có một thiên thần hộ mệnh.

Một lần, chúng tôi đang ở trong tòa nhà và bị đám phiến quân ở bên ngoài nã súng không ngóc đầu lên được. Tôi ở hàng hiên, và khi tiếng súng giảm dần, tôi chạy vào một căn phòng để kiểm tra đám lính của tôi. Khi tôi bước vào, tôi trượt chân ngã ngửa ra đằng sau đúng lúc một phát súng bắn qua cửa sổ thẳng vào đầu tôi.

Viên đạn bay qua đúng lúc tôi ngã xuống.

Tại sao tôi lại ngã xuống như vậy, làm thế nào mà tôi lại nhìn thấy viên đạn bay về phía mình, tôi không biết. Như thể có ai đó đã làm cho thời gian trôi chậm lại và đẩy ngược tôi về phía sau.

Phải chăng tôi có một thiên thần hộ mệnh?

Không biết nữa.

“Mẹ kiếp, Chris chết rồi,” một cậu lính của tôi nói khi thấy tôi nằm ngửa trên sàn.

“Chết tiệt,” một cậu khác thốt lên.

“Không, không,” tôi kêu lên, vẫn nằm trên sàn. “Tôi ổn, tôi ổn. Tôi vẫn ổn mà.”

Tôi kiểm tra vài chục lần xem tôi có bị vết đạn nào không, nhưng chẳng có gì cả.

Một thứ đều ổn.

Loại mình IED phổ biến ở Ramadi hơn ở Fallujah. Phiến quân học được rất nhiều cách cài đặt loại mìn này kể từ ngày bắt đầu cuộc chiến tranh, và chúng thường là loại mìn có sức công phá rất mạnh, đủ để thổi bay một chiếc xe Bradley khỏi mặt đất, như tôi đã phát hiện điều này từ trước đó khi ở Baghdad.

Lính công binh tháo gỡ bom mìn (Explosive Ordnance Disposal - EOD) hợp tác với chúng tôi không phải là các SEAL, nhưng chúng tôi đã tin tưởng họ như họ tin tưởng chúng tôi. Chúng tôi thường cài họ ở phía cuối đoàn khi tiến vào một tòa nhà, rồi sau đó mới gọi họ tiến lên phía trước nếu chúng tôi thấy có gì đó khả nghi. Lúc đó, nhiệm vụ của họ là tìm ra các bẫy mìn; nếu đó là một quả bom mà chúng tôi đang ở trong nhà, chúng tôi phải chạy bán mạng ra ngoài.

Chưa bao giờ chúng tôi dính mìn, nhưng có một lần khi chúng tôi đang ở trong một ngôi nhà, một số tên phiến quân đã tìm cách đặt mìn IED ngay ngoài cửa trước. Bọn chúng đã xếp hai quả đạn pháo 105-mm lại với nhau để chờ chúng tôi chạy ra. May thay, công binh EOD của chúng tôi đã phát hiện ra trước khi chúng tôi bước ra ngoài. Chúng tôi dùng búa tạ mở lối ra bằng cách phá thủng bức tường của tầng hai và nhảy sang một mái nhà thấp.

BỊ TRUY NÃ

Tất cả những người Mỹ ở Ramadi đều là những kẻ bị truy nã, phần lớn trong đó là lính bắn tỉa. Theo như nhiều nguồn tin, bọn phiến quân treo phần thưởng săn người cho cái đầu của tôi.

Bọn chúng còn đặt cho tôi cái tên: al-Shaitan Ramadi, tức “Ác quỷ thành Ramadi”.

Nó làm tôi thấy tự hào.

Thực tế thì tôi chỉ là một người lính, và bọn chúng đã chọn tôi vì đã gây ra cho chúng rất nhiều tổn thất. Chúng muốn loại bỏ tôi. Tôi thấy điều này thật thú vị.

Chắc chắn bọn chúng biết tôi là ai, và rõ ràng đã thu thập được tin tức tình báo từ một số đồng bọn Iraq được cho là trung thành với chúng tôi - bọn chúng mô tả tôi có hình xăm chữ thập màu đỏ trên cánh tay.

Một lính bắn tỉa khác của trung đội kết nghĩa với chúng tôi cũng được treo giải cho cái đầu của cậu ta. Cậu ta còn có giá hơn tôi nữa, điều đó làm tôi có chút ghen tị.

Nhưng mọi việc đều ổn cả, bởi vì khi bọn chúng dán các lệnh săn người lên cạnh nhau, lệnh săn tôi thì chúng đã dùng ảnh của cậu ta. Tôi còn hơn cả vui, vì như vậy sẽ khiến bọn chúng nhầm lẫn.

Giải thưởng tăng dần lên khi chiến sự tiếp diễn.

Chết tiệt, tôi nghĩ giải thưởng quá cao đến mức vợ tôi có thể bị cám dỗ mà giao nộp tôi mất.

SỰ TIẾN BỘ

Chúng tôi giúp thiết lập thêm nhiều bốt tiền phương trong khi trung đội kết nghĩa với chúng tôi cũng làm việc tương tự ở phía Đông của thành phố. Nhiều tuần rồi nhiều tháng trôi qua, Ramadi đã bắt đầu thay đổi.

Nơi đây vẫn là cửa địa ngục, cực kỳ nguy hiểm. Nhưng đã có những dấu hiệu tiến bộ. Các thủ lĩnh những bộ lạc đã lên tiếng nhiều hơn về mong muốn hòa bình, và bắt đầu hợp tác với nhau thành một hội đồng thống nhất. Chính phủ chính thức vẫn chưa đến đây, còn cảnh sát và quân đội người Iraq còn xa mới đủ khả năng tự đảm bảo trật tự. Nhưng nhiều khu vực của thành phố đã được kiểm soát tương đối.

“Chiến lược vết mực loang” đang hiệu quả. Liệu những vết mực đó có thể loang ra khắp thành phố không?

Không ai có thể chắc chắn về sự tiến bộ, thậm chí ngay cả khi chúng ta đã thành công trong một thời gian dài, vẫn không có gì đảm bảo là mọi việc sẽ không trở lại như cũ.

Chúng tôi đã phải quay lại khu vực gần sông xung quanh COP Falcon nhiều lần để lục soát và tìm nơi giấu vũ khí và bọn phiến quân. Chúng tôi đã càn quét sạch một dãy nhà, nó trở nên bình yên được một thời gian, rồi sau đó chúng tôi đã phải làm lại từ đầu.

Chúng tôi cũng hợp tác nhiều hơn một chút với Lính thủy đánh bộ, giúp ngăn chặn và kiểm soát các xuồng nhỏ, canh chừng những nơi tình nghi là kho giấu vũ khí, và thậm chí thực hiện vài cuộc chiến đấu trực tiếp cho họ. Có vài lần chúng tôi được giao nhiệm vụ kiểm tra và cho nổ các thuyền bỏ không để đảm bảo chúng sẽ không được sử dụng cho việc vận chuyển lén lút.

Có điều thú vị là đơn vị tàu đặc nhiệm (Small Boat Unit - SBU) từng quay lưng lại với chúng tôi trước đây, giờ nghe thấy chúng tôi đã chiến đấu nhiều như thế nào thì lại liên hệ với chúng tôi, đề nghị xem bây giờ họ có thể đến để hợp tác với chúng tôi không. Chúng tôi đã cảm ơn họ, nhưng trả lời là không, cảm ơn; chúng tôi đang hợp tác tốt với bên Lính thủy đánh bộ rồi.

Chúng tôi đã hợp tác rất nhịp nhàng với bên lục quân khi họ tiếp tục bao vây từng khu vực để rà soát các khu vực đó nhằm tìm ra vũ khí và kẻ thù. Chúng tôi tiến vào cùng họ, chiếm một tòa nhà rồi chạy lên sân thượng để cảnh giới. Lần nào cũng có ba người chúng tôi - tôi và một lính bắn tỉa khác cùng với Ryan và khẩu súng trường 60.

Cùng lúc, Lục quân ở dưới tiến đánh vào tòa nhà tiếp theo. Sau khi chiếm được, họ sẽ tiếp tục công việc xuôi xuống phố. Khi họ đến một nơi nhất định mà chúng tôi không thể quan sát để canh gác, đảm bảo sự an toàn cho họ, chúng tôi sẽ xuống và di chuyển tới một địa điểm mới. Quy trình lại bắt đầu từ đầu.

Trong một cuộc hành quân như thế, Ryan đã bị bắn.