← Quay lại trang sách

Chương 12 NHỮNG THỜI KHẮC KHÓ KHĂN-*-VỀ NHÀ

Tôi đáp một chuyến bay quân sự để đến Kuwait, rồi từ đó trở về Mỹ. Tôi mặc quần áo dân sự, tóc và râu dài; tôi gặp đôi chút rắc rối, vì không ai có thể hiểu được tại sao một quân nhân đang làm nhiệm vụ lại được phép đi lại trong bộ quần áo dân sự.

Nghĩ lại, sự việc đó cũng khá buồn cười.

Tôi xuống máy bay ở Atlanta, rồi phải quay lại qua cửa an ninh để tiếp tục hành trình. Phải mất mấy ngày để tôi thực hiện quãng đường dài đó, và khi cởi đôi giày của mình ra để kiểm tra an ninh, tôi thề là gần chục người đang xếp hàng cạnh đó gần như ngất lịm. Tôi không chắc là mình từng vượt qua kiểm tra an ninh nhanh đến vậy.

TAYA:

Anh ấy không bao giờ kể cho tôi nghe tình hình nguy hiểm thế nào, nhưng tôi đã đạt đến mức mà tôi cảm thấy như mình có thể đọc vị được anh. Và khi anh nói với tôi rằng đồng đội đã đưa anh ra bằng một chiếc xe công voa, cái cách anh kể cho tôi nghe về điều đó cũng khiến tôi sợ hãi không chỉ cho họ mà cho cả anh nữa. Tôi đã hỏi dăm ba câu và những câu trả lời thận trọng của anh đã nói cho tôi biết việc anh về phép nguy hiểm đến mức nào.

Tôi có cảm giác mạnh mẽ rằng càng có nhiều người cầu nguyện cho anh, cơ hội anh được an toàn sẽ càng nhiều hơn. Vì vậy tôi đã hỏi anh liệu tôi có thể mời cha mẹ anh cầu nguyện cho anh không.

Anh nói có.

Rồi tôi lại hỏi anh liệu tôi có thể nói cho họ biết lý do anh trở về nước và sự nguy hiểm trong thành phố hay không, thì anh nói không.

Vì vậy, tôi đã không nói gì.

Tôi đề nghị nhiều người cầu nguyện, bóng gió về mối nguy hiểm nhưng tôi không cung cấp chi tiết gì hơn ngoài việc bảo mọi người hãy cứ tin ở tôi. Tôi biết nó là một viên thuốc khó nuốt đối với một số người mà tôi đã đề nghị. Nhưng tôi có cảm giác rất mạnh mẽ rằng họ cần cầu nguyện và đồng thời tôi cũng phải thực hiện nguyện vọng của chồng tôi về những gì được chia sẻ. Tôi biết nó không phổ biến, nhưng tôi có cảm giác nhu cầu cầu nguyện còn vượt xa nhu cầu tìm sự đồng cảm của tôi.

Đối với tôi, khi trở về hình như Chris quá căng thẳng đến mức anh lóng ngóng trước mọi việc.

Thật khó cho anh để xác định cảm giác của mình về mọi điều. Anh chỉ kiệt sức và bị chìm lấp hoàn toàn.

Tôi cảm thấy buồn về những gì anh đã phải trải qua. Và tôi thấy cần anh vô cùng. Tôi thực sự cần anh ghê gớm. Nhưng đồng thời tôi cũng phải quen với việc vắng anh đến mức tôi tỏ thái độ là không cần gì đến anh cả, hoặc chí ít là tôi không phải cần đến anh.

Tôi đồ rằng điều này có thể chẳng có ý nghĩa gì đối với bất cứ ai, nhưng tôi cảm nhận được sự hòa trộn cảm xúc kỳ lạ này trong toàn bộ dải quang phổ cảm xúc đó. Tôi phát điên lên với anh vì đã quyết định bỏ mặc tôi và lũ trẻ tự xoay xở. Tôi muốn anh ở nhà nhưng tôi cũng vẫn phát điên lên với anh.

Tôi đã trải qua nhiều tháng lo lắng cho sự an toàn của anh và tâm trạng chán chường vì anh đã chọn trở lại chiến đấu. Tôi muốn được dựa vào anh, nhưng tôi không thể. Đội của anh và toàn bộ những người xa lạ tình cờ ở trong quân đội thì có thể dựa vào anh, còn bọn trẻ và tôi rõ ràng là không thể.

Đó đâu phải lỗi của anh ấy. Anh đã ở hai nơi cùng lúc nếu có thể, nhưng anh không thể. Nhưng khi buộc phải lựa chọn, anh đã không chọn chúng tôi.

Tôi lúc nào cũng yêu anh và tìm cách ủng hộ anh và thể hiện tình yêu với anh theo mọi cách có thể. Tôi có đến năm trăm cảm xúc cùng một lúc.

Tôi đồ rằng có một dòng chảy ngầm hờn giận trong tôi suốt đợt dàn quân đó. Chúng tôi đã có những cuộc đối thoại về nơi chúng tôi từng trò chuyện và anh đã nhận thấy có gì đó không ổn. Anh đã hỏi điều gì làm tôi phiền muộn còn tôi đã từ chối tiết lộ. Rồi cuối cùng anh cứ dồn ép nên tôi đã nói, “Em phát điên lên vì anh trở lại chiến trường. Nhưng em không muốn ghét bỏ anh, và em cũng không muốn phát điên lên nữa. Em biết anh có thể bị giết vào ngày mai. Em không muốn anh bị phân tâm vì điều này. Em không muốn có cuộc đối thoại này.”

Giờ đây, cuối cùng anh đã trở lại, tất cả cảm xúc bùng lên trong tôi, hạnh phúc hòa lẫn giận hờn.

TỐT DẦN LÊN

Các bác sĩ đã thực hiện tất cả các xét nghiệm cho con gái bé bỏng của tôi. Có vài vị bác sĩ làm tôi tức giận.

Tôi đặc biệt nhớ khi họ lấy máu, mà họ làm việc này rất nhiều lần. Họ đặt con bé nằm sấp và chích vào bàn chân; rất nhiều lần không lấy được máu và họ phải làm đi làm lại. Con bé cứ khóc suốt.

Đó là những ngày dài dằng dặc, nhưng cuối cùng các bác sĩ phát hiện ra là con gái tôi không mắc bệnh bạch cầu. Chứng vàng da sơ sinh và một vài biến chứng khác vẫn còn, nhưng các bác sĩ đã có thể kiểm soát được các tác nhân khiến con bé bị bệnh, nên bệnh tình của bé đã đỡ hơn.

Một trong những điều nản lòng mà tôi không ngờ tới, đó là cách con bé phản ứng với tôi. Con bé cứ khóc thét lên mỗi khi tôi bế. Con bé chỉ đòi mẹ. Taya nói rằng bé đều có phản ứng như vậy đối với mọi đàn ông, cứ mỗi khi nghe thấy giọng đàn ông, con bé sẽ khóc.

Dù bất cứ lý do gì đi nữa thì điều đó làm tôi đau lòng. Tôi đã vượt qua một chặng đường dài và yêu thương con bé vô cùng, mà con bé lại từ chối tôi.

Đối với thằng cu thì mọi việc tốt hơn. Thằng nhỏ vẫn nhớ tôi và giờ đã lớn hơn và sẵn sàng chơi đùa với tôi hơn. Nhưng một lần nữa những rắc rối thông thường giữa cha mẹ và con cái, và giữa cha mẹ với nhau bị làm cho tồi tệ hơn bởi sự chia ly và căng thẳng mà tất cả chúng tôi đã trải qua.

Những điều nhỏ nhặt cũng có thể trở nên rất phiền toái. Tôi mong đợi con trai nhìn thẳng vào mắt tôi khi tôi rầy la bé. Taya lại thấy khó chịu về điều này; bởi cô ấy cảm thấy thằng bé vẫn chưa quen với tôi hoặc với giọng nói của tôi, và đó là đòi hỏi quá nhiều với một cậu bé lên hai khi phải nhìn vào mắt tôi trong tình huống đó. Nhưng cảm giác của tôi thì ngược lại. Tôi nghĩ đó là điều đúng đắn mà thằng bé phải làm. Thằng bé đâu có bị khiển trách bởi một người xa lạ, mà đang được rèn giũa bởi một người yêu thương bé kia mà. Đó là một con đường hai chiều thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau theo cách nào đó. Hãy nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi sẽ nhìn thẳng vào mắt anh, rồi chúng ta sẽ hiểu về nhau thôi.

Taya đã nói, “Chờ thêm chút đi. Anh đã đi xa bao lâu rồi nhỉ? Và bây giờ anh muốn trở về làm một phần của gia đình này và đặt ngay ra luật lệ ư? Không đâu thưa ngài, bởi vì anh sẽ lại rời đi thêm một tháng nữa để trở về quân trường.”

Từ quan điểm của mỗi bên, cả hai chúng tôi đều đúng. Vấn đề là cố gắng nhìn nhận quan điểm của người kia và chung sống với nó thôi.

Tôi không hoàn hảo. Tôi đã sai lầm trong vài việc. Tôi phải học cách làm bố. Tôi có quan điểm về việc làm cha phải như thế nào, nhưng nó không có chút thực tiễn nào. Qua thời gian, những quan điểm của tôi dần thay đổi.

Trong chừng mực nào đó, tôi vẫn mong đợi bọn trẻ nhìn thẳng vào mắt tôi khi tôi trò chuyện với chúng, và ngược lại. Taya cũng đồng ý như vậy.

MIKE MONSOOR

Tôi về nhà được khoảng hai tuần thì một đồng đội SEAL của tôi gọi điện hỏi xem đã có chuyện gì xảy ra.

“Chẳng có chuyện gì,” tôi nói với cậu ta.

“Vậy các anh mất ai vậy?” Cậu ta hỏi.

“Hả, cái gì cơ?”

“Tôi không biết đó là ai, nhưng tôi nghe nói các anh mất một người nữa.”

“Mẹ kiếp.”

Tôi dập điện thoại và bắt đầu gọi điện cho tất cả mọi người mà tôi biết. Rốt cuộc tôi cũng gọi được cho một người nắm được chi tiết, mặc dù cậu ấy chưa thể nói gì nhiều ngay lúc đó, bởi vì gia đình của người mất vẫn chưa được thông báo. Cậu ấy nói sẽ gọi lại cho tôi sau vài giờ nữa.

Đó là những giờ thật dài.

Cuối cùng, tôi đã biết đó là Mike Monsoor, một người lính trong trung đội kết nghĩa của chúng tôi, cậu ấy hy sinh trong lúc cứu mạng vài đồng đội của mình ở Ramadi. Nhóm của cậu ấy lập chốt quan sát tại một căn nhà, một tên phiến quân đã tiếp cận và ném lựu đạn vào.

Đúng là tôi không có mặt ở nơi đó, nhưng đây là bản mô tả việc đã xảy ra theo như bản tóm tắt chính thức về trận đánh đó:

Quả lựu đạn lao thẳng vào ngực cậu ta và nẩy xuống boong [thuật ngữ mà Hải quân dùng để gọi sàn nhà]. Cậu ta lập tức nhảy lên và hét “lựu đạn” để báo cho đồng đội về mối nguy hiểm sắp xảy ra, nhưng họ đã không thể di chuyển kịp khỏi vị trí ẩn náu của lính bắn tỉa để tránh được nguy hiểm. Không chút lưỡng lự và không hề nghĩ đến mạng sống của bản thân cậu đã đè lên quả lựu đạn, che kín nó để bảo vệ cho đồng đội đang nằm rạp xuống ngay bên cạnh. Quả lựu đạn nổ tung khi cậu nằm đè lên và cậu hy sinh.

Hành động của hạ sĩ Monsoor không thể biết là do đức tính hy sinh nhiều hơn hay do có chủ ý. Trong số ba SEAL trên góc của mái nhà đó, chỉ mình cậu có đường thoát để tránh vụ nổ và nếu phải lựa chọn, cậu ta có thể thoát hiểm dễ dàng. Thay vào đó, Monsoor đã chọn cách hy sinh thân mình để bảo vệ đồng đội. Bằng hành động dũng cảm và quên mình ấy, cậu đã cứu sống được sinh mạng của hai SEAL khác.

Sau này, cậu ấy được truy tặng Huân chương Danh dự. Nhiều ký ức về Mikey xuất hiện ngay khi tôi hay tin cậu đã mất. Tôi không biết nhiều về cậu ta lắm, bởi vì cậu ở trung đội khác, nhưng tôi đã có mặt trong lần bắt nạt cậu ta.

Tôi nhớ chúng tôi đã đè cậu xuống để cạo sạch râu tóc. Cậu ta không thích điều đó chút nào; tôi có thể vẫn còn vài vết bầm tím vì lần bắt nạt ấy.

Tôi lái một chiếc xe ra sân bay đón đồng đội trở về và giúp sắp xếp việc lo cho linh cữu của Mikey.

Lễ tang của các SEAL giống nhu tang lễ của người Ai-len, trừ việc uống nhiều hơn. Không liên quan, nhưng người ta cần bao nhiêu bia để phục cữu một SEAL? Đó là thông tin bí mật, nhưng chắc chắn là nhiều hơn cả tấn.

Tôi đứng trên mặt đường rải nhựa trong bộ quần áo màu xanh khi máy bay hạ cánh. Cánh tay tôi giơ thẳng lên làm động tác chào khi quan tài được đưa xuống cầu thang máy bay, sau đó, cùng với những người lính tiêu binh khác, tôi chậm rãi khiêng quan tài đến chiếc xe tang đang đợi sẵn.

Chúng tôi đã thu hút sự chú ý của đám người trên sân bay. Những người gần đó nhận thấy việc gì đang diễn ra đã dừng lại mặc niệm, bày tỏ sự tôn trọng. Thật cảm động; họ đang bày tỏ lòng tôn trọng một đồng bào cho dù họ không biết người ấy. Cảnh tượng đó làm tôi xúc động, một hành động tôn vinh cuối cùng đối với một đồng đội đã ngã xuống của chúng tôi, một sự thừa nhận lặng lẽ về tầm quan trọng trong sự hy sinh của cậu ấy.

Điều duy nhất nhận biết chúng tôi là những SEAL là tấm huy hiệu có hình đinh ba mà chúng tôi đeo, biểu tượng bằng kim loại đó chứng tỏ chúng tôi là thành viên. Nếu không đeo huy hiệu đó trên ngực thì chỉ là lính Hải quân bình thường khác.

Nó trở thành một biểu hiện của sự tôn trọng khi tháo huy hiệu đó ra và đóng nó vào quan tài của người đồng đội đã ngã xuống tại lễ tang. Ta đang chứng tỏ cho đồng đội của mình rằng chúng ta sẽ không bao giờ quên, rằng người đó sẽ mãi ở trong lòng chúng ta cho đến cuối đời.

Khi những người lính của Trung đội Delta xếp hàng để gắn huy hiệu của họ lên quan tài Mikey, tôi lùi lại, đầu cúi xuống. Thật tình cờ, mộ của Marc Lee chỉ cách nơi Monsoor sắp được chôn cất chỉ vài trăm mét. Tôi đã không dự lễ tang của Marc, vì lúc đó tôi vẫn ở nước ngoài, tôi vẫn chưa có dịp đến để tưởng niệm cậu ấy. Nay thật bất ngờ lại có dịp thích hợp để tôi gắn huy hiệu của mình lên bia mộ của cậu ấy.

Tôi lặng lẽ bước đến đó và quỳ xuống, chào từ biệt người bạn của mình.

Một chuyện khiến cho buổi lễ tang buồn vui lẫn lộn là việc Ryan đã kịp ra viện để đến dự lễ tang. Thật mừng khi được gặp Ryan, ngay cả giờ đây cậu đã bị mù vĩnh viễn.

Trước khi bất tỉnh vì bị mất máu sau khi trúng đạn, Ryan vẫn có thể nhìn được. Nhưng bộ não của cậu bị phình lên vì chảy máu bên trong, mảnh xương hoặc mảnh đạn trong mắt đã gây tổn thương nghiêm trọng đến thần kinh thị giác của cậu ta. Không có hy vọng khôi phục thị giác.

Khi gặp cậu ta, tôi đã hỏi tại sao cậu cứ khăng khăng đòi tự mình bước ra khỏi tòa nhà đó. Điều đó rất ấn tượng với tôi về lòng dũng cảm tuyệt vời - đặc tính của cậu ta. Ryan đã nói với tôi rằng thủ tục của chúng tôi yêu cầu ít nhất hai người đi cùng với cậu nếu cậu không thể tự di chuyển được. Cậu ta đã không muốn lôi thêm người ra khỏi cuộc chiến đấu đó.

Tôi nghĩ cậu ta đã nghĩ tự mình có thể đứng dậy. Và có lẽ cậu ấy có thể làm như thế nếu chúng tôi để mặc cậu. Cậu ta thậm chí còn có thể cầm súng và tìm cách tiếp tục chiến đấu nữa kia.

Ryan rời quân ngũ bởi vì vết thương của mình, nhưng chúng tôi vẫn thân thiết. Người ta nói rằng tình bạn được hun đúc trong chiến tranh là những tình bạn sâu nặng. Tình bạn của chúng tôi đã chứng minh chân lý hiển nhiên đó.

ĐÁNH LỘN VÀ ĐÁNH LỘN NHIỀU HƠN NỮA

Đánh nhau là thực tiễn cuộc sống của một SEAL. Tôi từng tham gia vài cuộc chiến đấu thú vị.

Vào tháng Tư năm 2007, chúng tôi ở Tennessee. Chúng tôi đã vượt qua ranh giới tiểu bang ở một thành phố, nơi đang có một trận đấu võ thuật hỗn hợp tranh Giải vô địch Đối kháng Đỉnh cao (Ultimate Fighting Championship - UFC) vào đầu giờ tối hôm đó. Thật là trùng hợp ngẫu nhiên, chúng tôi tình cờ vào một quán bar nơi có ba võ sĩ đang ăn mừng thắng lợi đầu tiên của họ trên võ đài. Chúng tôi không tìm cách gây sự; thực tế, tôi ngồi trong một góc yên tĩnh cùng với cậu bạn thân, xung quanh hầu như chẳng có ai khác nữa.

Không biết vì lý do gì, ba hoặc bốn tên xuất hiện và lao bổ vào bạn tôi. Bạn tôi nói vài lời. Dù có nói gì đi nữa, những kẻ tỏ ra là võ sĩ UFC không thích những lời đó, vì vậy bọn chúng đã tấn công bạn tôi.

Tất nhiên tôi không để bạn đánh nhau một mình, tôi đã nhảy vào. Chúng tôi cùng nhau nện bọn chúng nhừ tử.

Lần này, tôi đã không tuân theo lời khuyên của sếp Primo. Đúng ra thì trong lúc tôi vẫn đang nện một trong những tên võ sĩ thì bọn bảo kê đến giải tán chúng tôi. Cảnh sát xuất hiện và bắt tôi. Tôi bị buộc tội hành hung. (Cậu bạn tôi đã lẻn ra cửa sau. Cậu ta không có ý xấu gì cả; cậu chỉ tuân thủ quy tắc thứ hai của Primo trong chiến đấu mà thôi.)

Tôi được tại ngoại khi đóng tiền bảo lãnh vào hôm sau. Luật sư của tôi đến và tiến hành thỏa thuận bào chữa với thẩm phán. Công tố viên đồng ý bác bỏ lời buộc tội, nhưng để hoàn tất thủ tục pháp lý, tôi phải có mặt trước thẩm phán.

“Ông Kyle,” bà ta nói, với giọng kéo dài chậm chạp lời phán quyết, “Việc ông được huấn luyện để giết người, không có nghĩa ông phải chứng tỏ điều đó ở thành phố của tôi. Xin mời ra ngoài và đừng trở lại đây nữa.”

Thế là tôi đi ra, và không trở lại thành phố đó nữa.

Tai nạn nho nhỏ đó làm tôi gặp chút rắc rối ở nhà. Bất kể ở đâu trong thời gian huấn luyện, tôi luôn gọi điện cho Taya trước khi đi ngủ. Nhưng lần này bị nhốt cả đêm trong phòng giam dành cho những kẻ say rượu, tôi đã không gọi điện về nhà.

Ý tôi là, tôi chỉ được gọi một cuộc và cô ấy thì không có khả năng gỡ tội ra khỏi phòng giam, vì vậy tôi để cuộc gọi vào việc hữu ích hơn.

Có lẽ sẽ chẳng có vấn đề gì ghê gớm, ngoại trừ việc lẽ ra tôi phải về nhà để dự tiệc mừng sinh nhật con tôi. Vì phải có mặt ở tòa án nên tôi phải ở lại thành phố.

“Anh đang ở đâu đấy?” Taya hỏi khi rốt cuộc tôi cũng điện được cho cô ấy.

“Anh bị bắt.”

“Được rồi,” cô ấy ngắt lời. “Sao cũng được.”

Tôi không thể nói là tôi đã trách cứ Taya vì điên tiết lên với tôi. Đó không phải là việc có trách nhiệm lớn nhất mà tôi từng làm. Khi việc đó xảy ra, nó chỉ là giọt nước tràn ly, quan hệ của chúng tôi đã xuống dốc không phanh.

TAYA:

Tôi không phải lòng một chàng SEAL chết tiệt của Lực Lượng Hải quân, mà tôi yêu Chris.

Là một SEAL thì rất oách và này nọ, nhưng đó không phải Là điều khiến tôi yêu anh ấy.

Nếu tôi biết có thể mong đợi điều gì, thì sẽ chỉ mong muốn một điều thôi. Nhưng bạn sẽ không biết là mình sẽ mong chờ điều gì. Không ai biết cả. Thực sự Là không thể biết, không thể biết trong cuộc sống thực tại. Và không phải mọi lính SEAL đều liên tục tham gia các đợt triển khai quân hết đợt này đến đợt khác như vậy.

Thời gian cứ trôi qua, công việc của Chris ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với anh ấy. Anh không cần đến tôi để có gia đình, theo cách nào đó thì anh ấy đã có đồng đội rồi.

Dần dần tôi nhận ra tôi không phải là điều quan trọng nhất trong đời anh ấy. Anh vẫn nói những lời đó, nhưng ý của anh ấy không còn như thế nữa.

Tôi chẳng phải là một chiến binh giỏi giang hoặc thậm chí là có kỹ năng xuất sắc chút nào, nhưng trong một số trường hợp cũng bộc lộ những phẩm chất ấy. Tôi thà bị đập tơi bời còn hơn bị nhìn nhận như một con mèo hèn nhát trước đám lính của mình.

Tôi cũng có vài vụ đánh lộn với các quân nhân khác. Tôi nghĩ là tôi luôn giữ mình đứng vững trong mọi tình huống.

Hồi tôi còn tham gia chiến đấu với trung đội đầu tiên, cả nhóm SEAL đến Fort Irwin[*] ở San Bernardino trên Sa mạc Mojave. Sau đợt huấn luyện, chúng tôi tiến vào thành phố và đến một quán bar tên là Library.

Chu thich: Tên đầy đủ là Fort Irwin National Training Center, một khu vực huấn luyện chính của Quân đội Hoa Kỳ đặt tại Sa mạc Mojave nằm ở phía Bắc thành phố San Bernardino, California, Hoa Kỳ.

Trong quán có một số sĩ quan cảnh sát và lính cứu hỏa hết ca trực đang liên hoan. Vài phụ nữ đã chuyển sự chú ý sang đám chúng tôi. Khi việc này xảy ra, những gã người địa phương đều tỏ ra ghen tị và bắt đầu gây sự.

Điều đó chứng tỏ bọn họ đánh giá tình hình rất kém, bởi vì có gần một trăm người của chúng tôi trong quán bar nhỏ đó. Một trăm SEAL là một lực lượng rất đáng kể, và chúng tôi đã làm vài chuyện rất đáng kể ngày hôm đó. Chúng tôi ra ngoài và phá vài chiếc xe.

Cảnh sát từ đâu đó gần đấy xuất hiện. Họ đã bắt hai mươi lăm người bọn tôi.

Có lẽ bạn từng nghe về phòng chỉ huy[*] của thuyền trưởng, đó là nơi sĩ quan chỉ huy trưởng lắng nghe về những việc bạn đã làm và phát ra cái gọi là lệnh trừng phạt không cần phán quyết của tòa án nếu ông ấy nghĩ việc trừng phạt là hợp lệ. Lệnh trừng phạt được ban hành theo luật quân sự quy định, nó có thể là bất cứ thứ gì, từ một câu “cấm anh làm thế nữa” đầy nghiêm khắc cho đến hạ cấp bậc và thậm chí còn “phạt cấm túc cải huấn”, cái này có nhiều nghĩa hơn là bạn nghĩ.

Chu thich: Nguyên văn là “mast”, theo thuật ngữ của Hải quân thì đó là nơi diễn ra phiên tòa mà theo đó sĩ quan chỉ huy sẽ nghiên cứu và xử lý các trường hợp liên quan đến mệnh lệnh

Có những phiên điều trần tương tự với việc có các hậu quả ít nghiêm trọng hơn, do các sĩ quan cấp thấp hơn vị sĩ quan chỉ huy trưởng thực hiện. Trong vụ này của chúng tôi, chúng tôi phải đứng trước sĩ quan chỉ huy phó (Executive Officer - XO, cấp bậc sĩ quan dưới sĩ quan chỉ huy trưởng) và nghe giáo huấn, trong lúc ông huấn thị chúng tôi bằng ngôn ngữ cực kỳ hùng hồn về việc chúng tôi đã quậy tung mọi thứ như thế nào. Theo quy trình, ông đọc tất cả những lời buộc tội mang tính pháp lý, tất cả các phá hoại - tôi đã quên có bao nhiêu người bị thương, và tài sản bị chúng tôi phá hoại trị giá bao nhiêu tiền, nhưng ông ấy cũng mất một lúc để liệt kê. Ông kết thúc bằng việc nói với chúng tôi là ông đã cảm thấy hổ thẹn như thế nào.

“Thôi được rồi,” ông nói, kết thúc bài huấn thị. “Đừng để chuyện này xảy ra nữa. Cút hết khỏi đây ngay.”

Chúng tôi chuồn vội, hình thức trừng phạt thật nặng nề, lời của ông ấy cứ oang oang trong tai chúng tôi... đến năm giây chứ chẳng ít.

Nhưng câu chuyện chưa kết thúc ở đó.

Một đơn vị khác nghe kể về cuộc phiêu lưu nhỏ của chúng tôi đã quyết định là họ phải đến quán bar đó xem lịch sử có lặp lại không.

Lịch sử đã lặp lại thật.

Họ đã thắng cuộc ẩu đả đó, nhưng theo những gì mà tôi hiểu thì tình hình có khó khăn hơn chút đỉnh. Kết quả không được cân xứng cho lắm.

Sau đó ít lâu, một nhóm quân đội khác phải đến đó để huấn luyện. Vào lúc này, sự hằm hè giữa lính và đám trai địa phương đã hình thành. Vấn đề duy nhất là những thanh niên sống ở đó biết rằng họ sẽ phải đấu với bọn lính. Và bọn họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đấu đó.

Thế là toàn bộ đám thanh niên địa phương dồn vào đấy đều bị đập.

Từ đó trở đi, toàn bộ thị trấn là nơi lính SEAL bị hạn chế viếng thăm.

Bạn có thể nghĩ rằng thật khó có thể bị vướng vào một cuộc cãi lộn vì say sưa ở Kuwait, vì thực ra chẳng có quán bar nào để bạn có thể đến uống rượu cả. Nhưng tình cờ lại có một nhà hàng nổi mà bạn thích đến ăn, và cũng là nơi, không quá ngẫu nhiên, dễ dàng lẻn vào uống rượu.

Một tối chúng tôi đến quán đó và bắt đầu trò chuyện rôm rả. Một số người địa phương thấy khó chịu, và đã xảy ra một vụ cãi lộn dẫn đến đánh nhau. Bốn người chúng tôi trong đó kể cả tôi đã bị bắt giữ.

Những người còn lại thoát được ra và đề nghị cảnh sát thả chung tôi.

“Không đời nào,” viên cảnh sát nói. “Họ sẽ bị đi tù và đưa ra xét xử.”

Cảnh sát nhấn mạnh lập trường của họ. Đồng đội của tôi cũng bảo vệ lý lẽ của mình.

Nếu đã đọc đến đây, bạn sẽ hiểu rằng các SEAL rất có sức thuyết phục. Những người Kuwait rốt cuộc cũng nhìn nhận lập trường của SEAL và thả chúng tôi ra.

Tôi đã từng bị bắt giữ ở Steamboat Sppings, Colorado, mặc dù tôi nghĩ trong trường hợp đó các tình huống cụ thể đã bênh vực tôi. Tôi đang ngồi trong quán bar thì một cô phục vụ bưng một khay bia ngang qua. Một gã ngồi ở bàn gần đó xô ghế ra sau và va vào cô gái, vì không biết cô ta đứng đó, một ít bia đã đổ lên người hắn.

Hắn đứng dậy và tát cô ta.

Tôi tiến đến và bảo vệ danh dự cho cô phục vụ theo cách duy nhất mà tôi biết. Việc đó khiến tôi bị bắt. Món granola[*] tôi gọi thành ra khó nuốt khi xảy ra việc ẩu đả vì phụ nữ.

Những cáo buộc này, cũng như mọi cáo buộc khác đều bị tòa gạt bỏ.

Chu thich: Là món ăn làm từ yến mạch trộn đường, quả khô, mật và gừng.

CẢNH SÁT TRƯỞNG RAMADI

Cuộc tấn công vào Ramadi cuối cùng được coi là một bước tiến quan trọng và là bước ngoặt trong cuộc chiến tranh, một trong những sự kiện mấu chốt giúp Iraq trỗi dậy từ sự hỗn loạn đến cùng cực. Bởi vậy những người lính chiến ở đó được chú ý. Và rốt cuộc sự chú ý đó tập trung vào Đội của chúng tôi.

Tôi hy vọng tôi nói rõ được ở đây là tôi không cảm thấy các SEAL nên được tách ra trước công chúng thành một lực lượng riêng biệt. Chúng tôi không cần thiên hạ biết đến chúng tôi.

Chúng tôi là những chiến binh thầm lặng, tất cả chúng tôi. Càng thầm lặng bao nhiêu thì chúng tôi càng có thể làm công việc của mình tốt hơn bấy nhiêu.

Thật không may, đó không phải là thế giới mà chúng ta đang sống. Nếu là một thế giới như vậy thì tôi đã không thấy cần phải viết cuốn sách này.

Tôi muốn nói một cách công khai rằng tôi tin danh tiếng ở Ramadi và ở tất cả mọi nơi trên Iraq phải thuộc về các chiến binh của Lục quân và Lính thủy đánh bộ, những người đã chiến đấu ở đó dũng cảm như các SEAL. Điều đó cần phải được đánh giá công bằng. Vâng, các SEAL đã làm tốt công việc của mình và đã đổ máu. Nhưng như chúng tôi đã kể, các sĩ quan Lục quân và sĩ quan Lính thủy đánh bộ, cùng những người lính trơn, mà chúng tôi đã cùng chiến đấu, chúng tôi không hơn họ cả về lòng dũng cảm và giá trị nhiệm vụ.

Nhưng sống trong thế giới hiện đại, người ta quan tâm đến việc hiểu về các SEAL. Sau khi chúng tôi trở về, ban chỉ huy đã triệu tập chúng tôi lại tóm tắt tình hình để chúng tôi có thể kể cho một tác giả nổi tiếng và là một cựu SEAL về những gì xảy ra trên chiến trường. Tác giả đó là Dick Couch.

Điều buồn cười là ông ta bắt đầu không phải lắng nghe mà là nói.

Thậm chí không chỉ nói, Ngài Couch đến và giáo huấn cho chúng tôi về việc chúng tôi đã mù quáng thế nào.

Tôi rất kính trọng Ngài Couch về thời gian phục vụ quân đội của ông trong Chiến tranh Việt Nam, ông đã phục vụ trong đội biệt kích phá hủy mục tiêu dưới nước (Underwater Demolition Teams - UDT) và trong SEAL của Hải quân. Tôi rất ngưỡng mộ và tôn trọng ông về điều đó. Nhưng có vài điều ông nói ngày hôm đó không thỏa đáng với tôi cho lắm.

Ông đứng dậy trước phòng và bắt đầu nói với chúng tôi rằng tất cả những việc chúng tôi đang làm đều sai lầm. Ông nói chúng tôi nên giành được trái tim và tâm hồn bọn phiến quân thay vì bắn giết chúng.

“Các SEAL cần giống lính hoạt động trong lực lượng đặc nhiệm hơn,” ông ta tuyên bố, liên hệ tới (tôi đoán là) một trong những sứ mệnh truyền thống của lực lượng đặc nhiệm trong việc huấn luyện dân bản địa.

Lần trước tôi đã kiểm tra, họ nghĩ rằng bắn kẻ đang định bắn vào mình thì không sao cả, nhưng có thể điều đó nằm ngoài vấn đề này.

Tôi ngồi đó mà điên tiết. Cả đội tôi cũng vậy, mặc dù tất cả đều câm như hến. Cuối cùng ông ta đề nghị đưa ra nhận xét.

Tôi giơ tay liền.

Tôi đưa ra vài phát biểu mếch lòng về những gì tôi nghĩ chúng ta có thể làm cho tổ quốc, rồi tôi trở nên nghiêm túc.

“Họ chỉ bắt đầu tiến đến bàn đàm phán về hòa bình sau khi chúng ta đã giết đủ số lượng các tên man rợ ở ngoài kia,” tôi nói với ông ta. “Mấu chốt vấn đề là ở chỗ đó.”

Có thể tôi đã dùng vài lối diễn đạt nhiều màu sắc khi thảo luận về những gì thực sự đang diễn ra ở ngoài kia. Chúng tôi đã tranh luận qua lại trước khi vị chỉ huy của tôi ra hiệu tôi phải rời khỏi phòng. Tôi vui vẻ tuân lệnh.

Sau đấy, sĩ quan chỉ huy và chỉ huy trưởng tức điên lên với tôi. Nhưng họ không thể tức được lâu bởi họ biết là tôi đúng.

Sau này Ngài Couch muốn phỏng vấn tôi. Tôi tỏ ra lưỡng lự. Ban chỉ huy muốn tôi trả lời những câu hỏi của ông ta. Thậm chí sếp tôi còn bắt tôi ngồi xuống và nói chuyện với tôi.

Vậy là tôi trả lời phỏng vấn. Đúng, chả sao cả. Chỉ là cuộc phỏng vấn thôi mà.

Nói một cách công bằng, từ những gì tôi nghe được, cuốn sách của ông ta không đến nỗi tiêu cực như tôi đã hiểu về bài thuyết trình của ông. Có thể vài đồng đội SEAL của tôi đã làm gì đó có ảnh hưởng đối với ông ta.

Bạn có biết Ramadi được giải phóng thế nào không?

Chúng tôi tiến quân vào và giết hết những kẻ xấu mà chúng tôi có thể tìm được.

Khi chúng tôi bắt đầu, những người Iraq tử tế (hoặc có tiềm năng tử tế) không sợ người Mỹ; họ sợ bọn khủng bố. Nước Mỹ đã nói với họ, “Chúng tôi sẽ giúp các bạn có một đất nước tốt đẹp hơn.”

Bọn khủng bố thì nói rằng, “Bọn tao sẽ chặt đầu chúng mày.”

Bạn sẽ sợ ai? Bạn sẽ nghe ai?

Khi chúng tôi tiến vào Ramadi, chúng tôi nói với bọn khủng bố, “Bọn tao sẽ chặt hết đầu chúng mày. Bọn tao sẽ làm bất cứ điều gì cần phải làm để tiêu diệt chúng mày.”

Chúng tôi không chỉ thu hút sự chú ý của bọn khủng bố mà chúng tôi thu hút sự chú ý của tất cả mọi người. Chúng tôi thể hiện rằng chúng tôi là lực lượng đáng gờm.

Đó là nơi mà phong trào được gọi là Đại Thức Tỉnh[*] xuất hiện. Nó không xuất phát từ sự nâng niu khen ngợi người Iraq. Nó xuất phát từ đòn roi.

Chu thich: Nguyên văn tiếng Anh là “Great Awakening”, vốn được dùng để chỉ các cuộc phục hưng tôn giáo hoặc để miêu tả các chuyển biến về tư tưởng.

Các thủ lĩnh bộ lạc biết rằng chúng tôi là những người quá chuyên nghiệp, và tốt hơn là họ nên cùng nhau hành động, cùng nhau chiến đấu và ngừng việc giúp đỡ phiến quân. Đó là sức mạnh khuấy động chiến trường. Chúng tôi đã giết chết những kẻ xấu và đưa các thủ lĩnh đến bàn đàm phán hòa bình.

Đó là cách thế giới vận hành.

PHẪU THUẬT ĐẦU GỐI

Lần đầu tiên tôi bị đau đầu gối là ở Fallujah khi bị bức tường đổ vào người. Thuốc cortisone chỉ giúp được chốc lát, rồi đau trở lại và trở nên tệ hơn. Các bác sĩ nói tôi cần phải đi phẫu thuật chân, nhưng làm vậy có nghĩa là tôi sẽ phải nghỉ và bỏ lỡ cuộc chiến tranh.

Vì vậy tôi cứ tiếp tục trì hoãn. Tôi đặt lịch thường xuyên đến gặp bác sĩ, tiêm thuốc rồi trở lại làm việc. Thời gian giữa các đợt tiêm thuốc ngày càng dày hơn. Từ hai tháng một lần, rồi mỗi tháng một lần.

Tôi cứ làm như vậy suốt thời gian ở Ramadi, nhưng biết đấy chỉ là tạm bợ. Đầu gối tôi bắt đầu cứng đơ lại, rất khó đi xuống cầu thang. Tôi không còn lựa chọn nào khác, vì vậy ngay sau khi về nước năm 2007, tôi đi phẫu thuật.

Bác sĩ phẫu thuật cắt dây chằng để giảm bớt áp lực, do đó xương bánh chè của tôi trượt được qua lại. Họ phải cạo bớt phần xương bánh chè, bởi vì những rãnh trong xương bánh chè đã bị bào mòn. Rồi họ tiêm chất liệu sụn nhân tạo vào và cạo phần sụn chèn đi. Trong quá trình đó họ cũng chữa trị dây chằng hình chữ thập trước (ACL) cho tôi.

Tôi giống như một chiếc xe đua đang được đại tu.

Khi hoàn thành cuộc phẫu thuật, họ chuyển tôi đến ông Jason, một bác sĩ trị liệu đặc trách làm việc với các SEAL. Ông từng là một huấn luyện viên của câu lạc bộ bóng chày Pittsburgh Pirates. Sau sự kiện ngày 11 tháng Chín, ông quyết định cống hiến cho tổ quốc. Ông đã chọn cách thực hiện điều đó bằng việc hợp tác với quân đội. Ông sẵn sàng giảm mạnh lương để tham gia giúp đỡ chúng tôi hồi phục.

Tôi không biết gì về ông trong ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Tất cả những gì tôi muốn nghe ngày hôm đó là bao lâu nữa thì chấn thương của tôi sẽ hồi phục.

Ông nhìn tôi trầm ngâm.

“Phẫu thuật kiểu này thì những người dân thường cần một năm để hồi phục,” cuối cùng ông nói. “Cầu thủ bóng chày cần khoảng tám tháng. Còn các SEAL thì thật khó nói. Anh ghét bị loại khỏi cuộc chiến và sẽ tự hành hạ bản thân để sớm đưọc trở lại.”

Sau rốt ông dự đoán là sáu tháng. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ hồi phục nó trong năm tháng. Nhưng tôi cũng nghĩ mình sẽ chết rấp trong quãng thời gian đó.

Jason đặt tôi vào một chiếc máy giúp kéo căng đầu gối. Hằng ngày tôi phải theo dõi xem mình có thể duỗi xa được đến mức nào. Mồ hôi tôi vã như tắm khi chiếc máy gập đầu gối tôi lại. Cuối cùng tôi cũng đã gập được đến 90 độ.

“Được đấy,” ông nói với tôi. “Giờ thì gập hơn nữa đi.”

“Nữa ư?”

“Nữa!”

Ông cũng có một chiếc máy làm sốc các cơ bắp của tôi bằng các điện cực. Tùy múi cơ, tôi sẽ phải kéo căng và duỗi các ngón chân lên lên xuống xuống. Nghe thì có vẻ không có gì ghê gớm, nhưng nó đúng là một kiểu tra tấn phải được Hiệp ước Geneva cấm sử dụng, kể cả đối với các SEAL.

Từ từ, Jason tiếp tục tăng dần điện áp lên.

Nhưng điều tồi tệ nhất trong tất cả những thứ đó lại là điều đơn giản nhất: tập thể dục. Tôi phải tập nhiều hơn, nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Tôi nhớ đã gọi điện cho Taya nhiều lần và nói với cô ấy rằng tôi chắc là tôi sẽ nôn mửa ra hết nếu không chết trước khi hết ngày. Cô ấy có vẻ cảm thông, nhưng sau này khi chợt nghĩ lại, hình như cô ấy và Jason có thỏa thuận với nhau về việc này thì phải.

Có một bài tập dãn cơ mà Jason bắt tôi phải tập như điên như dại là co bụng và những cơ khác ở khu cán[*].

Chu thich: Nguyên văn là “core muscles”, các cơ thuộc khu cán tức vùng thân mình không kể đầu và tứ chi. Đây là vùng cơ nằm sâu bên trong cơ thể, chức năng chính của những cơ này là giữ cho cơ thề thẳng đứng và thăng bằng.

“Ông có hiểu là đầu gối tôi đã qua phẫu thuật không?” Tôi đã hỏi ông vào một ngày tôi nghĩ đã đạt đến mức giới hạn rồi.

Ông chỉ cười. Ông có cách giải thích khoa học về mọi thứ trong cơ thể phụ thuộc vào các cơ thuộc khu cán như thế nào, nhưng tôi nghĩ ông chỉ muốn dần tôi ra bã trong phòng tập mà thôi. Tôi thề là tôi nghe thấy tiếng roi da quất đen đét trong đầu mỗi khi tôi bắt đầu chểnh mảng.

Tôi luôn nghĩ rằng hình thể đẹp nhất mà tôi từng có là hồi còn đang huấn luyện trong Chương trình BUD/S. Nhưng tôi còn có hình thể đẹp hơn nhiều sau năm tháng luyện tập cùng Jason. Không chỉ đầu gối tôi bình ổn, mà toàn thân tôi cũng ở trạng thái đỉnh nhất. Khi trở lại trung đội, tất cả đều hỏi xem có phải tôi đã tiêm steroid không.

THỜI GIAN KHÓ KHĂN

Tôi đã lạm dụng cơ thể hết mức có thể trước khi thực hiện các cuộc phẫu thuật. Giờ đây, điều xấu đi thậm chí còn quan trọng hơn cả đầu gối là tình trạng hôn nhân của tôi.

Đây là điều khó khăn nhất trong cả mớ những khó khăn của tôi. Rất nhiều giận hờn tăng lên giữa hai chúng tôi. Thật oái oăm, chúng tôi chẳng cãi vã nhiều, nhưng quan hệ thì luôn căng thẳng. Mỗi chúng tôi đều nỗ lực đủ để có thể nói rằng mình đang cố gắng và bóng gió rằng người kia thì không như vậy.

Sau nhiều năm sống trong khu vực có chiến tranh và xa cách vợ, tôi nghĩ theo cách nào đó tôi đã quên ý nghĩa của tình yêu là gì, đó là trách nhiệm song hành với nó, như chân thành lắng nghe và chia sẻ. Sự quên lãng đó khiến tôi dễ dàng đẩy cô ấy ra xa. Cùng lúc thì một bạn gái cũ lại tình cờ liên hệ với tôi. Đầu tiên cô ta gọi đến điện thoại ở nhà, Taya đã chuyển lời nhắn của cô ta cho tôi, vì cho rằng tôi không phải là loại người khiến Taya phải lo ngại về sự lăng nhăng.

Lúc đầu tôi cười cợt về tin nhắn này, nhưng sự tò mò choán lấy. Không lâu sau cô bạn gái cũ và tôi thường xuyên trò chuyện và nhắn tin cho nhau.

Taya đã đoán được có gì đó xảy ra. Một đêm tôi trở về nhà, Taya bảo tôi ngồi xuống, và nêu ra từng vấn đề một, rất bình tĩnh, rất có lý, hoặc ít nhất cũng có lý khi ở trong tình huống đó.

“Chúng ta phải tin tưởng lẫn nhau,” cô ấy nói. “Và theo hướng mà chúng ta cùng tiếp tục, nhưng cách này sẽ không hiệu quả. Không hề hiệu quả.”

Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện dài và thành thực về việc đó. Tôi nghĩ cả hai chúng tôi đều khóc. Tôi biết là mình đã khóc. Tôi rất yêu vợ. Tôi không hề muốn phải xa cách cô ấy. Tôi cũng không hề có ý định ly hôn.

Tôi biết, chuyện này nghe có vẻ sến sẩm chảy nước. Một SEAL thực thụ đang nói về mấy chuyện ái tình ư?

Tôi thà bị siết cổ trăm lần còn hơn nói chuyện đó công khai, chưa kể là giờ đây cho cả thế giới biết.

Nhưng đó là sự thật. Nếu muốn là người trung thực, tôi phải nói ra hết chuyện này.

Chúng tôi đã đề ra một vài nguyên tắc mà cả hai sẽ cùng tuân thủ. Và chúng tôi cùng đồng ý đi gặp chuyên gia tư vấn.

TAYA:

Mọi việc đã đi đến điểm mà tôi có cảm giác như thể tôi đang nhìn xuống đáy vực sâu. Không chỉ là chuyện cãi cọ về bọn trẻ.

Chúng tôi đã không liên hệ gì với nhau. Tôi có thể nói rằng tâm trí của anh đã bay ra khỏi cuộc hôn nhân của chúng tôi, và khỏi chính cả chúng tôi nữa.

Tôi nhớ đã tâm sự với một cô bạn từng trải qua sóng gió. Tôi cảm thấy khuây khỏa.

Cô ấy nói với tôi, “Đây là điều cậu cần phải làm. Cậu phải nói rõ ràng mọi chuyện. Cậu phải nói với anh ấy là cậu vẫn còn yêu anh ấy và muốn anh ấy ở lại. Nhưng nếu anh ấy muốn rời xa cậu, thì cứ để cho anh ấy đi vậy.”

Tôi đã nghe lời khuyên của cô ấy. Đó là một cuộc đối thoại cực kỳ khó khăn.

Nhưng tôi biết rõ nhiều điều trong trái tim mình. Trước hết, tôi biết tôi yêu Chris. Thứ hai là, điều này rất quan trọng đối với tôi, tôi biết anh là một người cha tốt. Tôi đã chứng kiến anh ấy bên con trai và con gái của chúng tôi. Anh ý thức mạnh mẽ về tính kỷ luật và sự tôn trọng mạnh mẽ, đồng thời cũng hay vui đùa với bọn trẻ đến mức sau khi nô đùa với nhau, tất cả đều cười đến đau cả bụng. Hai điều này thực sự đã thuyết phục tôi rằng tôi phải cố gắng giữ lại cuộc hôn nhân này.

Về phía tôi, tôi cũng không phải là một người vợ hoàn hảo. Vâng, tôi yêu anh ấy, thực lòng, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng là một con mắm rất khó chịu. Tôi đã đẩy anh ra xa.

Vì vậy, cả hai chúng tôi đều cần cuộc hôn nhân này và cả hai chúng tôi phải cùng nhau khiến nó tiếp diễn.

Tôi rất muốn kể rằng kể từ lúc đó mọi việc tốt lên ngay lập tức. Nhưng cuộc sống thực tế không như vậy. Chúng tôi còn nói chuyện với nhau nhiều nữa. Tôi bắt đầu tập trung hơn vào hôn nhân, tập trung hơn vào những trách nhiệm của tôi đối với gia đình.

Một vấn đề mà chúng tôi đã không giải quyết dứt điểm được, nó liên quan đến việc phải thực hiện nghĩa vụ ra trận của tôi và làm thế nào để có thể khớp nó với kế hoạch lâu dài của gia đình. Đợt tái tòng quân trước đó kéo dài gần hai năm; trước đó chứng tôi cũng đã thảo luận về vấn đề này.

Taya đã nói rõ rằng gia đình chúng tôi cần có một người cha. Con trai tôi đang lớn lên từng ngày. Con trai thật sự cần một người đàn ông mạnh mẽ trong cuộc sống của mình; tôi không thể phản đối điều này.

Nhưng tôi cũng cảm thấy mình có nghĩa vụ đối với đất nước. Tôi đã được huấn luyện để chiến đấu, tôi rất giỏi việc đó. Tôi cảm thấy tôi phải bảo vệ các đồng đội SEAL và đồng bào Mỹ của tôi.

Và tôi thích làm công việc đó. Rất thích.

Nhưng...

Tôi suy đi nghĩ lại. Đó là một quyết định rất khó khăn.

Cực kỳ khó khăn nữa là khác.

Cuối cùng, tôi quyết định rằng cô ấy đúng: người khác có thể thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đất nước tôi, nhưng không ai thực sự có thể thay thế tôi đối với gia đình mình cả. Tôi đã cống hiến đủ cho tổ quốc.

Tôi đã nói với cô ấy tôi sẽ không tái tòng quân nữa.

Thi thoảng, tôi vẫn tự hỏi không biết quyết định của tôi có đúng hay không. Trong tâm trí tôi, chừng nào tôi còn khỏe mạnh và vẫn còn chiến tranh, và tổ quốc cần tôi. Tại sao tôi lại để người khác thế chỗ của mình? Một phần tôi cảm thấy mình đang hành động như một kẻ hèn nhát.

Phục vụ trong Đội SEAL là phụng sự cho một sứ mệnh lớn lao hơn. Là một dân thường tôi sẽ chỉ phụng sự cho bản thân mình mà thôi. Là một SEAL không chỉ là những gì tôi đã làm, mà SEAL trở thành ý nghĩa của việc tôi là ai.

RA TRẬN LẦN THỨ TƯ

Nếu mọi việc cứ diễn biến theo các trình tự “thông thường”, có lẽ tôi đã được một kỳ nghỉ dài và một thời gian hoạt động lâu trên đất liền sau đợt dàn quân lần thứ hai. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau, việc đó đã không diễn ra.

Đội của tôi đã hứa rằng tôi sẽ được nghỉ sau đợt dàn quân này. Nhưng việc đó đã không thành. Tôi không mấy hài lòng về việc đó. Thực sự tôi đã mất bình tĩnh, sự thực là như vậy. Tôi cho là mình mất bình tĩnh không chỉ một lần.

Giờ đây tôi thích chiến tranh, tôi thích làm công việc của mình, nhưng điều làm tôi dày vò khổ sở là Hải quân đã không giữ lời. Với tất cả những căng thẳng ở nhà, một nhiệm vụ cho phép tôi được ở gần gia đình vào thời điểm đó sẽ được tôi đón nhận. Nhưng tôi được bảo rằng yêu cầu của Hải quân phải được ưu tiên trên hết. Dù công bằng hay không thì nó là như thế.

Huyết áp của tôi vẫn tăng cao.

Các bác sĩ đổ lỗi cho cà phê và thuốc lá nhai. Theo họ, huyết áp của tôi cao như thể tôi đã uống mười cốc cà phê trước khi đo huyết áp. Tôi có uống cà phê nhưng không nhiều như vậy. Họ thuyết phục tôi giảm lượng cà phê và không dùng thuốc lá nhai nữa.

Tất nhiên, tôi không tranh cãi gì với họ. Tôi không muốn bị đá ra khỏi đội SEAL, hoặc phải theo một con đường mà từ đó có thể dẫn đến việc giải ngũ vì lý do sức khỏe. Tôi cho rằng khi nhìn lại, có người có thể thắc mắc tại sao tôi không làm điều đó, nhưng làm như vậy thì thật là hèn nhát. Hành động như vậy không bao giờ là đúng đắn cả.

Cuối cùng tôi cũng được điều động tham gia một đợt dàn quân nữa. Tôi vẫn thích chiến tranh.

TRUNG ĐỘI DELTA

Thông thường, trong khi bạn trở về nhà, một số người sẽ luân phiên thay thế nhau ở trung đội. Các sĩ quan phụ trách cũng thường thay đổi. Nhiều lúc sếp trung đội nghỉ thì viên hạ sĩ nhất (Lead Petty Officer - LPO) sẽ làm sếp, còn người khác sẽ thế chân LPO. Ngoài ra, bạn ở đâu vẫn ở nguyên đấy. Trong trường họp của chúng tôi, hầu hết cả trung đội đã gắn bó với nhau suốt nhiều năm qua.

Đến tận bây giờ.

Để cố gắng phổ biến rộng rãi kinh nghiệm của Đội, ban chỉ huy quyết định chia Trung đội Charlie/Cadillac ra và phân chúng tôi khắp mọi nơi. Tôi được phân về Trung đội Delta và chỉ định làm LPO của trung đội. Tôi làm việc trực tiếp với sếp mới, tình cờ ông là một trong những người huấn luyện tối trong Chương trình BUD/S.

Chúng tôi tiến hành việc chọn lựa nhân sự, giao nhiệm vụ và lần lượt cử từng người đi học. Bây giờ tôi là một LPO, nên không chỉ có nhiều việc hành chính lặt vặt hơn để giải quyết mà còn không thể làm lính tiên phong nữa.

Thật là đau đớn.

Tôi đặt ra giới hạn cuối cùng khi họ nói chuyện về việc thu lại khẩu súng bắn tỉa của tôi. Tôi vẫn là một lính bắn tỉa, dù tôi có đảm trách việc gì ở trung đội đi nữa.

Ngoài việc tìm kiếm các lính tiên phong giỏi, một trong những quyết định nhân sự khó khăn nhất là phải chọn ra một lính xung kích. Ngoài những công việc chung, người này còn phải chịu trách nhiệm về các thiết bị nổ: cài đặt, kích nổ (nếu cần thiết) trong các hoạt động chiến đấu trực tiếp. Khi trung đội đã tiến vào trong, người lính xung kích này phải đích thân dẫn dắt mọi việc. Vì vậy, cả đội nằm trọn trong tay người lính này.

Viết đến đây, vẫn còn một số nhiệm cụ quan trọng khác và các khóa học mà tôi chưa đề cập đến, nhưng những chuyện này cũng xứng đáng được quan tâm. Trong số đó là JTAC - người chịu trách nhiệm kiểm soát tấn công phối hợp không lực cuối cùng, tức là người gọi yểm trợ của không lực. Đó là một vị trí phổ biến trong Đội. Trước hết, công việc này khá thú vị: thứ nhất ta phải quan sát mọi thứ nổ tung; thứ hai là thường xuyên bị triệu tập cho các nhiệm vụ đặc biệt, vì vậy vị trí này có rất nhiều việc phải làm.

Nhiệm vụ thông tin và hoa tiêu nằm ở cuối danh mục đối với hầu hết các SEAL. Nhưng đó đều là những nhiệm vụ cần thiết. Khóa học tệ nhất ta có thể cử người đi học là liên quan đến tình báo. Mọi người ghét khóa học này. Họ tham gia SEAL là để phá tung các cánh cửa, chứ không phải để thu thập tin tức tình báo. Nhưng mỗi người đều có vai trò của mình.

Tất nhiên, một số người thích được nhảy ra khỏi máy bay và bơi cùng cá mập.

Bọn rồ.

Việc phân tán các tài năng có thể giúp ích cho đội nói chung, nhưng với tư cách là LPO của trung đội, tôi quan tâm đến việc đưa những người giỏi nhất sang bên trung đội Delta với tôi.

Thượng sĩ phụ trách việc sắp xếp nhân sự đã sắp đặt một sơ đồ tổ chức trên một chiếc bảng nam châm. Một chiều, trong lúc ông đi vắng, tôi đã lẻn vào văn phòng của ông và sắp xếp lại mọi thứ. Ngay lập tức, tất cả những người đang ở trung đội Charlie giờ được chuyển sang trung đội Delta.

Những thay đổi của tôi hơi quá tay, ngay sau khi viên thượng sĩ trở lại tai tôi bắt đầu ù lên bất thường.

“Đừng bao giờ vào văn phòng của tôi khi tôi không có mặt ở đây,” ông nói ngay khi tôi báo cáo. “Đừng đụng vào bảng của tôi. Đừng bao giờ.”

Vậy nên, sự thật là, tôi quay lại với cái máng lợn cũ.

Tôi biết ông đã nhận ra bất cứ thay đổi nào quyết liệt, vì vậy tôi chỉ thay đổi một chút và đưa Dauber về trung đội của tôi. Tôi cần một lính bắn tỉa và lính quân y giỏi. Viên thượng sĩ hình như không nhận ra điều đó, hoặc ít nhất thì đã không đổi lại nó.

Tôi đã chuẩn bị sẵn câu trả lời trong trường họp tôi có bị tóm, “Tôi làm việc đó vì muốn tốt cho lực lượng Hải quân.”

Hoặc ít nhất cho trung đội Delta.

Vẫn trong quá trình phục hồi sau phẫu thuật đầu gối, tôi không thể tham gia trực tiếp nhiều đợt huấn luyện trong vài tháng đầu trung đội tập hợp. Nhưng tôi vẫn theo dõi quân lính, quan sát họ khi có thể. Tôi đi cà nhắc quanh khu vực huấn luyện chiến tranh trên đất liền, đặc biệt quan sát những chàng lính mới. Tôi muốn biết những ai sẽ cùng chiến đấu với tôi.

Thể trạng tôi sắp trở lại bình thường thì tôi lại vướng vào mấy vụ ẩu đả. Vụ đầu tiên xảy ra ở Tennessee mà tôi đã kể ở trên khiến tôi bị bắt giữ, và một vụ khác ở gần Fort Campbell, mà như cậu con trai tôi tả lại: “Có một gã nào đó đã quyết định đập vỡ mặt mình dưới tay của bố.”

“Gã nào đó” cũng đánh gãy tay tôi trong cuộc ẩu đả ấy.

Sếp trưởng của trung đội giận bầm gan tím ruột.

“Cậu đã phải nghỉ vì phẫu thuật đầu gối, chúng tôi đã đưa cậu trở lại thì cậu bị bắt, giờ cậu lại bị gãy tay. Cái lề gì thốn?”

Có thể còn có vài từ hiểm nữa cũng đã được xổ ra. Chúng có lẽ được tiếp tục dùng thêm một lúc nữa.

Nghĩ lại, hình như tôi còn vướng vào mấy vụ ẩu đả trong thời kỳ huấn luyện này. Trong ký ức của tôi, ít nhất những vụ đó không phải lỗi của tôi, trong vụ ẩu đả cuối cùng, tôi đang đi trên đường thì bạn gái của gã ngốc kia tìm cách gây sự với bạn tôi, một SEAL. Việc này rất lố bịch trong đời thực cũng như khi đọc lại nó trên báo.

Nhưng tập họp tất cả lại, đó là một hình mẫu tồi. Nó thậm chí còn là một xu thế gây phiền toái. Thật không may, lúc bấy giờ tôi đã không nhận ra điều đó.

ĐẤM VỠ MẶT

Đây là thông tin thêm về câu chuyện “gã nào đó” và bàn tay bị gãy của tôi.

Vụ lộn xộn xảy ra trong khi chúng tôi đang huấn luyện ở một khu vực của Lục quân. Tôi nhớ rõ khi đấm hắn đến nỗi bàn tay tôi bị gãy, nhưng không đời nào tôi đến bệnh viện của căn cứ cả; nếu tôi đến, họ sẽ nhận ra là (a) tôi đã say rượu và (b) tôi đã đánh nhau, đám quân cảnh (Military Police - MP) sẽ gây phiền toái cho tôi. Không có gì khiến cho đám MP khoái hơn là hạ bệ một SEAL.

Vì vậy tôi chờ cho đến tận hôm sau. Bấy giờ, khi đã tỉnh rượu, tôi báo với bệnh viện và khẳng định rằng tôi đã tự làm gãy bàn tay do nện mạnh vào khẩu súng để làm thoáng khung cửa. (Về mặt lý thuyết thì có thể, nhưng không chắc lắm.)

Trong khi đang được điều trị, tôi gặp một thằng bé bị bó bột cứng hàm trong bệnh viện.

Điều tiếp theo tôi biết, một số quân cảnh xuất hiện và bắt đầu thẩm vấn tôi.

“Chàng trai này nói anh đã làm vỡ quai hàm hắn,” một quân cảnh nói.

“Anh nói cái quái gì vậy?” Tôi trợn tròn mắt nói với cậu ta. “Tôi vừa vào đây nghỉ sau một kỳ huấn luyện. Tôi đã bị gãy mẹ nó tay rồi. Hỏi mấy tay SP (Special Forces - Lực lượng Đặc nhiệm) mà xem; chúng tôi cùng huấn luyện với họ đấy.”

Không phải hoàn toàn trùng hợp, tất cả những tay bảo kê ở quán bar mà chúng tôi đến đều từng phục vụ trong Lực lượng Đặc nhiệm của Lục quân; chắc chắn họ sẽ ủng hộ tôi nếu xảy ra chuyện đó.

Nhưng nó đã không xảy ra.

“Chúng tôi đã nghĩ như vậy,” đám quân cảnh lắc đầu nói. Họ quay trở lại tìm tay lính mới ngu xuẩn đó và la lối hắn vì đã nói dối và làm mất thời gian của họ.

Đáng đời hắn vì đã lao vào cuộc ẩu đả do con bồ của hắn khỏi xướng.

Tôi trở lại miền Tây với một cái xương trật khớp. Tất cả đồng đội chọc ghẹo tôi vì cho là tôi có bộ gien yếu. Nhưng chấn thương đó chẳng có gì tức cười với tôi cả, vì các bác sĩ đã không thể quyết định là họ có nên phẫu thuật hay không. Ngón tay tôi bị thụt sâu vào trong bàn tay một chút, nó không nằm đúng ở vị trí vốn có của nó.

Ở San Diego, một bác sĩ đã xem xét và quyết định là họ có thể chỉnh nó cho đúng bằng cách kéo ngón tay đó ra và đặt nó lại vị trí ban đầu.

Tôi đã bảo vị bác sĩ đó là cứ tiến hành đi.

“Anh có cần thuốc giảm đau không?” ông hỏi.

“Khỏi cần,” tôi đáp. Các bác sĩ đã từng làm điều tương tự như vậy với tôi tại bệnh viện Lục quân miền Đông rồi, và nó cũng chẳng đến nỗi đau lắm.

Có thể các bác sĩ của bệnh viện Hải quân kéo mạnh hơn. Điều tiếp theo tôi biết là tôi nằm thẳng cẳng trên bàn trong phòng cấp cứu. Tôi đã ngất xỉu và vãi tè ra vì đau.

Nhưng ít ra thì tôi cũng thoát khỏi việc phải phẫu thuật.

Và có thể nói công khai rằng kể từ đó, tôi đã đổi phong cách chiến đấu cho thích hợp với bàn tay yếu hơn của tôi.

SẴN SÀNG LÊN ĐƯỜNG

Tôi phải bó chỗ trong mấy tuần, nhưng càng ngày tôi càng tiến triển tốt hơn. Tình hình ngày càng khẩn trương khi chúng tôi đã sẵn sàng ra mặt trận. Chỉ có điều duy nhất được cho biết: chúng tôi được điều động đến một tỉnh miền Tây Iraq. Theo những gì chúng tôi nghe được thì chẳng có gì xảy ra ở đó. Chúng tôi tìm cách để được chuyển sang Afghanistan, nhưng ban chỉ huy khư vực đã không chịu nhả chúng tôi ra.

Điều đó không dễ gì chấp nhận với chúng tôi, với tôi thì lại càng không. Nếu trở lại cuộc chiến, tôi muốn được tham gia chiến đấu, chứ không phải ngồi không trên sa mạc với những ngón tay (đã bị gãy) của mình. Là một SEAL, ta không muốn ngồi không; ta muốn tham gia chiến đấu.

Tuy nhiên, thật dễ chịu khi được trở lại với chiến tranh. Tôi đã kiệt sức khi trở về nước, hoàn toàn bị chôn vùi và cạn kiệt cảm xúc. Nhưng bây giờ tôi cảm thấy được nạp đầy và sẵn sàng lên đường.

Tôi sẵn sàng giết nhiều kẻ thù hơn nữa.