← Quay lại trang sách

Chương 11 NHỮNG NGƯỜI NGÃ XUỐNG-*-“CÁI QUÁI GÌ THẾ NÀY?”

Vào một ngày hè nóng nực, chúng tôi đã chiếm được một tòa chung cư nhỏ có tầm ngắm và quan sát rất tốt về phía một trong những con đường chính chạy dọc Đông - Tây qua trung tâm Ramadi. Đó là tòa nhà bốn tầng, cầu thang chạy dọc theo cửa sổ, hở mái và có tầm quan sát cả khu vực rất tốt. Hôm đó trời trong vắt.

Ryan châm chọc tôi khi chúng tôi vào tòa nhà. Cậu ấy thường giễu tôi, theo cái kiểu luôn làm cho bạn cười, khiến tôi thấy thoải mái. Vừa cười tôi vừa phân công cậu theo dõi đường phố. Nhóm bộ binh của chúng tôi đang làm việc dọc vỉa hè, ở mé bên kia nhìn từ mái nhà, và tôi cho rằng nếu bọn phiến quân định tổ chức một cuộc phục kích hoặc tấn công chúng tôi, chúng sẽ đi từ trên phố xuống. Trong khi đó, tôi canh gác cho nhóm ở dưới mặt đất. Cuộc tấn công bắt đầu suôn sẻ, đám bộ binh đã chiếm được căn nhà đầu tiên rồi đến căn tiếp theo. Họ di chuyển nhanh chóng mà không có trở ngại nào.

Bất ngờ, đạn xuyên qua vị trí của chúng tôi. Tôi cúi rạp xuống khi một băng đạn bắn trúng bức tường xi măng gần đó, làm các mảnh vụn bắn tung tóe. Chuyện này vẫn xảy ra thường ngày ở Ramadi, có việc diễn ra không phải chỉ một lần trong một ngày mà nhiều lần.

Tôi chờ trong giây lát để chắc rằng bọn phiến quân không còn bắn nữa, rồi đứng thẳng lại.

“Các cậu ổn cả chứ?” Tôi hét lên, rồi nhìn xuống phố về hướng các binh sĩ ở dưới đó, đảm bảo là họ đều ổn thỏa.

“Ổn cả,” một tay lính bắn tỉa lầm bầm.

Ryan không trả lời. Tôi liếc lại và thấy cậu vẫn đang nằm.

‘Này, đứng dậy đi,” tôi nói với cậu. “Bọn chúng dừng bắn rồi. Tiếp tục đi.”

Cậu ấy không nhúc nhích. Tôi tiến lại.

“Cái quái gì thế này?” Tôi hét lên với cậu ấy. “Dậy đi. Dậy đi.”

Rồi tôi nhìn thấy máu.

Tôi quỳ xuống nhìn cậu ấy. Máu chảy lênh láng. Một bên mặt của cậu vỡ nát. Cậu ấy đã bị trúng đạn.

Chúng tôi nhận ra cậu ấy đang thực hiện theo thói quen thực tiễn là phải luôn luôn giương súng ở tư thế sẵn sàng; cậu ấy đã giương súng và đang ngắm bắn thì dính đạn. Rõ ràng, đầu tiên viên đạn đã bắn trúng vào khẩu súng rồi bật thẳng vào mặt cậu ấy.

Tôi vồ lấy điện đài. “Có người bị thương!” Tôi gào lên. “Có người bị thương!”

Tôi cúi xuống xem xét vết thương của cậu ấy. Tôi không biết làm gì, và bắt đầu từ đâu. Ryan có vẻ bị thương rất nặng đến mức như cậu ấy sắp chết.

Thân thể cậu ấy co giật. Tôi nghĩ đó là giãy chết.

Hai người trong trung đội của tôi, Dauber và Tommy chạy đến. Cả hai đều là lính quân y. Họ lao xuống xen vào giữa chúng tôi và bắt đầu xử lý vết thương của cậu ấy.

Marc Lee đến sau hai người đó. Cậu ta cầm khẩu súng trường 60 và bắt đầu đặt súng ngắm về hướng những phát đạn đã bắn ra, săn tìm bọn phiến quân để chúng tôi có thể đưa Ryan xuống cầu thang.

Tôi nâng Ryan dậy và vác cậu ấy lên vai và bắt đầu chạy. Tôi chạy được đến cầu thang và lao nhanh xuống dưới.

Được khoảng nửa đoạn đường, Ryan rên rất to. Cách tôi vác cậu ấy khiến máu chảy thẳng vào cổ họng và đầu cậu; cậu ấy đang rất khó thở.

Tôi đặt cậu xuống, thậm chí còn lo lắng hơn, từ trong thâm tâm, tôi hiểu là cậu ấy sẽ chết, hy vọng rằng bằng cách nào đó, tôi có thể làm được điều gì đó cứu cậu ta, cho dù điều đó thật vô vọng.

Ryan bắt đầu khạc ra máu. Cậu ấy đã thở được, đó thật là một điều kỳ diệu.

Tôi lại ôm lấy Ryan và nâng cậu ấy dậy.

“Không,” cậu ấy nói. “Không sao đâu, tôi ổn. Tôi ổn rồi. Tôi sẽ đi được.”

Cậu ấy quàng tay vào tôi rồi tự bước xuống nốt đoạn đường còn lại.

Trong khi đó, bên Lục quân đã điều đến một chiếc xe bánh xích, nó là một xe chở lính, đến ngay phía cửa trước. Tommy cùng đi với Ryan, rồi họ rút khỏi chỗ này.

Tôi chạy trở lại tầng trên, cảm giác như thể chính tôi là người bị bắn và ước gì chính tôi chứ không phải cậu ấy bị bắn. Tôi chắc là cậu ấy sẽ chết. Tôi chắc là mình sẽ mất đi một người anh em. Một người anh em lớn, to xác, thơ ngây và đáng yêu.

Biggies.

Không có gì mà tôi từng trải qua ở Iraq tác động đến tôi mạnh như vậy.

TRẢ ĐŨA

Chúng tôi thoái lui và quay trở về căn cứ Shark.

Ngay khi về đến nơi, tôi cất đồ đạc, ngồi dựa lưng vào tường, rồi từ từ nằm xuống sàn nhà.

Nước mắt tôi bắt đầu trào ra.

Tôi nghĩ Ryan đã chết. Thực ra cậu ấy vẫn còn sống, dù rất mong manh. Các bác sĩ làm việc như điên để cứu cậu ấy. Rốt cuộc Ryan được chở bằng máy bay cấp cứu rời Iraq. Vết thương của cậu ấy rất nặng, cậu sẽ không bao giờ nhìn thấy nữa, vết thương không chỉ ở mắt mà còn ở chỗ khác nửa. Thật là một phép thần khi cậu ấy sống sót.

Nhưng lúc bấy giờ ở căn cứ, tôi tin cậu ấy đã chết. Tôi biết điều đó từ trong lòng tôi, từ trái tim tôi, từ mọi bộ phận trong cơ thể tôi. Tôi đã đặt cậu ấy vào vị trí nơi cậu bị bắn. Cậu ấy bị bắn là lỗi của tôi.

Giết chết một trăm kẻ thù ư? Hai trăm tên? Hoặc nhiều hơn nữa? Điều đó có nghĩa gì khi người anh em của tôi đã chết?

Tại sao tôi không để bản thân mình vào vị trí đó? Tại sao tôi đã không đứng đó? Tôi có thể giết được tên khốn đó, tôi có thể cứu được người anh em của mình rồi.

Tôi ở trong một cái hố đen sâu thẳm.

Tôi ở đó bao lâu, đầu óc luẩn quẩn, nước mắt trào ra, tôi không biết nữa.

“Này,” cuối cùng, một giọng nói cất lên phía trên đầu tôi. Tôi nhìn lên. Đó là Tony, sếp của tôi.

“Cậu có muốn đi trả thù không?” ông hỏi.

“Tôi muốn bỏ mẹ đi ấy chứ!” Tôi nhảy cẫng lên.

Vài đồng đội không chắc được là liệu chúng tôi có nên đi hay không. Chúng tôi thảo luận về việc đó và vạch kế hoạch thực hiện nhiệm vụ.

Mặc dù tôi không có nhiều thời gian cho việc này. Tôi chỉ muốn trả nợ máu cho người của tôi.

MARC

Tin tình báo cho biết bọn xấu đang đóng trong một căn nhà cách nơi Ryan bị bắn không xa lắm. Hai chiếc xe Bradley đã chở chúng tôi đến cánh đồng gần căn nhà. Tôi ngồi trên chiếc xe thứ hai, một số người khác đã vào căn nhà trước khi chúng tôi đến.

Ngay khi cửa há mồm để thả lính của chiếc Bradley mở ra, đạn bắt đầu bay như mưa. Tôi chạy tới nhập vào những người khác, thì thấy mọi người đang dồn lại để leo cầu thang lên tầng hai. Chúng tôi cụm lại với nhau, đương đầu với kẻ thù từ trên xuống và chờ đợi để tiến lên.

Marc Lee dẫn đầu, đứng trên chúng tôi trên cầu thang. Anh xoay người, nhìn ra cửa sổ phía trên cầu thang. Đúng lúc ấy, anh nhìn thấy cái gì đó và há miệng kêu lên để cảnh báo.

Anh không bao giờ thốt ra được lời nào nữa. Trong tích tắc đó, một viên đạn đã bay thẳng vào miệng đang mở ra của anh rồi vọt ra phía sau đầu. Anh ngã sụp xuống trên cầu thang.

Chúng tôi đã bị gài. Có một tên man rợ nằm trên mái nhà bên cạnh nhắm bắn qua cửa sổ từ trên nóc nhà đó.

Những gì được dạy đã phát huy tác dụng.

Tôi trườn lên các bậc thang, bước qua người Marc. Tôi nã một cơn mưa đạn qua cửa sổ, san bằng mái nhà xung quanh. Những người trong nhóm cũng làm như vậy.

Một người trong nhóm đã hạ được tên phiến quân. Chúng tôi không dừng lại để xem hắn là ai. Chúng tôi tiếp tục chạy lên mái nhà tìm kiếm thêm những kẻ đã phục kích chúng tôi.

Trong khi đó, Dauber dừng lại để kiểm tra tình hình của Marc. Cậu ta bị thương rất nặng; Dauber biết là không còn hy vọng.

Chỉ huy xe tăng đến đón chúng tôi. Họ cũng tham gia chiến đấu suốt dọc đường, lái xe tăng vào dưới làn đạn ác liệt. Chỉ huy đưa vào hai xe tăng và bốn chiếc bọc thép Bradley, các xe sử dụng súng trường Winchester, bắn hết số đạn dược mà họ có. Một trận hỏa lực dữ dội cốt yểm trợ cho cuộc rút quân của chúng tôi.

Trên đường trở về, tôi nhìn qua lỗ thông hơi trên cửa há mồm đã được đóng lên phía sau chiếc Bradley của tôi. Tất cả những gì tôi thấy là khói đen và những tòa nhà đổ nát. Bọn chúng đã giỡn mặt chúng tôi, và toàn bộ khu vực quanh bọn chúng đã phải trả giá.

Vì lý do nào đó, hầu hết chúng tôi đều tưởng là Marc sẽ sống; và đều nghĩ Ryan sẽ chết. Đến tận khi trở về căn cứ chúng tôi nghe tin rằng số phận của họ lại đảo ngược.

Mất hai người chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, các sĩ quan và sếp Tony quyết định đã đến lúc chúng tôi phải nghỉ ngơi. Chúng tôi trở lại căn cứ Shark và xả trại. (Xả trại nghĩa là ta không tham gia chiến đấu cũng như không sẵn sàng tham chiến. Theo nghĩa nào đó, nó như một khoảng thời gian tạm nghỉ chính thức để đánh giá hoặc đánh giá lại những gì mình đã làm.)

Đó là tháng Tám: nóng bỏng, đẫm máu và đen tối.

TAYA:

Chris suy sụp khi anh gọi cho tôi để báo tin. Tôi chưa hề nghe được bất cứ điều gì cho đến khi anh gọi điện, và tin đó làm tôi sửng sốt.

Tôi cảm thấy biết ơn Chúa vì đó không phải là anh, nhưng đó là nỗi buồn không tả xiết dù đó là ai trong số họ.

Tôi cố giữ im lặng hết sức khi anh nói. Tôi chỉ muốn lắng nghe. Đó là những lần hiếm hoi trong đời Chris mà tôi từng thấy anh đau đớn đến như vậy.

Tôi chẳng thể làm được gì là giúp anh thông báo cho những người thân của họ.

Chúng tôi ngồi nói chuyện qua điện thoại rất lâu.

Vài ngày sau đó, tôi đến dự lễ tang tại nghĩa trang nhìn ra Vịnh San Diego.

Thật đau buồn. Có rất nhiều chàng trai trẻ, rất nhiều cặp vợ chồng trẻ... Thật xúc động khi đến dự tang lễ của các SEAL, nhưng lễ tang này còn hơn cả thế.

Ta cảm thấy rất buồn, ta không thể tưởng tượng nổi nỗi đau của họ. Ta cầu nguyện cho họ và cảm ơn Chúa đã tha chết cho chồng mình. Ta cảm ơn Chúa vì đã không phải là một trong số những người đang đứng ở hàng trước của buổi lễ tang này.

Những người đã nghe câu chuyện này nói với tôi là miêu tả của tôi quá ít ỏi và giọng tôi thật xa xăm. Họ nói tôi kiệm lời hơn khi miêu tả những gì đã xảy ra, cung cấp ít chi tiết hơn so với những gì tôi thường làm.

Tôi không ý thức được điều đó. Ký ức về việc mất đi hai người đồng đội thật đau đớn và sâu sắc. Đối với tôi, nó vẫn hiện rõ như thể đang xảy ra quanh tôi ngay đúng lúc này. Đối với tôi, nó hằn sâu và mới tinh như thể một vết thương mà những viên đạn đó vừa mới găm vào da thịt tôi ở ngay thời khắc này.

XẢ TRẠI

Chúng tôi tổ chức một lễ tưởng niệm Marc Lee ở trại Ramadi. Các SEAL từ khắp mọi nơi ở Iraq đều đến dự. Và tôi tin rằng toàn bộ Lục quân từng cùng tham gia chiến đấu với chúng tôi cũng có mặt. Họ rất quan tâm đến chúng tôi; thật không thể tưởng tượng được. Tôi rất xúc động.

Họ để chúng tôi đứng ở hàng đầu. Chúng tôi là gia đình của anh.

Quân trang quân dụng của Marc đặt ngay ở đó, mũ bảo hiểm và khẩu súng MK-48. Chỉ huy đơn vị đặc nhiệm của chúng tôi phát biểu ngắn gọn nhưng mạnh mẽ; ông ấy nước mắt lưng tròng, và tôi nghĩ không ai trong buổi lễ đó cũng như ở doanh trại có thể cầm được nước mắt.

Khi buổi lễ kết thúc, mỗi đơn vị đều để lại một kỷ vật để hàm ơn, một cầu vai hay huy hiệu của đơn vị chẳng hạn. Đại úy của đơn vị Lục quân đã để lại một mảnh vỏ đạn đồng từ một trong những viên đạn mà anh đã bắn để giải cứu chúng tôi.

Một người nào đó trong trung đội chúng tôi đã làm một video tưởng niệm với một số hình ảnh về Marc, rồi chiếu vào tối hôm đó trên một tấm vải trắng mà chúng tôi đã treo lên bức tường gạch. Chúng tôi đã uống cùng nhau, trong tâm trạng buồn đau vô hạn.

Bốn đồng đội đã hộ tống thi hài Marc về nước. Trong khi đó, vì chúng tôi đang được nghỉ ngơi và chẳng có việc gì làm, tôi đã tìm cách đến thăm Ryan ở Đức, nơi anh đang được điều trị. Tony và những người khác trong ban chỉ huy đã thu xếp cho tôi một chuyến bay, nhưng khi mọi việc sắp đặt xong xuôi thì Ryan đã được chuyển về Mỹ để điều trị.

Brad, người đã được chuyển khỏi chiến trường trước đó vì vết thương do mảnh đạn găm vào đầu gối, đã gặp Ryan ở Đức và cùng Ryan trở về Mỹ. Dù sao đó cũng là điều may mắn, Ryan có một đồng đội ở bên để giúp cậu xử lý mọi việc mà cậu phải đối mặt.

Chúng tôi đã chôn chân rất lâu trong phòng.

Tình hình ở Ramadi vẫn nóng bỏng và nặng nề, với nhịp độ chiến đấu khốc liệt, thậm chí còn hơn cả ở Fallujah. Chúng tôi đã chiến đấu trong mấy ngày liền, thậm chí cả tuần, với một đợt nghỉ ngắn ngủi xen kẽ giữa những trận đánh. Một số người trong chúng tôi cảm thấy kiệt sức ngay cả trước khi có những đồng đội bị dính đạn.

Chúng tôi vẫn ở trong phòng, trị liệu để giữ nước và máu ổn định trong cơ thể, chủ yếu là giữ sức khỏe.

Tôi dành rất nhiều thời gian để cầu nguyện.

Tôi không phải là kiểu người thích thể hiện quá to tát về tôn giáo. Tôi tin tưởng, nhưng không nhất thiết phải quỳ xuống và hát thánh ca ầm cả nhà thờ. Nhưng tôi tìm thấy chút khuây khỏa trong đức tin, và tôi đã thấy nó trong những ngày sau khi bạn bè của tôi bị bắn chết.

Kể từ khi tôi hoàn thành Chương trình BUD/S, tôi thường mang theo Kinh Thánh. Tôi chưa đọc nhiều lắm, nhưng cuốn Kinh Thánh vẫn luôn ở bên tôi. Bây giờ tôi mở nó ra và đọc một số đoạn. Tôi bỏ qua một vài đoạn, đọc chút ít, và lại bỏ qua nhiều đoạn nữa.

Khi địa ngục đang mở ra xung quanh, thật tốt khi biết rằng mình là một phần của điều gì đó lớn lao hơn.

Tâm trạng tôi tốt hơn khi nghe tin Ryan đã qua khỏi. Nhưng phản ứng rõ ràng hơn cả vẫn là: Tại sao không phải là tôi?

Tại sao điều này lại xảy ra với một người lính mới?

Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc đấu súng; tôi đã có những thành tích của mình. Tôi có cuộc chiến của riêng tôi. Tôi mới là kẻ bị loại ra ngoài cuộc chiến. Tôi phải là người bị bắn mù mắt mới phải.

Ryan sẽ không bao giờ thấy ánh mắt của người thân nhìn vào khuôn mặt khi cậu trở về. Cậu sẽ không bao giờ thấy mọi điều ngọt ngào hơn như thế nào khi trở lại, để thấy nước Mỹ tốt đẹp hơn bao nhiêu khi ta đi chiến đấu suốt một thời gian dài.

Ta có thể quên cuộc sống tươi đẹp làm sao, nếu ta không có cơ hội để thấy những điều như vậy. Nhưng cậu ấy sẽ không bao giờ còn nhìn thấy được nữa.

Và dù có ai nói điều gì với tôi, tôi vẫn cảm thấy mình có trách nhiệm về điều ấy.

NHỮNG NGƯỜI THAY THẾ

Chúng tôi đã tham gia cuộc chiến tranh này được bốn năm, trải qua vô số tình huống dựng tóc gáy, và chẳng có SEAL nào chết. Chiến sự ở Ramadi và trên toàn Iraq giống như cơn lốc cuốn đang bắt đầu ập tới, và bây giờ chúng tôi bị tấn công rất mạnh.

Chúng tôi thoáng nghĩ đơn vị mình sẽ bị ngừng hoạt động, dù đợt dàn quân này của chúng tôi vẫn còn vài tháng nữa mới chấm dứt. Tất cả chúng tôi đều hiểu nội tình đơn vị, hai vị chỉ huy đầu tiên của chúng tôi đều thuộc loại nhát quá mức, họ lên chức vì cái tính thận trọng ấy. Vậy nên, chúng tôi e rằng chiến tranh đã kết thúc với mình.

Hơn nữa, chúng tôi hụt mất bảy người, giảm gần một nửa quân số. Marc đã chết. Brad và Ryan bị loại khỏi cuộc chiến vì bị thương. Bốn người đi theo hộ tống thi thể của Marc về nước.

Một tuần sau cái chết của đồng đội, sĩ quan chỉ huy đã đến trò chuyện với chúng tôi. Chúng tôi tập trung tại căn phòng chính ở căn cứ Shark và nghe ông nói chuyện. Bài phát biểu của ông không dài.

“Tùy các cậu,” ông nói. “Nếu bây giờ các cậu muốn nghỉ ngơi, tôi hiểu. Nhưng nếu các cậu muốn chiến đấu, tôi cũng ủng hộ.”

“Chuẩn con mẹ nó luôn,” tất cả chúng tôi đều nói. “Chúng tôi muốn chiến đấu.”

Đương nhiên là tôi muốn thế.

Một nửa trung đội từ một khu vực yên tĩnh hơn đã nhập bọn với chúng tôi để giúp đủ quân số. Chúng tôi cũng nhận thêm một số lính trẻ vừa hoàn thành khóa huấn luyện nhưng chưa được bố trí vào trung đội nào. Những chàng tân binh thực thụ. Ý tưởng là cho họ tiếp xúc ít nhiều với cuộc chiến, và nếm chút mùi vị của những gì mà họ sẽ nếm trải trước khi trải qua cuộc chiến đấu thực sự. Chúng tôi khá thận trọng với họ, chúng tôi không cho phép họ tham gia vào các đợt hành quân.

Là những SEAL, họ đều muốn nhảy ngay vào cuộc chiến, nhưng chúng tôi đã kìm họ lại, và ban đầu sẽ đối xử với họ như những tay sai vặt: Này, chuẩn bị những chiếc Hummer để chúng ta có thể ra trận nào. Đó là một việc đầy che chở; xét cho cùng thì chúng tôi đã trải qua rồi, chúng tôi không muốn họ bị tổn thương ngoài chiến trường.

Tất nhiên, chúng tôi cũng phải bắt nạt họ. Ví dụ một cậu lính khốn khổ đã bị chúng tôi cạo trọc đầu và lông mày cậu ta, rồi xịt keo tóc lên mặt cậu ta.

Trong khi chúng tôi đang làm việc đó, một cậu lính mới khác bước vào căn phòng bên ngoài.

“Cậu không muốn vào trong đó đâu,” một trong những sĩ quan của chúng tôi cảnh báo.

Cậu lính mới hé nhìn vào và thấy cậu bạn đang bị nện túi bụi.

“Tôi sẽ vào.”

“Cậu không muốn vào trong đấy đâu,” viên sĩ quan nhắc lại. “Kết cục sẽ không tốt đẹp gì đâu.”

“Tôi phải vào. Đó là bạn tôi.”

“Tùy cậu thôi, viên sĩ quan nói, hoặc những lời có tác động như vậy.

Cái cậu lính mới thứ hai này chạy vào phòng. Chúng tôi tôn trọng việc cậu ta đến để giải cứu bạn mình và bày tỏ tình cảm của cậu ta. Thế rồi bọn tôi cũng cạo trọc râu tóc cậu ta, trói bọn họ lại với nhau, và dồn hai người đứng vào một góc tường.

Chỉ vài phút thôi mà.

Chúng tôi cũng bắt nạt một sĩ quan mới. Cậu ta cũng phải nếm mùi những gì mọi người đã trải qua, nhưng cậu chấp nhận việc này không thoải mái lắm.

Cậu ta không thích ý tưởng bị hành hạ bởi một số binh nhì bẩn thỉu.

Cấp bậc cũng là một khái niệm buồn cười trong các đội. Tôi không tỏ ý thiếu tôn trọng, chính xác là như vậy, nhưng rõ ràng cấp bậc không phải là sự đánh giá trọn vẹn về con người.

Trong Chương trình BUD/S, các sĩ quan chuyên nghiệp và đám tòng quân kiểu đăng lính đều được đối xử như nhau: dần cho ra bã hết cả. Khi ta vượt qua chương trình và gia nhập vào các đội, ta lại là một lính mới. Một lần nữa, tất cả lính mới đều được đối xử như nhau: lại bị ăn đòn nữa.

Hầu hết các sĩ quan chấp nhận chuyện này khá tốt, mặc dù đương nhiên là cũng có những ngoại lệ. Thực tế là các đội đều được những người nhập ngũ kiểu đăng lính nhưng có thâm niên quản lý. Một người là sếp của đội như vậy, thường có từ mười hai đến mười sáu năm kinh nghiệm. Một viên sĩ quan chuyên nghiệp tham gia trung đội lại ít kinh nghiệm hơn nhiều, không chỉ trong lực lượng đặc nhiệm SEAL mà cả trong Hải quân cũng vậy. Hầu như các sĩ quan không biết đến việc bị đối xử tệ hại này. Ngay cả một sĩ quan thường trực (Officer In Charge - OIC) cũng chỉ có bốn hoặc năm năm kinh nghiệm.

Đó là cách mà hệ thống này đang vận hành. Nếu may mắn thì một viên sĩ quan có thể đảm nhiệm tối đa ba trung đội; sau đó sẽ được thăng cấp làm chỉ huy tham mưu (hoặc một chức tương đương) và sẽ không còn trực tiếp chiến đấu trên chiến trường nữa. Khi đã đạt đến cấp bậc đó, phần lớn công việc sĩ quan đó phải làm là công việc hành chính và những công việc như hòa giải xung khắc (đảm bảo rằng một đơn vị này không bị đơn vị khác bắn nhầm). Đó là những nhiệm vụ quan trọng, nhưng nó không hoàn toàn giống như việc chiến đấu trực tiếp. Khi ấy là việc phá cánh cửa hay lập vị trí nấp cho lính bắn tỉa thì kinh nghiệm của sĩ quan này nói chung không được sâu sắc lắm.

Tất nhiên cũng có những ngoại lệ. Tôi đã làm việc với một số sĩ quan giỏi giang có kinh nghiệm quý báu; nhưng như một quy luật chung, kiến thức chiến đấu thực địa của một sĩ quan không thể so với của người đã có nhiều năm kinh nghiệm thực chiến. Tôi thường trêu chọc viên trung úy rằng khi chúng tôi thực hiện một cuộc chiến đấu trực tiếp, cậu ta sẽ ở sau đống rơm, sẵn sàng lao vào chiến đấu, không phải với một khẩu súng trường mà bằng cái laptop quân sự của cậu ta.

Việc bắt nạt giúp nhắc mọi người biết kinh nghiệm nằm ở đâu, và ta nên tìm đến ai thì tốt hơn khi gặp rắc rối. Nó cũng sẽ chỉ cho những người xung quanh hiểu chút ít về điều có thể trông chờ từ các tay lính mới. Hãy so sánh và đối chiếu: bạn muốn ai yểm trợ đằng sau, một gã sẽ xông vào để cứu bạn hay một viên sĩ quan chỉ biết khóc nhè vì bị mấy lính nghĩa vụ đeo hàm binh nhì ngược đãi?

Làm cho tất cả đám lính mới phát khiếp chỉ là để nhắc nhở họ rằng họ chưa biết cái quái gì đâu. Trong trường hợp của một sĩ quan thì liều thuốc hạ nhục đó có thể có ích cả chặng dài.

Tôi có những sĩ quan giỏi. Nhưng tất cả những người xuất sắc đều khiêm tốn.

LẠI BỊ NHẦM LẪN

Chúng tôi trở lại với công việc một cách chậm chạp bắt đầu bằng việc canh gác cho bên Lục quân. Nhiệm vụ của chúng tôi kéo dài một hoặc hai đêm liền trong khu đồng quê Injun. Một chiếc xe tăng bị trúng mìn IED, chúng tôi đến đó để bảo vệ chiếc xe tăng cho đến khi nó được sửa xong. Công việc ở đây nhẹ nhàng và dễ dàng hơn so với công việc trước đây. Chúng tôi không tiến ra quá xa các bốt tiền phương (COP), điều đó có nghĩa là chúng tôi không thu hút nhiều hỏa lực.

Khi đã quay trở lại cuộc chơi, chúng tôi bắt đầu mở rộng. Chúng tôi tiến sâu hơn vào Ramadi. Chúng tôi chưa thực sự tiến đến căn nhà nơi Marc đã bị bắn, nhưng chúng tôi đã trở lại khu vực xung quanh.

Quan điểm của chúng tôi là chúng tôi sẽ đến đó và lôi ra bằng được những tên đã gây ra việc này. Chúng tôi sẽ bắt chúng phải trả giá cho những gì chúng đã gây ra cho bọn tôi.

Một hôm chúng tôi vào một căn nhà, sau khi đã hạ gục vài tên phiến quân đang tìm cách đặt mìn IED, chúng tôi tiến vào dưới làn đạn bắn trả. Kẻ nào đó đang bắn lại chúng tôi bằng thứ vũ khí có sức công phá mạnh hơn súng AK, đó có thể là một khẩu Dragunov (một loại súng trường bắn tỉa do Nga sản xuất), bởi vì những viên đạn bắn xuyên thủng các bức tường của tòa nhà.

Tôi trèo lên mái nhà, cố gắng xác định xem tiếng súng bắn ra từ đâu. Bất chợt tôi nghe thấy tiếng ồn của các máy bay lên thẳng Apache đang đến gần. Tôi theo dõi những chiếc máy bay lên thẳng bay vòng một cách bình thản trong giây lát, rồi chúi đầu nhào xuống để bắt đầu một cuộc tấn công phối hợp.

Đúng vào hướng của chúng tôi.

“Mang các tấm VS ra!” ai đó đã kêu lên.

Có thể đó là tôi. Tất cả những gì tôi biết là chúng tôi vội vã mang ra tất cả những tấm VS và những tấm vải nhận diện mà chúng tôi có để chỉ cho các phi công thấy chúng tôi là đồng đội. (Tấm VS là những tấm vải màu cam sáng, được treo hoặc phủ lên báo hiệu các lực lượng thân thiết.) Rất may là họ đã nhận ra và hủy cuộc tấn công trong giây cuối cùng.

Cậu lính thông tin đã trao đổi với các trực thăng của Lục quân ngay trước cuộc tấn công và báo cho họ biết vị trí của chúng tôi. Nhưng hình như bản đồ của họ lại đánh dấu khác với bản đồ của chúng tôi, và khi nhìn thấy người trên mái nhà cùng với súng ống, họ đã rút ra các kết luận sai lầm.

Chúng tôi từng hợp tác với các máy bay lên thẳng Apache một thời gian ở Ramadi. Đội máy bay này rất giá trị, không chỉ vì những khẩu súng và rốc két mà còn bởi vì khả năng trinh sát khu vực của họ. Không phải lúc nào cũng thấy rõ tiếng súng bắn ra từ đâu trong thành phố; nên khi có những cặp mắt ở trên cao và ta có thể nói với những người có những cặp mắt ấy để giúp ta xử lý công việc.

(Đội máy bay lên thẳng Apache có Quy tắc Tham chiến khác với quy tắc của chúng tôi. Điều này đặc biệt khác khi phóng tên lửa Hellfire, vũ khí chỉ được sử dụng để chống các loại vũ khí lớn cần cả khẩu đội để vận hành. Đây là một phần của chiến lược hạn chế số lượng thiệt hại mà dân thường phải chịu trong thành phố.)

Các máy bay AC-130 thỉnh thoảng cũng giúp đỡ việc quan sát từ trên không. Những chiếc máy bay lớn với súng máy này có hỏa lực mạnh khủng khiếp, nhưng chúng tôi chưa bao giờ yêu cầu họ sử dụng đại bác của họ trong đợt dàn quân này. (Hơn nữa, Quy tắc Tham chiến của họ cũng rất ngặt nghèo.) Thay vào đó, chúng tôi tận dụng các cảm biến nhìn đêm của họ, loại thiết bị cung cấp được bức tranh rõ nét về chiến trường ngay cả trong đêm tối.

Một đêm, chúng tôi đánh vào một căn nhà trong một cuộc chiến đấu trực tiếp trong khi một chiếc máy bay chiến đấu AC lượn vòng quanh phía trên để bảo vệ. Lúc chúng tôi tiến quân vào, từ trên máy bay họ gọi xuống báo rằng chúng tôi có vài tên đào tẩu đang chạy ra lối cửa sau.

Tôi tách ra cùng vài đồng đội và tiến về hướng mà chiếc máy bay đã chỉ dẫn. Hóa ra bọn phiến quân đang nấp trong một căn nhà gần đó. Tôi tiến vào và bắt gặp một tên còn trẻ, khoảng trên dưới hai mươi.

“Ngồi xuống,” tôi quát hắn, ra hiệu bằng khẩu súng trong tay.

Hắn nhìn tôi ngây độn. Tôi làm lại cử chỉ đó, lúc này cần phải dứt khoát.

“Nằm xuống! Nằm xuống!”

Hắn nhìn tôi mà không thốt một tiếng nào. Tôi không thể biết liệu hắn có định tấn công tôi hay không, và tôi cũng không chắc được tại sao hắn lại không tuân lệnh. An toàn còn hơn hối tiếc, tôi đấm hắn và vật hắn ngã gục xuống nền đất.

Mẹ hắn nhảy bổ ra từ phía sau, kêu thét lên câu gì đó. Bấy giờ có đôi ba người vào trong với tôi, có cả người phiên dịch. Cuối cùng người phiên dịch cũng làm cho tình hình dịu xuống và bắt đầu đặt ra các câu hỏi. Rốt cuộc, người mẹ giải thích rằng con bà có vấn đề về tâm thần, và không hiểu là tôi đang làm gì. Chúng tôi cho cậu ta đứng dậy.

Trong khi đó, có một người đàn ông lặng lẽ đứng bên cạnh mà chúng tôi cứ tưởng là cha của cậu ta. Nhưng khi chúng tôi xoa dịu nỗi lo âu của bà mẹ về con trai mình, bà đã nói rõ là bà không hề biết tên khốn kia là ai cả. Hóa ra hắn vừa mới chạy vào, chỉ để giả vờ rằng hắn sống ở đó. Vì vậy, chúng tôi đã bắt được một trong những tên đào tẩu, nhờ sự giúp đỡ của lực lượng không quân.

Tôi nghĩ là mình không nên kể chuyện này đó mà không nhắc đến lỗi của bản thân.

Căn nhà nơi mà bọn chúng xuất phát thực ra là căn nhà thứ ba mà chúng tôi tấn công tối hôm đó. Tôi dẫn quân vào ngôi nhà đầu tiên. Tất cả chúng tôi đã xếp hàng phía bên ngoài, chuẩn bị tiến vào thì giọng của viên sĩ quan phụ trách cất lên.

“Có gì đó không ổn rồi,” ông nói. “Tôi cảm giác không phải căn nhà này.”

Tôi ngoái đầu lại và nhìn xung quanh.

“Bỏ mẹ,” tôi thừa nhận. “Tôi đưa mọi người vào sai nhà rồi.

Chúng tôi trở ra và đi đến đúng ngồi nhà cần đến.

Không biết tôi đã được nghe phần kết của câu chuyện đó chưa?

Câu hỏi tu từ thôi.

MỘT ĐÒN CHẾT ĐÔI

Một hôm chúng tôi đang hành quân ở gần Sunset và một đường phố khác tạo thành nút giao nhau hình chữ T. Dauber và tôi ở trên mái nhà theo dõi những người địa phương ở đó. Dauber vừa đặt súng xuống để nghỉ ngơi. Trong khi tôi đang nâng ống ngắm lên thì tôi phát hiện có hai tên ngồi trên xe gắn máy đang chạy trên đường hướng về phía tôi.

Tên ngồi phía sau có một chiếc ba lô. Khi tôi đang theo dõi, hắn đặt chiếc ba lô đó vào một cái hốc sâu.

Không phải hắn đang gửi bưu phẩm mà hắn đang cài mìn IED.

“Cậu phải nhìn cái này,” tôi nói với Dauber lúc này mới với lấy ống nhòm của mình.

Tôi để bọn chúng chạy đến khi chỉ cách khoảng 120 mét rồi nổ súng khẩu.300 Win Mag của tôi. Dauber theo dõi qua ống nhòm nói nó như một cảnh trong phim Dumb và Dumber[*]. Viên đạn bắn xuyên táo từ tên thứ nhất sang tên thứ hai. Chiếc xe gắn máy lảo đảo rồi đâm thẳng vào một bức tường.

Chu thich: Bộ phim hài do diễn viên Jim Carey thủ vai chính, tên tiếng Việt là Siêu ngốc gặp nhau.

Diệt hai tên chỉ bằng một phát đạn. Người đóng thuế sẽ vui lắm vì cắt giảm được hẳn một nửa.

Phát đạn đó cuối cùng lại gây tranh cãi. Vì có mìn IED bên Lục quân cử vài người đến hiện trường. Nhưng mất khoảng sáu tiếng họ mới đến được chỗ đó. Giao thông tắc nghẽn, thật khó cho tôi và bất kỳ ai khác trong việc theo dõi cái hốc mìn trong suốt thời gian đấy. Tình hình trở nên phức tạp hơn khi lực lượng Lính thủy đánh bộ đã hạ gục một chiếc xe tải vì nghi là mìn IED di động trên cùng đường phố đó. Giao thông ùn ứ khắp mọi nơi và dĩ nhiên là đám IED biến mất.

Thông thường, chuyện này sẽ không phải là vấn đề. Nhưng trước đó mấy hôm chúng tôi để ý thấy có một kiểu hình mẫu: những chiếc xe gắn máy chạy qua một bốt tiền phương vài phút trước và sau một cuộc tấn công, rõ ràng là để trinh sát và thu thập tin tức tình báo cho cuộc tấn công. Chúng tôi đã đề nghị rõ là bắn ngay bất kể ai ngồi trên xe gắn máy. Đề nghị đó đã bị bác bỏ.

Các luật sư hay ai đó trong ban chỉ huy chắc hẳn đã nghĩ rằng tôi đang cố ý làm họ tức giận khi họ nghe về cú bắn một phát chết đôi của tôi. Viên chánh công tố quân sự (Judge Advocate General - JAG), một kiểu công tố viên trong quân đội đã đến và tiến hành điều tra.

May thay, có rất nhiều nhân chứng đã chứng kiến những gì xảy ra. Nhưng tôi vẫn phải trả lời tất cả các câu hỏi của vị JAG đó.

Trong khi đó, bọn phiến quân vẫn tiếp tục sử dụng xe gắn máy và thu thập tin tức tình báo. Chúng tôi theo dõi bọn chúng rất sát sao và phá hủy mọi xe gắn máy mà chúng tôi bắt gặp ở các ngôi nhà và ngoài sân, nhưng đó hầu như là tất cả những gì chúng tôi có thể làm.

Có thể bên phía pháp lý mong đợi chúng tôi vẫy tay và mỉm cười như đứng trước máy ảnh.

Thật khó để đi và bắn người một cách ngang nhiên ở Iraq. Một mặt là vì luôn có đầy người chứng kiến xung quanh. Mặt khác, mỗi lần tôi giết được một tên nào đó ở Ramadi, tôi phải viết một báo cáo về vụ bắn giết đó.

Không hề đùa.

Đây là một báo cáo tách biệt khỏi các báo cáo sau trận chiến, chỉ liên quan đến những phát súng tôi đã bắn ra và những phát giết được kẻ thù mà tôi đã ghi nhận. Thông tin phải rất cụ thể.

Tôi có một cuốn sổ tay nhỏ bên người và tôi ghi ngày, giờ và các chi tiết về mục tiêu, việc người đó đang làm, băng đạn mà tôi sử dụng, bao nhiêu phát súng tôi bắn ra, mục tiêu cách xa bao nhiêu, và ai chứng kiến việc bắn đó. Tất cả đều phải đưa vào báo cáo, cùng với bất kỳ tình huống đặc biệt khác.

Ban chỉ huy khẳng định báo cáo là để bảo vệ tôi trong trường hợp có bất cứ cuộc điều tra nào về một vụ bắn giết không hợp lý, nhưng tôi nghĩ việc tôi đang làm thực ra là để bảo vệ cho cả đám người ở cao hơn nữa trong chuỗi mệnh lệnh.

Chúng tôi tiếp tục việc kiểm đếm số lượng phiến quân mà chúng tôi đã bắn chết, ngay cả trong những trận đấu súng tệ hại nhất. Một trong những sĩ quan của tôi luôn được giao nhiệm vụ ghi chép cụ thể về các vụ nổ súng; anh ta sẽ báo cáo vụ việc qua điện đài. Nhiều lúc tôi vừa giao chiến với bọn phiến quân vừa báo cáo chi tiết cho viên trung úy hoặc một sĩ quan khác. Thật là phiền nhiễu khi có sĩ quan đến hỏi chi tiết về phát súng của tôi, tôi đã nói với anh ta tôi vừa bắn một đứa bé đang vẫy tay chào tôi. Đó là một câu nói đùa bệnh hoạn của tôi. Đó là cách tôi nói khéo, “Cút mẹ mày đi.”

Cái thói quan liêu trong chiến tranh ấy.

Tôi không chắc những báo cáo của người bắn được trao cho những ai. Đối với tôi, quy trình này bắt đầu từ đợt dàn quân thứ hai, khi đó tôi đang hoạt động trên đường phố Haifa. Trong trường hợp ấy, có một người khác điền thông tin thay cho tôi.

Tôi khá chắc rằng tất cả chỉ là để che đậy khuyết điểm mà thôi, trong trường hợp này là để che cho các vị sĩ quan cấp cao.

Chúng tôi đã tàn sát kẻ thù. Ở Ramadi, với tổng số lượng bắn giết cực cao, báo cáo trở nên bắt buộc và tỉ mỉ. Tôi đồ rằng viên sĩ quan chỉ huy hoặc ai đó trong ban chỉ huy nhìn thấy con số đó và nói rằng các luật sư có thể hỏi việc gì đang diễn ra, vì vậy chúng tôi hãy tự bảo vệ mình.

Cách tuyệt vời để tiến hành một cuộc chiến tranh - hãy chuẩn bị cách tự bảo vệ mình chỉ vì mình giành chiến thắng.

Đúng là cái nhọt ở mông. Tôi vẫn đùa rằng chẳng kẻ nào đáng bị bắn cả. (Mặt khác, nhờ cách làm này tôi biết chính xác mình đã “chính thức” hạ được bao nhiêu tên địch.)

LƯƠNG TÂM TRONG SẠCH

Thỉnh thoảng, dường như Chúa đã giữ chân bọn chúng lại cho đến khi tôi nắm được súng của mình.

“Này, dậy đi.”

Tôi mở mắt và nhìn lên từ vị trí của tôi trên sàn.

“Đổi gác thôi,” Jay, viên hạ sĩ quan của tôi nói. Cậu ta đã trực khoảng bốn tiếng trong khi tôi chớp mắt một lát.

“Được thôi.”

Tôi vươn người khỏi nền và tiến đến khẩu súng.

“Thế nào? Có việc gì đang xảy ra?” Tôi hỏi. Khi một người nào đó đến trực thay, người được đổi phiên sẽ tóm tắt nhanh gọn, mô tả những người ở quanh đó, v.v...

“Không có gì,” Jay nói. “Tôi không thấy ai cả.”

“Không có gì à?”

“Không.”

Chúng tôi đổi vị trí cho nhau. Jay kéo chiếc mũ lưỡi trai sụp xuống để ngủ chốc lát.

Tôi đảo mắt nhìn quanh, quan sát toàn khu vực. Không đến mười giây sau, một tên phiến quân bước khệnh khạng cùng khẩu AK vào đúng tầm ngắm của tôi. Tôi theo dõi hắn di chuyển khéo léo về phía một vị trí đóng quân của lính Mỹ trong vài giây, xác định rằng hắn ta nằm trong quy định của Quy chế Tham chiến.

Rồi tôi bắn gục hắn.

“Tôi ghét anh quá đi mất,” Jay lẩm bẩm từ dưới sàn gần đó. Cậu ta chẳng thèm cởi mũ ra nữa chứ đừng nói đến việc đứng dậy.

Tôi không bao giờ hoài nghi gì về những tên mà tôi đã bắn gục. Đồng đội tôi vẫn chọc tôi rằng: Vâng, tôi biết Chris mà. Hắn ta có một khẩu súng lắp ngay cuối ống ngắm ấy. Bất kỳ ai hắn thấy đều nằm trong Quy tắc Tham chiến cả.

Nhưng sự thực là, các mục tiêu của tôi luôn luôn rõ ràng, và tôi, tất nhiên là có đầy nhân chứng vào mỗi lần bắn.

Cái cách mà mọi việc xảy ra là, ta không thể mắc sai lầm. Ta sẽ bị kết tội nếu không tuân thủ nghiêm túc Quy tắc Tham chiến.

Trở lại Fallujah, có một vụ rắc rối liên quan đến lực lượng Lính thủy đánh bộ khi đánh chiếm một căn nhà. Một đơn vị đã đi vào căn nhà, bước qua vài thi thể khi họ càn quét sạch các căn phòng. Không may là một trong những tên khốn nằm trên sàn vẫn chưa chết. Sau khi Lính thủy đánh bộ đã vào hết trong nhà, hắn lăn sang một bên và rút chốt lựu đạn. Vụ nổ giết chết và làm bị thương một số lính thủy đánh bộ.

Kể từ đó, Lính thủy đánh bộ nã đạn vào bất kỳ thi thể nào họ gặp khi đột nhập vào một căn nhà. Có một lần, một phóng viên có camera đã ghi lại sự kiện đó; video đó được công bố còn Lính thủy đánh bộ thì gặp rắc rối. Những cáo buộc đã bị bỏ qua hoặc không bao giờ thực sự được trình lên, vì cuộc điều tra đã giải thích các tình huống. Tuy nhiên, ngay cả chỉ có tiềm năng bị buộc tội thôi cũng là điều mà ta luôn phải để tâm đến.

Điều tồi tệ nhất mà ta có thể mang vào chiến tranh đó là để cả đám truyền thông bám lấy các đơn vị. Hầu hết người Mỹ không nắm được thực tế của chiến tranh, và những tin tức họ chuyển về chẳng giúp ích gì cho chúng ta cả.

Lãnh đạo thì muốn có sự ủng hộ của công chúng đối với cuộc chiến tranh. Thật không, ai mà quan tâm chứ?

Tôi nghĩ thế này, nếu các ông đã cử chúng tôi đi làm nhiệm vụ thì cứ để chúng tôi làm. Đó là lý do tại sao các ông có các đô đốc và tướng lĩnh, hãy để họ giám sát chúng tôi, chứ không phải mấy tay nghị sĩ béo phì ngồi trên ghế da hút xì gà ở thủ đô trong văn phòng có điều hòa nhiệt độ nói với tôi là khi nào và ở đâu thì tôi mới có thể hoặc không thể bắn một tên nào đó.

Làm sao mà họ hiểu được? Họ chưa bao giờ ở trong tình huống của một trận đánh cả.

Và một khi các ông đã quyết định cử chúng tôi đi, hãy để tôi làm việc của mình. Chiến tranh là chiến tranh.

Hãy nói cho tôi xem: Các ông có muốn chúng tôi đánh bại kẻ thù hay không? Tiêu diệt bọn chúng hay không? Hay chúng tôi đến đó để mời bọn chúng thưởng trà và bánh ngọt?

Hãy nói cho quân đội kết quả cuối cùng mà các ông muốn, và các ông sẽ có nó. Nhưng đừng có cố mà bảo chúng tôi phải làm như thế nào. Tất cả những quy định về việc khi nào và trong tình huống nào thì có thể được giết một chiến binh của kẻ thù không chỉ làm nhiệm vụ của chúng tôi khó khăn hơn, mà còn đặt chúng tôi vào tình thế nguy hiểm.

Quy tắc Tham chiến đã trở nên chằng chịt và phức tạp vì các chính trị gia đang can thiệp vào quá trình thực hiện nó. Quy tắc đã được các luật sư soạn thảo ra hòng bảo vệ các đô đốc và tướng lĩnh khỏi các chính trị gia; những người biết lo lắng cho những ai đang đổ máu trên chiến trường đâu có viết ra những quy định như thế.

Vì lý do nào đó, rất nhiều người ở trong nước, không phải là tất cả, không chấp nhận được việc chúng ta đang có chiến tranh. Họ không chấp nhận rằng chiến tranh đồng nghĩa với chết chóc, phần lớn là chết vì bạo lực. Rất nhiều người, không chỉ các chính trị gia, muốn áp đặt lên chúng tôi những ảo tưởng nực cười, ép chúng tôi vào vài chuẩn mực ứng xử mà không người nào có thể chịu đựng nổi.

Tôi không nói rằng được phép phạm các tội ác chiến tranh. Tôi đang nói rằng các chiến binh cần được tham chiến một cách thoải mái chứ không phải với hai tay bị trói quặt sau lưng.

Theo Quy tắc Tham chiến tôi tuân thủ ở Iraq, nếu có ai đó xông vào nhà tôi, bắn chết vợ tôi, con tôi rồi ném súng xuống đất, thì tôi KHÔNG được phép bắn hắn ta. Tôi phải nhẹ nhàng bắt hắn rồi giao cho nhà chức trách.

Các ông có làm thế không?

Các ông có thể lập luận rằng thành công của tôi đã chứng minh Quy chế Tham chiến có hiệu quả. Nhưng tôi cảm thấy rằng tôi có thể còn hiệu quả hơn nữa, có thể bảo vệ nhiều người hơn và giúp cho chiến tranh kết thúc nhanh hơn mà không cần đến các quy tắc ấy.

Dường như chỉ có vài bài phóng sự mà chúng tôi đọc được là nói về tình hình khốc liệt hoặc việc bình định Ramadi bất khả đến thế nào.

Hãy đoán xem? Chứng tôi đã giết hết những tên xấu xa đó và điều gì đã xảy ra? Những thủ lĩnh bộ lạc của người Iraq rốt cuộc đã nhận ra rằng chúng tôi nghiêm túc, và cuối cùng họ đã tập hợp nhau lại không chỉ để điều hành chính bọn họ mà còn để đẩy bật bọn phiến quân ra ngoài, cần sử dụng lực lượng quân sự, cần có hành động bạo lực, để tạo ra một tình thế mà ở đó có thể hòa bình.

BỆNH BẠCH CẦU

“Con gái bị ốm. Lượng bạch cầu của con bé rất thấp. ”

Tôi siết chiếc điện thoại chặt hơn một chút khi Taya tiếp tục nói. Con gái bé bỏng của tôi bị ốm vì nhiễm trùng và vàng da đã một thời gian. Gan của bé dường như không thể có đủ sức chống lại bệnh tật. Bây giờ, các bác sĩ đang đề nghị phải xét nghiệm thêm, tình hình có vẻ rất xấu. Họ không nói là ung thư hay bệnh bạch cầu, nhưng họ cũng không nói là không phải. Họ vẫn tiếp tục xét nghiệm để khẳng định điều mà họ lo sợ nhất.

Taya cố gắng ra vẻ tích cực và làm vấn đề bớt nghiêm trọng đi. Tôi có thể đoán được qua giọng nói của cô ấy tình hình nghiêm trọng hơn nhiều so với cô ấy thừa nhận, cho đến cuối cùng tôi cũng biết được toàn bộ sự thực từ cô ấy.

Tôi hoàn toàn không chắc về tất cả những gì cô ấy nói, những điều tôi nghe được là bệnh bạch cầu. Ung thư.

Con gái bé bỏng của tôi sẽ chết.

Một đám mây tuyệt vọng bao trùm quanh tôi. Tôi cách xa con bé hàng ngàn dặm, và tôi chẳng giúp được gì. Cho dù tôi có ở đó, tôi cũng không thể chữa chạy cho con bé được.

Giọng vợ tôi trên điện thoại thật buồn và cô đơn.

Áp lực của đợt dàn quân bắt đầu đến với tôi trước cú điện thoại tháng Chín năm 2006. Sự ra đi của Marc và việc Ryan bị thương nặng đã rung hồi chuông nguyện. Huyết áp của tôi tăng vọt và tôi không tài nào ngủ được. Nghe tin về con gái đã đẩy tôi đến ngưỡng chịu đựng. Tôi chẳng tốt đẹp gì với ai cả.

May mắn thay, chúng tôi đã chuẩn bị kết thúc đợt dàn quân. Ngay sau khi tôi đề cập về tình trạng của cô con gái bé bỏng với ban chỉ huy, họ thu xếp cho tôi một chuyến về nước. Bác sĩ của chúng tôi đã gửi giấy tờ để xin công văn của Hội Chữ Thập Đỏ. Đó là một báo cáo trình bày tình trạng khó khăn của gia đình một quân nhân cần phải về nước khẩn cấp. Khi công văn đến, các chỉ huy của tôi đã thực hiện việc này.

Hầu như tôi không ra ngoài. Tình hình ở Ramadi khốc liệt đến mức không có cơ hội nào cho các chuyến bay. Không có máy bay lên thẳng ra vào. Thậm chí các đoàn xe hộ tống vẫn bị bọn phiến quân tấn công. Lo lắng cho tôi và biết rằng tôi không thể chịu đựng việc chờ đợi quá lâu, đồng đội đã chở tôi trên chiếc xe Humvees. Họ đặt tôi ngồi ở giữa và đưa tôi rời khỏi thành phố đến sân bay TQ.

Khi chúng tôi đến nơi, tôi gần như bị chết nghẹt vì bộ áo giáp và khẩu M-4 của tôi.

Đồng đội trở lại với cuộc chiến, còn tôi thì bay về nước. Điều đó thật kinh khủng. Tôi cảm thấy như tôi đang bỏ mặc họ, né tránh trách nhiệm của tôi.

Đó là một sự xung đột - giữa gia đình và tổ quốc, giữa gia đình và các chiến hữu - mà thực sự tôi không bao giờ có thể giải quyết được. Tôi thậm chí đã giết nhiều kẻ thù ở Ramadi hơn ở Fallujah. Không chỉ là tôi đã kết thúc với số lượng hạ thủ nhiều hơn bất kỳ ai khác trong đợt dàn quân đó, mà tổng số kẻ thù mà tôi bắn hạ đã biến tôi thành người lính bắn tỉa đỉnh nhất mọi thời đại, nếu nói theo ngôn ngữ chính thức hoành tráng.

Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy mình như một kẻ trốn chạy, một kẻ chưa làm tròn bổn phận.