← Quay lại trang sách

Chương 13 TỬ VONG-*-BỊ MÙ

Hình như mọi con chó ở thành Sadr đều đang sủa.

Tôi rà soát trong bóng tối bằng ống nhòm nhìn đêm, căng thẳng vì chúng tôi đang mở đường xuống một trong những đường phố tồi tàn nhất ở thành phố Sadr. Chúng tôi cuốc bộ qua một dãy nhà trông có vẻ từng là khu chung cư của một thành phố bình thường. Ở đây trông chúng cũng chỉ khá hơn những khu nhà ổ chuột chút ít. Lúc đó đã quá nửa đêm của ngày đầu tháng Tư năm 2008, khác với tất cả các thông lệ trước đây, lần này theo mệnh lệnh trực tiếp, chúng tôi sẽ đi vào trung tâm địa ngục của phiến quân.

Giống như rất nhiều tòa nhà màu nâu xỉn khác trên phố, căn nhà chúng tôi tiến vào có một lưới kim loại ở trước cửa ra vào. Chúng tôi xếp hàng để phá nó. Ngay sau đó, một người nào đó đã xuất hiện từ phía sau lưới chắn cửa và nói gì đó bằng tiếng Ả Rập.

Người phiên dịch của chúng tôi bước lên bảo hắn mở cửa ra.

Hắn ta nói hắn không có chìa khóa.

Một SEAL khác bảo hắn đi lấy chìa khóa ngay. Người đàn ông biến mất, chạy lên cầu thang đến một chỗ nào đó.

Khốn thật!

“Xông lên!” tôi hét. “Phá mẹ nó cái lưới này đi mà vào.” Chúng tôi lao vào trong và bắt đầu rà soát căn nhà. Hai tầng dưới cùng trống trơn.

Tôi chạy lên cầu thang đến tầng ba, di chuyển về phía ô cửa của một căn phòng nhìn ra đường phố, tôi tựa lưng vào tưởng trong khi các đồng đội xếp hàng đi theo sau. Khi tôi đang chuẩn bị bước vào thì cả căn phòng nổ tung.

Thật kỳ diệu, tôi không bị làm sao cả, mặc dù tôi cá là mình cảm nhận được sức nổ.

“Có thằng chó nào đó vừa ném lựu đạn rồi!” tôi hét lên.

Chẳng có ai. Cả căn phòng đó cũng trống trơn. Một tên nào đó đã bắn một phát đạn chống tăng RPG vào trong nhà.

Ngay sau đó tiếng súng bắt đầu nổ. Chúng tôi tập họp lại. Tên Iraq ở trong nhà rõ ràng đã trốn thoát để cảnh báo cho bọn phiến quân gần nơi chúng tôi tiến vào. Tệ hơn là những bức tường của căn nhà có vẻ rất mỏng manh, không thể trụ vững trước những phát phóng lựu đang nã về phía chúng tôi. Nếu ở lại đây, chúng tôi sẽ bị nướng sạch.

Ra khỏi ngôi nhà! Ngay!

Người lính cuối cùng của tôi vừa thoát khỏi tòa nhà thì đường phố bất ngờ rung chuyển bởi một lực cực mạnh: phiến quân đã kích nổ một quả mìn IED dưới đường phố. Tiếng nổ mạnh đến mức khiến một số người chúng tôi loạng choạng. Tai ù lên, chúng tôi chạy sang một căn nhà khác gần đó. Nhưng khi chúng tôi đang tập trung để tiến vào thì mọi việc lại vượt khỏi tầm kiểm soát. Chúng tôi bị bắn từ mọi phía, kể cả phía trên đầu.

Một phát đạn bay thẳng vào mũ bảo hộ của tôi. Đêm chuyển sang màu đen. Tôi đã bị mù.

Đó là đêm đầu tiên của tôi ở thành Sadr, và như thể sẽ sớm trở thành đêm cuối cùng của tôi trên trái đất này.

VỀ MIỀN TÂY

Cho đến lúc đó, tôi đã trải qua đợt dàn quân lần thứ tư yên ổn, thậm chí là buồn tẻ ở Iraq.

Trung đội Delta đã đến nơi từ gần một tháng trước, hành quân đến al-Qa’im ở miền Tây Iraq, gần biên giới Syria. Nhiệm vụ của chúng tôi lẽ ra liên quan đến các cuộc tuần tra tầm xa trên sa mạc, nhưng rồi chúng tôi lại dành thời gian xây dụng một doanh trại cùng với sự giúp đỡ của vài lính Seabee[*]. Không những chẳng có hoạt động gì đáng kể, mà Lính thủy đánh bộ sở hữu căn cứ còn chuẩn bị đóng cửa căn cứ đó, nghĩa là chúng tôi phải rời đi ngay sau khi xây dựng xong. Tôi không hiểu logic của việc này là thứ gì nữa.

Chu thich: Những người lính công binh thuộc các tiểu đoàn công binh trong lực lượng Hải quân Hoa Kỳ.

Tinh thần bị kéo xuống mức thấp nhất khi vào một buổi sáng sớm sếp tôi mạo hiểm mạng sống của mình, nói như vậy nghĩa là ông ấy đã vào phòng tôi và lay tôi dậy.

“Cái quái gì thế?” tôi la lên, bật dậy.

“Bình tĩnh nào,” sếp tôi nói. “Cậu cần mặc quần áo vào rồi đi với tôi.”

“Tôi còn phải ngủ.”

“Cậu sẽ muốn đi với tôi đấy. Họ đang thành lập một đơn vị đặc nhiệm ở Baghdad.”

Một đơn vị đặc nhiệm ư? Được rồi!

Có gì đó giống như trong phim Groundhog Day[*], nhưng với nghĩa tích cực. Lần trước điều này đã xảy ra đối với tôi, tôi đang ở Baghdad để tiến về phía Tây. Bây giờ tôi đang ở phía Tây, và chuyển về phía Đông.

Chu thich: Bộ phim hài ra mắt vào năm 1993 của đạo diễn Harold Ramis, dựa trên ngày lễ truyền thống của người dân Mỹ vào ngày 2 tháng Hai hằng năm; đó chính là ngày chuột chũi (groundhog) bắt đầu ra khỏi hang, báo hiệu mùa xuân đến.

Chính xác tại sao lại như vậy, tôi không biết nữa.

Theo sếp thì tôi được chọn vào đon vị này một phần vì tôi đủ tiêu chuẩn để trở thành một trung đội trưởng có cấp bậc tương đương thượng sĩ nhất (Lead Petty Officer - LPO), nhưng chủ yếu vì tôi là một lính bắn tỉa. Họ đang điều động lính bắn tỉa từ khắp mọi nơi trên cả nước cho chiến dịch, mặc dù sếp tôi không biết chi tiết hoạch định là gì. Thậm chí ông còn không biết tôi sẽ được điều động về khu vực nông thôn hay thành thị nữa.

Nhọ rồi, tôi nghĩ, chúng tôi sẽ tới Iran.

Có một bí mật để ngỏ là Iran đang vũ trang và huấn luyện bọn phiến quân, và trong một số trường họp còn tấn công vào lực lượng quân đội phương Tây. Có nhiều tin đồn rằng một lực lượng đang được thành lập để ngăn chặn nhũng kẻ đột nhập qua biên giới.

Tôi được điều động đến al-Asad, một căn cứ không quân lớn ở tỉnh al-Anbar, nơi ban chỉ huy cấp cao của chứng tôi đang đóng quân. Ở đó tôi mới phát hiện ra chúng tôi sẽ không đến vùng biên giới, mà đến một nơi tồi tệ hơn nhiều: thành phố Sadr.

Nằm ở ngoại ô của Baghdad, thành Sadr còn trở nên giống một hang rắn hơn nữa so với hồi tôi hợp tác với lực lượng GROM vài năm trước. Có khoảng hai hiệu người Shiite sống ở đó. Giáo sĩ Muqtada al-Sadr có tư tưởng chống Mỹ điên cuồng, (thành phố được đặt theo tên của cha hắn), hắn vẫn đang bình tĩnh gây dựng lực lượng dân quân, quân đội Mahdi (tiếng Ả Rập gọi là Jaish al-Mahdi). Có những nhóm phiến quân khác nữa đang hoạt động trong khu vực, nhưng quân đội Mahdi được cho là đông nhất và mạnh nhất.

Với sự giúp đỡ ngầm từ Iran, phiến quân đã thu thập vũ khí và bắt đầu phóng súng cối và rốc két vào Khu vực Xanh của Baghdad. Cả khu vực là một ổ rắn hổ lục[*]. Giống như Fallujah và Ramadi, có nhiều nhóm và mức độ thiện chiến của các nhóm phiến quân cũng khác nhau. Dân ở đây chủ yếu là người Shiite, trong khi ở những chiến trường trước đây của tôi ở Iraq chủ yếu là người Sunni. Nhưng mặt khác, nó cũng là một đáy địa ngục hệt như vậy.

Chu thich: Nguyên văn tiếng Anh là “vipers nest”, viper ở đây vừa mang nghĩa là loài rắn hổ lục vừa chỉ người ác hiểm.

Tất cả những điều này đối với tôi chẳng vấn đề.

Họ triệu tập tất cả các ính bắn tỉa, các sĩ quan Jtac tức người kiểm soát tấn công cuối cùng, cùng với một số sĩ quan và chỉ huy từ Đội 3 và Đội 8 để thành lập một đơn vị đặc nhiệm. Tất cả chúng tôi có khoảng ba mươi người. Theo một cách nào đó, đây là một đội hình toàn các ngôi sao với những người giỏi nhất trong số những người giỏi nhất của đất nước. Và là đội có nhiều lính bắn tỉa khủng, bởi ý tưởng của chiến dịch là thực hiện một số chiến thuật mà chúng ta đã áp dụng ở Fallujah, Ramadi và một số nơi khác.

Có rất nhiều tài năng, nhưng vì chúng tôi đến từ nhiều đơn vị khác nhau, nên chúng tôi cần thời gian để làm quen với nhau. Sự khác biệt nhỏ về cách thức chuẩn mà các đội ở vùng Bờ Đông và Bờ Tây vận hành có thể gây ra vấn đề lớn trong chiến đấu. Chúng tôi cũng phải đưa ra nhiều quyết định về nhân sự, chọn lựa những người lính tiên phong và các vị trí đại loại như vậy.

Phía Lục quân đã quyết định sẽ thành lập một vùng đệm để đẩy bọn phiến quân ra đủ xa cho rốc két của bọn chúng không bắn đến được Khu vực Xanh. Một trong những mấu chốt của vấn đề này là dựng lên một bức tường ở thành phố Sadr, về cơ bản là một hàng rào lớn bằng xi măng được gọi là “tường chữ T” chạy xuống một đường phố chính, khoảng một phần tư đoạn đường dẫn thẳng đến khu ổ chuột. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ những người đang xây dựng bức tường đó, và hạ gục kẻ thù càng nhiều càng tốt trong suốt quá trình đó.

Những người lính xây bức tường này đang thực hiện một công việc nguy hiểm đến mất trí. Một chiếc cần cẩu nâng một trong những tấm bê tông khỏi sàn xe tải không mui và đặt nó vào vị trí. Khi đã định vị xong, một binh nhì sẽ phải trèo lên và tháo móc ra.

Thường là dưới làn đạn. Và đó không phải là những phát đạn thông thường, phiến quân sẽ sử dụng bất cứ loại vũ khí nào chúng có trong tay, từ súng AK cho đến súng chống tăng RPG. Những người lính thuộc lực lượng Lục quân này đúng là bọn lớn dái.

Một đơn bị thuộc lực lượng đặc nhiệm vẫn đang hoạt động ở thành Sadr. Họ cho chúng tôi những lời khuyên và tin tức tình báo. Chúng tôi mất một tuần để đưa mọi việc vào nề nếp và tìm ra cách để thực hiện nhiệm vụ khó nhằn này. Khi mọi việc đã thu xếp xong, chúng tôi được đưa đến một căn cứ tác chiến tiền phương của lực lượng Lục quân (Forward Operating Base - FOB).

Ở thời điểm đó, người ta nói với chúng tôi rằng chúng tôi sẽ tuần tra bằng cách đi bộ vào thành phố Sadr vào ban đêm.

Một số người trong chúng tôi cho rằng điều này chẳng họp lý chút nào, khu vực này đầy người đang muốn giết chúng tôi, và nếu tuần tra bộ chúng tôi sẽ trở thành những mục tiêu dễ xơi.

Nhưng một số người lại nghĩ sẽ thông minh hơn nếu chúng tôi đi bộ vào đó lúc nửa đêm. Lẻn vào, họ nói với chúng tôi, và sẽ không có vấn đề gì hết.

Chúng tôi đã làm như vậy.

BỊ BẮN VÀO LƯNG

Họ đã nhầm.

Khi tôi ở đó, bị bắn vào đầu và không nhìn thấy gì. Máu chảy xuống mặt tôi. Tôi sờ lên da đầu, ngạc nhiên là không chỉ cái đầu tôi vẫn còn nguyên ở đó mà còn chẳng bị sứt mẻ gì. Nhưng tôi biết là tôi đã bị bắn.

Bằng cách nào đó, tôi nhận ra chiếc mũ bảo hộ của tôi không được cài quai, nên đã bị bật ra sau; tôi kéo nó về phía trước. Đột nhiên tôi lại nhìn thấy được. Một viên đạn đã bắn vào mũ bảo hộ, nhưng với sự may mắn không thể nào tin nổi, nó đã đập trúng vào kính nhìn đêm của tôi, hất chiếc mũ về phía sau nếu không thì tôi đã bị thương rồi. Khi tôi kéo chiếc mũ về phía trước, ống kính trở về trước mắt tôi, và tôi lại có thể nhìn được. Tôi không bị mù chút nào, nhưng trong cơn hỗn loạn đó tôi không biết chuyện gì đang xảy ra.

Chỉ vài giây sau, tôi bị bắn một phát rất mạnh vào lưng. Viên đạn đẩy tôi ngã chúi xuống đất. May mắn thay, viên đạn đó đã trúng vào một trong những miếng kim loại trên bộ áo giáp của tôi.

Nhưng nó đã làm tôi choáng váng. Trong lúc này, chúng tôi đang bị bao vây. Chúng tôi gọi nhau và tổ chức một cuộc rút lui về khu chợ mà chúng tôi vừa đi qua trên đường tiến vào. Chúng tôi bắt đầu xả đạn ra xung quanh và cùng di chuyển.

Lúc bấy giờ những dãy nhà xung quanh chúng tôi trông giống như những cảnh tồi tệ nhất trong phim Black Hawk Down[*]. Dường như mọi tên phiến quân và người dân ở đây đều muốn xé xác những người Mỹ đần độn đã mò mẫm một cách ngu xuẩn vào thành Sadr.

Chu thich: Tên tiếng Việt của bộ phim là Diều hâu gãy cánh, một bộ phim chiến tranh của đạo diễn Ridley Scott.

Chúng tôi không thể vào tòa nhà mà chúng tôi định rút quân về. Đến nước này, chúng tôi phải gọi lực lượng phản ứng nhanh (Quick Response Force - QRF), một cách gọi màu mè về lực lượng kỵ binh. Chúng tôi cần tiếp viện và rút quân, với chữ “CỨU” viết hoa.

Một đội xe đa dụng Stryker của Lục quân xuất hiện. Stryker là loại xe chở lính được trang bị vũ khí hạng nặng, họ tiến vào và xả đạn từ bất kỳ loại vũ khí nào họ có. Có rất nhiều mục tiêu, trên một trăm tên phiến quân dàn hàng trên các nóc nhà bao quanh phố đang tìm cách tiêu diệt chúng tôi. Khi thấy những chiếc xe Stryker, bọn chúng đã thay đổi mục tiêu, tìm cách thổi bay những chiếc xe lớn chở lính của Lục quân. Đến đây thì Lục quân áp đảo. Giống như một video game, những tên phiến quân rơi lả tả từ các nóc nhà.

“Lũ chó chết kia, cảm ơn các ông,” tôi nói to khi những chiếc xe đến gần tòa nhà của chúng tôi. Tôi thề là tôi có thể nghe thấy một tiếng kèn khải hoàn của lực lượng kỵ binh ở đâu đó phía sau.

Họ hạ tấm cửa sau xuống làm thang lên xuống, và chúng tôi chạy vào trong xe.

“Cậu có biết có bao nhiêu tên chó đẻ trên đó không?” một người trong đội xe hỏi khi những chiếc xe chuyển bánh trở về căn cứ.

“Không,” tôi trả lòi. “Tôi bị bắn rát quá.”

“Chúng có mặt ở khắp nơi.” Anh chàng tỏ ra hồ hởi. “Chúng tôi đang hạ gục bọn chúng, thậm chí còn chưa được một nửa số đó đâu. Chúng tôi chỉ vừa mới ngừng bắn thôi. Chúng tôi cứ tưởng các anh đã chết mẹ nó hết rồi chứ.”

Bọn tôi cũng nghĩ y như vậy.

Đêm đó đã làm tôi sợ vãi cứt. Đó là khi tôi bắt đầu nhận ra tôi không phải là một siêu nhân. Tôi có thể chết.

Điều vượt lên trên mọi điều khác, đó là những thời khắc mà tôi nghĩ, mình chết đến nơi rồi.

Nhưng tôi chưa chết. Những ý nghĩ đó lướt qua rồi bốc hơi liền.

Sau đó một lúc, tôi bắt đầu nghĩ, bọn chúng không thể giết tôi. Bọn chúng không thể giết chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ bất khả chiến bại thực sự.

Tôi có một thiên thần hộ mệnh và tôi là một SEAL, tôi gặp may và cho dù là cái quái gì đi nữa thì: tôi không thể chết.

Thế rồi bất thình lình chỉ trong vòng hai phút, tôi bị dính đạn đến hai lần.

Mẹ kiếp, số tôi đã điểm rồi.

XÂY DỰNG BỨC TƯỜNG

Chúng tôi cảm thấy rất vui sướng và biết ơn vì đã được cứu thoát. Chúng tôi cũng cảm thấy giống như một lũ bị lừa.

Tìm cách lẻn vào thành Sadr đã tỏ ra không hiệu quả, ban chỉ huy nên biết điều đó ngay từ đầu mới phải. Kẻ thù luôn biết chúng tôi ở đâu, vì vậy chúng tôi buộc phải tìm ra phương án tốt nhất để đối phó.

Hai ngày sau khi bị đá văng ra khỏi thành phố, chúng tôi trở lại, lần này là trên những chiếc xe Stryker. Chúng tôi đã chiếm được một địa điểm được cho là nhà máy chế biến chuối. Đây là một tòa nhà cao bốn hoặc năm tầng chất đầy các máy ướp lạnh hoa quả và đủ loại thiết bị của nhà máy, hầu hết đã bị bọn cướp đập phá từ lâu trước khi chúng tôi đến đó. Tôi không biết chính xác nó có liên quan gì đến chuối hay không, hoặc những gì người Iraq đã làm ở đây; tất cả những gì mà tôi biết khi đó là: đây là một nơi ẩn nấp tốt cho lính bắn tỉa.

Vì muốn có một chỗ nấp tốt hơn chỗ trên sân thượng, tôi đã đặt chốt ở tầng trên cùng. Khoảng 9 giờ sáng, tôi nhận thấy rằng số lượng dân thường đi lại trên đường phố bắt đầu thưa thớt. Đó luôn là một dấu hiệu - họ đã phát hiện ra điều gì đó và hiểu rằng họ không nên chấm dứt cuộc đời trong làn đạn.

Vài phút sau, đường phố trở nên hoang vắng, một tên Iraq xuất hiện từ phía một tòa nhà đã bị phá hủy một phần. Hắn có một khẩu AK-47. Khi chạy đến phố, hắn rạp người xuống, dò xét về hướng các kỹ sư đang xây dựng bức tường trên đường phố, hình như hắn đang tìm một mục tiêu để bắn. Ngay sau khi tôi biết chắc hắn định làm gì, tôi nhắm trúng vào giữa người và nổ súng.

Hắn ở cách khoảng bốn chục mét. Hắn ngã gục xuống, chết ngay.

Một tiếng sau, một tên khác thò đầu ra từ sau bức tường ở bên kia đường phố. Hắn liếc về phía bức tường chữ T, rồi lùi lại.

Hành động này với ai khác có vẻ như vô hại, và tất nhiên không nằm trong Quy tắc Tham chiến, nhưng tôi hiểu rằng tôi phải theo dõi cẩn thận hơn. Tôi đã chứng kiến bọn phiến quân thực hiện theo cách tương tự như vậy trong nhiều năm. Chúng nhìn trộm, liếc quanh rồi biến mất. Tôi gọi bọn chúng là những tên “liếc trộm” - chúng thường “nhìn trộm” xem có ai đang theo dõi không. Tôi tin rằng chúng biết là chúng không thể bị bắn chỉ vì đang nhìn ngó xung quanh.

Tôi cũng biết điều đó. Nhưng tôi cũng biết rằng nếu tôi kiên trì thì tên đó hoặc bất kỳ tên nào đang bị phát hiện hầu như sẽ xuất hiện trở lại. Chắc như đinh đóng cột luôn, gã đó đã lại xuất hiện sau một lát.

Hắn mang trong tay một khẩu súng chống tăng RPG. Hắn nhanh nhẹn quỳ xuống, nâng khẩu súng lên ngắm bắn.

Tôi hạ gục hắn trước khi hắn có thể nổ súng.

Thế rồi nó trở thành trò chơi chờ đợi. Rốc két chống tăng rất giá trị với bọn chúng. Tôi biết, sớm muộn gì cũng sẽ có người được cử đến để lấy lại khẩu súng chống tăng thôi.

Tôi theo dõi. Dường như nó kéo dài vô tận. Cuối cùng, một người xuất hiện trên phố và vớ lấy khẩu súng phóng lựu chống tăng này.

Đó là một thằng bé. Một đứa trẻ.

Tôi nhìn thấy rất rõ trong ống kính ngắm của tôi, nhưng tôi đã không bắn. Tôi sẽ không bắn một đứa trẻ, dù vô tội hay có tội. Tôi phải chờ cho đến khi chính cái tên man rợ đã đẩy đứa trẻ ra xuất hiện trên đường phố.

QUÁ NHIỀU MỤC TIÊU

Tôi đã hạ được bảy tên phiến quân ngày hôm đó và nhiều hơn vào ngày hôm sau. Chúng tôi ở trong một môi trường có quá nhiều mục tiêu.

Bởi vì cách bố trí đường phố và số lượng phiến quân, nên chúng tôi có tầm bắn rất gần, chỉ khoảng 200 mét. Tầm bắn xa nhất của tôi khi đó cũng chỉ khoảng trên 800 mét; tầm bắn trung bình khoảng gần 400 mét.

Thành phố vây quanh chúng tôi cư xử một cách kỳ quặc. Ta thấy những người dân thường đi lại làm ăn, buôn bán hàng hóa, đi chợ hoặc làm bất kỳ việc gì. Và rồi ta cũng thấy những tên có vũ khí tìm cách lẻn vào phố và tấn công binh lính đang xây bức tường. Sau khi chúng tôi bắt đầu đụng độ với phiến quân, bản thân chúng tôi cũng trở thành mục tiêu. Mọi người đều biết nơi chúng tôi đóng quân, và kẻ thù sẽ chui ra khỏi nơi ẩn nấp tìm cách hạ chúng tôi.

Đó là lúc chạm đến ngưỡng mà tôi bắn được quá nhiều đến mức tôi lùi lại để nhường cho những người khác có cơ hội bắn vài tên. Tôi bắt đầu nhường cho họ vị trí thuận lợi nhất trong căn nhà mà chúng tôi chiếm đóng. Ngay cả như vậy tôi cũng vẫn còn rất nhiều cơ hội để bắn tiếp.

Một hôm, chúng tôi đổ quân vào một căn nhà, sau khi để cho đồng đội của mình lựa chọn vị trí thì hóa ra là không còn cửa sổ nào để tôi bắn ra từ đó. Vì vậy, tôi đã lấy một cây búa tạ đập thủng một lỗ trên tường. Tôi mất một lúc lâu để sắp xếp cho ổn thỏa.

Cuối cùng tôi đặt xong chỗ của mình, tôi có tầm bắn khoảng 300 mét. Ngay khi vừa cầm súng lên tôi liền thấy ba tên phiến quân xuất hiện ở bên kia đường, chỉ cách khoảng 15 mét.

Tôi đã hạ gục tất cả bọn chúng. Tôi lăn mình sang bên và nói với một sĩ quan vừa đến, “Anh có muốn đổi phiên không?”

Sau vào hôm, chúng tôi nhận ra rằng khi các vụ tấn công đang dồn lại một chỗ thì cũng là lúc đội lính công binh tiến đến một điểm nút giao nhau. Điều này rất có ý nghĩa: đám phiến quân muốn tấn công từ một nơi mà bọn chúng có thể dễ dàng chạy thoát thân.

Chúng tôi đã biết cách đối phó và theo dõi các dãy phố bên kia. Rồi chúng tôi nện những tên xuất hiện.

Tình hình ở Fallujah tệ, ở Ramadi còn tệ hơn, nhưng ở thành Sadr là tệ nhất. Những lần canh gác kéo dài hai hoặc ba ngày. Chúng tôi nghỉ một ngày cho hồi sức rồi trở lại. Lần nào cũng là những cuộc đấu súng khốc liệt đến vỡ cả bi.

Bọn phiến quân mang thêm nhiều vũ khí khác ngoài súng AK để chiến đấu. Chúng tôi đều ăn rốc két trong tất cả các trận đánh. Chúng tôi đáp lại bằng việc kêu gọi yểm trợ của lực lượng không quân, tên lửa không đối đất Hellfire hoặc bất cứ vũ khí nào có trong tay.

Mạng lưới trinh sát từ trên không đã được cải thiện rất nhiều trong vài năm qua, và Mỹ có thể tận dụng tốt mạng lưới đó để hướng dẫn máy bay vũ trang không người lái Predator và những vũ khí đắt giá khác. Nhưng trong trường họp của chúng tôi, nhũng tên khốn lồ lộ ngay trước mắt, cực kỳ dễ phát hiện. Và rất nhiều nữa.

Có thời điểm chính phủ Iraq khẳng định rằng chúng tôi đang giết hại dân thường. Điều đó hoàn toàn vớ vẩn. Mỗi khi các chiến trường gần như lắng xuống, các nhà phân tích tình báo của Lục quân đã chặn được các cuộc liên lạc bằng điện thoại di động của phiến quân trong đó chúng đưa ra các số liệu tỉ mỉ.

“Bọn chúng chỉ giết và giết,” một đoạn đối thoại của chúng được nghe thấy như vậy. “Chúng ta cần tăng cường thêm lính bắn súng cối và lính bắn tỉa... Hôm nay bọn chúng đã giết mười lăm người của ta.”

Chúng tôi chỉ đếm được mười ba tên bị bắn chết trên chiến trường hôm đó. Tôi đồ rằng chúng tôi phải chuyển hai tên trong cột “có thể” sang cột “chắc chắn”.

LẤY LẠI SÚNG CỦA TÔI

Như thường lệ, có những thời khắc mà nỗi lo lắng tột độ hòa lẫn với nhũng sự kiện kỳ lạ cùng sự nhẹ nhõm đầy khôi hài mang tính ngẫu nhiên.

Một hôm, vào lúc kết thúc một đợt hành quân, tôi cùng đồng đội vội vã chạy lại chiếc xe Bradley. Ngay khi vừa đến chỗ chiếc xe, tôi nhận ra mình đã để quên khẩu súng bắn tỉa. Tôi đã để nó lại trong một căn phòng rồi quên mang theo khi rồi đi. Đúng thế đấy. Ngu vãi.

Tôi quay trở lại. Viên trung úy, một trong những sĩ quan của tôi, chạy theo sau.

“Này, chúng ta phải quay lại,” tôi nói. “Súng của tôi để trong ngôi nhà.”

“Thế thì đi thôi,” viên trung úy nói và đi theo tôi.

Chúng tôi quay người và phóng vội lại căn nhà. Trong khi đó, đám phiến quân đang tràn về phía căn nhà đó, gần đến mức chúng tôi có thể nghe thấy bọn chúng. Chúng tôi kiểm tra phía ngoài sân, đảm bảo chúng tôi sẽ không đụng độ với bọn chúng.

Rất may không có ai ở đó cả. Tôi chộp lấy khẩu súng và chúng tôi chạy trở lại chiếc xe Bradley, chỉ khoảng hai giây trước khi có một cuộc tấn công bằng lựu đạn. Bậc thang dựng lên và một tiếng nổ rền vang.

“Cái quái gì thế?” viên sĩ quan chỉ huy xe hỏi khi xe chuyển bánh.

Viên trung úy cười bí hiểm.

“Tôi sẽ giải thích sau,” ông đáp.

Tôi không chắc là ông có giải thích hay không.

CHIẾN THẮNG

Mất khoảng một tháng để dựng bức tường chắn lên. Khi Lục quân đã đạt được mục tiêu, đám phiến quân cũng bắt đầu bỏ cuộc.

Chắc hẳn một tổ chức của bọn chúng nhận ra rằng bức tường sẽ được hoàn thành cho dù bọn chúng có thích hay không, và thực tế là chúng tôi đã giết được quá nhiều tên khốn đến mức bọn chúng không thể tổ chức được nhiều cuộc tấn công nữa. Từ lúc có tới ba mươi hoặc bốn mươi tên phiến quân tập họp lại, được trang bị những khẩu súng AK và súng phản lực chống tăng RPG để tấn công một nhóm xây dựng hàng rào từ khi khỏi đầu chiến dịch, cho đến lúc kết thúc mỗi đợt tấn công chỉ tập họp được hai hay ba người. Dần dần, bọn chúng lẩn vào các khu nhà ổ chuột xung quanh chỗ chúng tôi.

Trong khi đó, Muqtada al-Sadr quyết định là đã đến lúc tìm cách và đàm phán một thỏa thuận hòa bình với chính phủ Iraq. Hắn tuyên bố ngừng bắn và bắt đầu thương lượng với chính phủ.

Hãy tưởng tượng điều đó đi.

TAYA:

Người ta luôn nói với tôi rằng tôi thực sự không hiểu Chris hoặc những gì anh ấy đang làm, bởi vì anh ấy là một SEAL. Tôi nhớ có một lần đến gặp nhân viên kế toán, anh ta nói rằng anh ta biết một số SEAL, và những người đó đã nói với anh ta tà không ai thực sự biết họ đi đâu.

“Chồng tôi đang tham gia một khóa huấn luyện,” tôi nói. “Tôi biết anh ấy đang ở đâu.”

“Chị không thể biết điều đó đâu.”

“Ồ, tôi biết chứ. Tôi vừa nói chuyện với anh ấy mà.”

“Nhưng chị không thể biết thực sự anh ấy đang làm việc gì. Vì họ là những SEAL.”

“Tôi...”

“Chị không bao giờ có thể biết được.”

“Tôi biết chồng tôi mà.”

“Chị không thể biết đâu. Họ được huấn luyện để nói dối đấy.” Người ta nói kiểu đó rất nhiều. Điều chọc giận tôi là người nói là người mà tôi không biết rõ. Những người tôi biết rõ đều tôn trọng ý kiến cho rằng tôi có thể không biết tất cả mọi chi tiết, nhưng tôi biết những gì cần biết.

TRONG CÁC NGÔI LÀNG

Tình hình tương đối yên tĩnh ở thành Sadr, chúng tôi được chuyển sang mục tiêu ở khu vực khác. Những kẻ làm mìn tự chế và đám phiến quân khác đã mở cửa hàng ở hàng loạt các ngôi làng gần Baghdad, tìm cách thực hiện các hoạt động cung cấp vũ khí và quân lực để chống lại người Mỹ và các lực lượng Iraq trung thành với chính phủ mà không bị phát hiện. Quân đội Mahdi có mặt ở đó, vậy nên đối với người Mỹ khu vực này là vùng không-được-đến.

Chúng tôi đã từng hợp tác với các thành viên thuộc Sư đoàn Sơn cước số 4-10 (4-10 Mountain pision) trong hầu hết các trận đánh ở thành Sadr. Họ là những chiến binh. Họ muốn được thử thách trong gian nan, nhất định họ sẽ đạt được ước nguyện ở đó. Giờ đây, khi chúng tôi tiến vào các ngôi làng ở bên ngoài thành phố, chúng tôi rất vui lại được hợp tác với họ lần nữa. Họ nắm chắc khu vực này. Lính bắn tỉa của họ đặc biệt giỏi, đồng hành với họ sẽ nâng cao hiệu quả của chúng tôi.

Nhiệm vụ của chúng tôi như nhau, nhưng có một vài khác biệt giữa lính bắn tỉa của Lục quân và lính bắn tỉa SEAL. Ví dụ, theo quy định chung, lính bắn tỉa của Lục quân thường sử dụng một đồng đội chuyên phát hiện mục tiêu, còn chúng tôi thì không. Loại vũ khí họ sử dụng cũng nhỏ hơn một chút so với của chúng tôi.

Nhưng sự khác biệt lớn hơn, ít nhất là lúc đầu, là phải tuân thủ các chiến thuật và cách thức họ dàn quân. Lính bắn tỉa bên Lục quân quen thuộc với việc đi ra thực địa theo nhóm ba hoặc bốn người, nghĩa là họ không thể ở ngoài quá lâu, tất nhiên không thể suốt cả đêm.

Còn đơn vị đặc nhiệm của SEAL thì tiến quân chậm và chắc vào phong tỏa cả khu vực, về cơ bản là tìm một cú ra tay và thường là đợi kẻ thù thò đầu ra nộp mạng. Nó không còn là một nhiệm vụ canh gác nữa mà là một sự thách thức: Chúng tao đây, hãy ra mà chiến với chúng tao đi.

Và bọn chúng đã làm như vậy, hết làng này đến làng khác, phiến quân xuất hiện và tìm cách giết chứng tôi, còn chúng tôi thì hạ gục bọn chúng. Thông thường mỗi lần như vậy, chúng tôi chiến đấu ít nhất là một đêm và thường là vài đêm, xuất quân và rút quân sau khi mặt tròi lặn.

Trong khu vực này, chứng tôi kết thúc bằng việc quay trở lại mỗi ngôi làng vài lần, mỗi lần thường ở một căn nhà khác nhau. Chúng tôi lặp lại quá trình này cho đến khi tất cả đám người xấu ở địa bàn bị giết chết hoặc ít nhất cũng cho đến khi bọn chúng hiểu rằng tấn công chúng tôi là hành động không được khôn ngoan cho lắm.

Điều ngạc nhiên là bạn phải giết bao nhiêu thằng ngu trước khi rốt cuộc bọn chúng mới hiểu ra điều đó.

DÍNH ĐẦY PHÂN

Cũng có những thời điểm ít căng thẳng hơn, nhưng lại có vài vụ dính đầy cứt, đúng theo nghĩa đen của từ này.

Người lính tiên phong của chúng tôi, Tommy, một anh chàng vĩ đại, nhưng tay này hóa ra có một điểm thật khủng khiếp xét trên nhiều phương diện.

Hoặc có lẽ tôi phải nói rõ ra là nhiều khi hắn giống một con vịt hơn là một tay lính tiên phong. Nếu có một vũng bùn giữa chúng tôi và mục tiêu, Tommy sẽ dẫn chúng tôi lội qua đó. Càng sâu càng tốt. Hắn luôn đưa chúng tôi đi qua những địa hình tồi tệ nhất.

Điều này lố bịch đến mức cuối cùng tôi phải nói với hắn, “Thêm một lần nữa, tôi sẽ nện cho cậu một trận và cậu sẽ bị tống cổ.

Ngay lần làm nhiệm vụ tiếp theo, hắn tìm được một đường mòn mà hắn đảm bảo là khô ráo dẫn đến một ngôi làng. Nhưng tôi ngờ điều đó lắm. Thực ra, tôi đã chỉ ra chỗ sai của hắn.

“Ô, không, không đâu,” hắn khăng khăng, “đường tốt, đường tốt mà.”

Chúng tôi đi ra cánh đồng, chúng tôi đi theo hắn, vượt qua vài mảnh ruộng trên một con đường hẹp dẫn đến một cái cống ngang qua một con đường đầy bùn. Tôi ở phía cuối đoàn, một trong những người cuối cùng vượt qua cái cống. Khi tôi vừa bước khỏi, tôi bị lún xuống bùn và ngập trong phân đến tận đầu gối. Bùn thực ra chỉ là lớp mỏng ở phía trên một hố sâu đầy chất thải.

Nó bốc mùi còn thối hơn cả mùi hôi thối thường thấy ở bọn Iraq nữa.

“Tommy,” tôi gào lên, “Tôi sẽ quật nát đít cậu ngay khi chúng ta tới được ngôi nhà.”

Chúng tôi ập vào ngôi nhà. Tôi vẫn ở cuối đoàn. Chúng tôi lục soát ngôi nhà, sau khi mọi lính bắn tỉa đã triển khai vào vị trí, tôi đi tìm Tommy và cho hắn trận đòn như tôi đã hứa.

Tommy đã phải trả giá cho nhũng “tội lỗi” của hắn rồi: khi tôi tìm thấy hắn ở tầng dưới, hắn đã phải truyền huyết thanh và nôn thốc nôn tháo. Hắn bị ngã vào đống phân, người hắn dính đầy cứt. Hắn ốm cả ngày và bốc mùi suốt một tuần.

Tất cả những món đồ hắn mặc đều phải đem tẩy, chắc hẳn bởi một thùng hóa chất độc hại nào đấy.

Thật đáng đời hắn.

Tôi ở trong các ngôi làng khoảng từ hai đến ba tháng. Khi ở đó, tôi đã hạ thủ được khoảng hai mươi tên, có xác nhận rõ ràng. Hoạt động trong bất kỳ đạt hành quân riêng lẻ nào có thể rất ác liệt, cũng có thể chậm chạp. Không đoán trước được điều gì.

Hầu hết những căn nhà mà chúng tôi chiếm được đều thuộc về những gia đình mà chí ít tỏ ra trung lập. Tôi đoán đa số họ đều ghét phiến quân vì đã gây ra rắc rối, họ thậm chí sẽ còn vui hơn chúng tôi khi bọn phiến quân tệ hại đó rời đi. Nhưng cũng có những ngoại lệ và chúng tôi tràn trề thất vọng khi chúng tôi chỉ có thể đứng nhìn bất lực.

Chúng tôi vào một ngôi nhà và thấy những bộ đồng phục cảnh sát. Chúng tôi biết ngay sở hữu của những bộ quần áo đó là Muj, phiến quân ăn cắp sắc phục và dùng để ngụy trang trong các cuộc tấn công.

Tất nhiên, hắn đã ghi vào tờ khai một dòng chữ vớ vấn về việc hắn vừa nhận được một công việc làm sĩ quan cảnh sát bán thời gian - điều mà hắn quên nhắc đến đầy mờ ám khi chúng tôi thẩm vấn hắn lần đầu tiên.

Chúng tôi đã gọi lại cho bên Lục quân, cung cấp thông tin cho họ và hỏi xem xử lý thế nào.

Họ không có tin tức tình báo gì về tên này. Cuối cùng, họ quyết định rằng đồng phục cảnh sát không phải là bằng chứng cho bất cứ điều gì.

Người ta bảo chúng tôi hãy thả hắn ra. Chúng tôi đã làm như vậy.

Chuyện này khiến chúng tôi phải suy nghĩ khi nghe tin về một cuộc tấn công của đám phiến quân mặc đồng phục cảnh sát sau đó mấy tuần.

RÚT LUI

Một buổi tối nọ chúng tôi tiến vào một làng khác và chiếm một căn nhà bên rìa những cánh đồng rộng, một trong số đó được sử dụng làm sân bóng đá. Chúng tôi đóng quân ở đó mà không gặp vấn đề gì, khảo sát ngôi làng và sẵn sàng cho bất cứ rắc rối nào mà chúng tôi có thể đối mặt sáng hôm sau.

Nhịp độ của các đợt hành quân đã chậm đi chút ít trong một hoặc hai tuần qua. Giống như thể tình hình đang lắng xuống, ít nhất là đối với chúng tôi. Tôi bắt đầu nghĩ đến việc trở lại phía Tây và tái hợp với trung đội cũ của tôi.

Tôi đặt chỗ nằm bắn tỉa của mình trong một căn phòng ở tầng hai cùng với viên trung úy. Chúng tôi có một lính bắn tỉa của Lục quân đi cùng với người chuyên phát hiện mục tiêu của cậu ta ở phòng ngay bên cạnh, và một nhóm lính trên sân thượng. Tôi mang theo người khẩu súng.338 Lapua, với tính toán rằng hầu hết các phát súng của tôi là ở tầm xa, vì chúng tôi ở tận rìa làng. Do tình hình xung quanh im ắng, tôi bắt đầu quét tầm nhìn ra xa hơn, đến ngôi làng bên cạnh, cách khoảng gần hai ki lô mét.

Thi thoảng, tôi thấy một căn nhà một tầng có người đang di chuyển trên mái. Ngôi nhà cách chỗ tôi gần hai ki lô mét, thậm chí một kính ngắm có công suất khuếch đại hai mươi lăm lần cũng không thể khiến tôi thấy gì hơn là một hình bóng. Tôi ngắm nghía người này, nhưng lúc đó hình như hắn không mang theo một vũ khí nào, hoặc ít ra cũng không để lộ. Hắn quay lưng về phía tôi, vì vậy tôi có thể theo dõi hắn còn hắn không thể nhìn thấy tôi. Tôi nghĩ là hắn thật đáng ngờ, nhưng hắn không làm gì nguy hiểm cả, vì vậy tôi để mặc hắn.

Lát sau, một chiếc xe của bên Lục quân tiến vào con đường phía bên kia của một ngôi làng khác, hướng về COP mà chúng tôi đã dựng lên. Khi chiếc xe tiến gần hơn, người đàn ông trên nóc nhà nâng vũ khí lên vai. Bây giờ hình bóng hắn đã rõ ràng hơn: hắn có một máy phóng rốc két, và hắn đang nhắm bắn vào những người Mỹ.

Đó là khẩu chống tăng RPG.

Chúng tôi không có cách nào để gọi thẳng cho chiếc xe, cho đến tận bây giờ tôi vẫn không biết chính xác họ là ai, ngoại trừ việc họ thuộc Lục quân. Nhưng tôi vẫn ngắm vào hắn và nổ súng, hy vọng ít ra cũng làm cho hắn hoảng sợ hoặc có thể cảnh báo cho chiếc xe.

Ở khoảng cách 2.000 mét/ cộng một chút thay đổi, tôi có nhiều may mắn để hạ gục hắn ta.

Đúng là rất nhiều may mắn.

Có thể cái cách tôi giật cò súng sang bên phải bỗng phù hợp với hướng gió. Cũng có thể vì trọng lực lái viên đạn và đặt nó đúng đích. Mà cũng có thể tôi chỉ là thằng may mắn nhất Iraq. Dù gì đi nữa, tôi đã ngắm qua ống kính ngắm tầm xa khi bắn trúng tên Iraq đó. Hắn đổ nhào qua bức tường xuống đất.

“Chà,” tôi lẩm bẩm.

“Cậu đứng là tên khốn may mắn,” viên trung úy nói.

2.000 mét. Cú bắn thậm chí vẫn làm tôi sửng sốt đến tận bây giờ. Đó là một phát bắn trực diện quá may mắn, trong khi dường như không thể có cách nào hạ gục hắn chỉ bằng một phát súng.

Nhưng điều đó đã xảy ra. Đó là phát súng bắn hạ kẻ thù ở tầm xa nhất của tôi được xác nhận ở Iraq, thậm chí còn xa hơn phát súng tôi đã bắn ở Fallujah.

Chiếc xe bắt đầu phản ứng, có lẽ họ không hề biết rằng họ đã suýt bị bắn nổ tung. Tôi quay lại việc tìm kiếm kẻ thù.

Ngày trôi dần qua, chúng tôi bắt đầu hứng đạn từ các khẩu AK và súng phóng lựu. Xung đột tăng nhanh. Đạn RPG bắt đầu nã thủng những tấm bê tông mỏng hoặc bức tường gạch, xuyên qua và phát nổ.

Chúng tôi quyết định đã đến lúc rời đi và yêu cầu được rút quân.

Hãy cử xe RG-33 đến! (RG-33 là những chiếc xe chống đạn loại lớn, được thiết kế để chịu được loại mìn IED và được trang bị một tháp súng máy trên nóc xe.)

Chúng tôi đợi và tiếp tục đấu súng, chúi xuống tránh mưa đạn của bọn phiến quân. Rốt cuộc, lực lượng giải vây thông báo chỉ còn cách khoảng 500 mét, ở phía bên kia của thửa ruộng dùng làm sân bóng đá.

Họ đã tiến gần hết sức có thể.

Hai chiếc xe Hummer đã băng qua làng và xuất hiện trước cửa, nhưng chúng không thể chở được hết chúng tôi. Những người còn lại phải chạy đến chiếc xe RG-33.

Ai đó đã ném một quả lựu đạn khói, tôi đoán là để che cho chúng tôi rút lui. Nhưng tất cả những gì nó làm được là khiến chúng tôi chẳng nhìn thấy gì. (Lựu đạn khói phải được sử dụng để làm bình phong cho việc di chuyển, ta chạy phía sau đám khói. Nhưng trong trường hợp này, chúng tôi phải chạy qua đám khói.) Chúng tôi chạy ra khỏi ngôi nhà, qua đám khói, tránh đạn và chạy lắt léo vào cánh đồng lộ thiên.

Giống như một cảnh trong phim. Đạn bay tung tóe và cày tanh tách xuống bùn.

Cậu đi bên cạnh tôi ngã xuống. Tôi tưởng cậu ta trúng đạn. Tôi dừng lại, nhưng trước khi tóm được thì cậu ta đã nhảy bật lên, cậu ta chỉ vấp mà thôi.

“Tôi ổn! Tôi ổn!” cậu ta hét.

Chúng tôi cùng nhau tiếp tục tiến về chiếc xe, đạn và mảng đất dính cỏ bị đạn cày lên bay tứ tung khắp nơi. Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được những chiếc xe. Tôi nhảy vào phía sau của một chiếc RG-33. Khi tôi vừa lấy lại được nhịp thở, đạn bắn vào một cửa sổ chống đạn ở bên cạnh xe, làm kính nứt ra trông như mạng nhện.

Vài ngày sau, tôi tới biên giới phía Tây, trở lại với trung đội Delta. Việc luân chuyển này do tôi đề nghị trước đó và giờ đã được chấp nhận.

Thật là đúng thời điểm. Mọi việc bắt đầu xảy ra với tôi. Căng thẳng tăng dần lên. Từng tí một, tôi nhận ra nó sẽ trở nên tồi tệ hơn, ngay cả khi chiến sự đã giảm đi nhiều.

TRUNG SĨ KYLE

Cho đến thời điểm bấy giờ, đồng đội của tôi đã rời khỏi al-Qa’im và đến một nơi được gọi là Rawah, cũng nằm ở phía Tây gần biên giới Syria. Một lần nữa họ được giao nhiệm vụ xây dựng doanh trại và vài công việc khác.

Tôi thật may mắn; tôi đã không phải làm công việc xây dựng. Nhưng khi tôi đến đó, cũng chẳng còn mấy việc phải làm.

Tôi đến vừa đúng lúc để tiến hành cuộc tuần tra tầm xa trên sa mạc ở khu vực biên giới. Chúng tôi lái xe ra ngoài suốt mấy ngày mà hiếm khi nhìn thấy một người nào, nói gì đến bọn phiến quân. Có những thông tin về các vụ buôn lậu qua sa mạc, nhưng nếu nó đang diễn ra, thì nó không diễn ra ở nơi có mặt chúng tôi.

Trong khi đó, trời nóng. Ít nhất là 48 độ C, chúng tôi đi trên những chiếc Hummer không có điều hòa nhiệt độ. Tôi lớn lên ở Texas, vì vậy tôi biết thế nào là trời nóng; thời tiết ở đây tệ hơn nhiều. Và nó cứ như thế suốt; không thể nào thoát ra được. Nhiệt độ cũng chẳng giảm đi mấy vào ban đêm, có lẽ chỉ giảm xuống khoảng 46 độ C. Hạ cửa sổ xuống đồng nghĩa với việc chấp nhận rủi ro, nếu ở đó có mìn IED. Điều tồi tệ hơn nữa là cát, nó có thể bay thẳng vào trong và phủ kín cả người.

Tôi quyết là thà hứng cát và nguy cơ có mìn IED còn hơn chịu nóng. Tôi đã hạ cửa sổ xuống.

Khi lái xe, tất cả những gì ta có thể thấy là sa mạc. Thỉnh thoảng, thấp thoáng một khu định cư của dân du mục hoặc một ngôi làng nhỏ.

Chúng tôi kết nối với trung đội kết nghĩa, ngày hôm sau chúng tôi dừng chân tại một căn cứ của Lính thủy đánh bộ. Sếp tôi vào trong và giải quyết vài công việc, sau đó một lát ông ra ngoài và tìm tôi.

“Này,” ông nói với tôi và nhe răng cười. “Đoán được không này, cậu vừa được cử làm sếp rồi.”

Tôi đã làm bài thi lên sếp hồi còn ở Mỹ, trước khi chúng tôi dàn quân.

Trong lực lượng Hải quân, bạn thường phải làm bài kiểm tra viết để được thăng chức. Nhưng tôi đã gặp may. Tôi được lên lon để hưởng bậc lương E5 (Petty Officer Second Class): hạ sĩ nhì bên Hải quân, tương đương trung sĩ bên Lục quân trong đợt dàn quân lần thứ hai, rồi lên bậc lương E6 (Petty Officer First Class) nhờ vào một chương trình khen thưởng đặc biệt trước đợt dàn quân lần thứ ba. Cả hai lần lên lon đó đều không phải làm bài kiểm tra viết.

(Trong cả hai trường hợp, tôi đã làm thêm rất nhiều công việc ngoài phận sự cho Đội và có chút tiếng tăm trên chiến trường. Đó là những thành tố quan trọng góp phần cho việc được thăng quân hàm.)

Điều đó cũng không thoát khỏi việc phải làm bài kiểm tra lên sếp. Tôi đã làm bài kiểm tra viết và đạt vừa đủ điểm theo yêu cầu.

Tôi cần phải giải thích rõ hơn một chút về bài kiểm tra viết và việc thăng chức. Tôi không phải người cực lực phản đối hoặc dị ứng với các bài kiểm tra, ít nhất thì cũng không nhiều hơn những người khác. Nhưng bài kiểm tra của các SEAL còn thêm một gánh nặng nữa.

Lúc bấy giờ, để được thăng cấp bạn phải thực hiện một bài kiểm tra trong khuôn khổ công việc của mình, không phải với tư cách của một SEAL mà bất cứ lĩnh vực nào bạn đã chọn trước khi trở thành SEAL. Trong trường hợp của tôi, điều đó có nghĩa là tôi phải làm bài kiểm tra cả về lĩnh vực tình báo.

Hiển nhiên là tôi không ở vị thế để hiểu bất kỳ điều gì về lĩnh vực này. Tôi là một SEAL, không phải nhà phân tích tình báo. Tôi chẳng có manh mối nào về loại thiết bị hoặc cách thức mà bên tình báo sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ của mình cả.

Để xem xét tính xác thực của tin tức tình báo mà chúng tôi thường nhận được, tôi toàn đoán mò bằng bảng phi tiêu, hoặc dựa vào việc tung xúc xắc.

Để được thăng tiến, tôi phải ôn tập để làm bài kiểm tra, mà việc này lại cần phải đến một khu vực đọc tài liệu mật, một phòng đặc biệt nơi có thể xem các tài liệu tuyệt mật. Tất nhiên, tôi đã phải làm việc này trong thời gian rỗi của mình.

Không có khu vực tài liệu bảo mật ở Fallujah hoặc ở Ramadi, nơi tôi chiến đấu. Các tài liệu trong khu nhà vệ sinh và ban chỉ huy thì đã cắt bỏ hết rồi.

(Hiện nay các bài kiểm tra chỉ nằm trong lĩnh vực các hoạt động đặc biệt, và chỉ liên quan đến những gì mà các SEAL vẫn làm. Bài kiểm tra cực kỳ chi tiết, nhưng chí ít thì còn liên quan đến công việc của chúng tôi.)

Trở thành sếp có sự khác biệt đôi chút. Bài kiểm tra này là về những điều mà các SEAL cần phải biết.

Các rào cản đã được gỡ bỏ, trường hợp của tôi được một ban giám khảo xem xét rồi trình lên cấp cao hơn để chuẩn y về mặt hành chính. Quá trình xem xét của ban giám khảo bao gồm tất cả các hạ sĩ nhất và các chỉ huy đại đội cùng ngồi lại và xem xét một loạt thành tích của tôi. Loạt thành tích được cho là một hồ sơ dài về mọi việc mà bạn đã hoàn thành khi là một SEAL. (Trừ những vụ ẩu đả trong quán bar.)

Có một sự cố với hồ sơ của tôi là thời gian phục vụ trong quân đội. Chúng không được cập nhật kể từ khi tôi tốt nghiệp Chương trình BUD/S. Huân chương Ngôi sao Đồng và Ngôi sao Bạc của tôi thậm chí cũng không có trong hồ sơ.

Tôi không máu mê gì việc trở thành sếp. Tôi vui vẻ với vị trí của mình. Là sếp tôi sẽ phải có đủ loại công việc hành chính, và tôi sẽ không tham gia chiến đấu nhiều được nữa. Vâng, sẽ có nhiều tiền hơn cho gia đình, nhưng tôi không nghĩ về chuyện đó.

Sếp Primo cũng trong ban giám khảo tại căn cứ của chúng tôi ở nước Mỹ. Ông ngồi cạnh một chỉ huy khác khi họ bắt đầu xem xét trường họp của tôi.

“Cái thằng này là thằng mả mẹ nào đây?” tay chỉ huy đó nói khi xem bộ hồ sơ mỏng tang của tôi. “Hắn nghĩ hắn là ai cơ chứ?”

“Tại sao cậu với tớ lại không đi ăn trưa nhỉ?”

Tay kia đồng ý. Khi quay trở lại, anh ta đã có thái độ khác hẳn.

“Cậu nợ tớ một cái bánh mì Subway đấy nhé đồ ngốc,” Primo nói với tôi khi tôi gặp ông sau đó. Rồi ông kể lại cho tôi nghe câu chuyện này.

Tôi nợ ông tất cả điều đó và còn hơn thế nữa. Quyết định thăng chức được thông qua, và thành thực mà nói, làm sếp cũng không tệ đến mức như tôi tưởng.

Sự thật tôi chẳng bao giờ quan tâm quá nhiều đến cấp bậc. Tôi chưa bao giờ cố gắng để trở thành một trong những người có cấp bậc cao nhất. Hoặc thậm chí cả hồi ở trường trung học, tôi cũng chưa bao giờ tìm cách để trở thành một trong những học sinh có điểm số bình quân cao nhất.

Tôi thường làm bài tập về nhà trên chiếc xe tải vào buổi sáng. Khi họ đưa tôi vào Honor Society[*], tôi đã cố tự dìm điểm xuống chỉ vừa đủ để tham gia kỳ học tới và để bị loại ra khỏi cái hội này. Sau đó, tôi lại nâng điểm lên để bố mẹ không mắng mỏ gì tôi được.

Chu thich: Tổ chức trao giải thường cho các học sinh thành công và khuyến khích học sinh giành được giải thưởng đó.

Có thể vấn đề cấp bậc liên quan đến việc tôi thích trở thành một người lãnh đạo trên chiến trường hơn là một người quản lý trong phòng giấy. Tôi không muốn phải ngồi trước máy tính, vạch ra mọi thứ rồi bảo mọi người làm. Tôi muốn làm việc của tôi, đó là trở thành một người lính bắn tỉa: trực tiếp tham gia chiến đấu, bắn giết kẻ thù. Tôi muốn trở thành người giỏi nhất trong việc mà tôi muốn làm.

Tôi nghĩ nhiều người gặp rắc rối với thái độ đó. Họ đương nhiên cho rằng bất kỳ người giỏi giang nào cũng phải có một cấp bậc rất cao. Tôi đồ rằng tôi đã gặp quá đủ những người có cấp bậc cao mà chẳng hề có chút ảnh hưởng nào.

SUY NGHĨ QUÁ NHIỀU

“Lại tiếp tục trên từng cây số...”[*]

Chu thich: Nguyên văn là “On the road again...” từ bài hát cùng tên của Willie Nelson.

Chúng tôi nghe Willie Nelson hát qua hệ thống loa trên chiếc Hummer khi chúng tôi bắt đầu lên đường trở về căn cứ vào ngày hôm sau. Ở đây, âm nhạc là phương tiện giải trí duy nhất mà chúng tôi có, ngoài những lần thỉnh thoảng dừng chân ở một ngôi làng nào đó để trò chuyện với người địa phương. Ngoài dòng nhạc đồng quê truyền thống mà ông bạn ngồi sau tay lái ưa thích, tôi còn được nghe Toby Keith và Slipknot, nhạc đồng quê và heavy metal tranh giành nhau sự chú ý.

Tôi có niềm tin mãnh liệt về tác động tâm lý của âm nhạc. Tôi đã thấy hiệu quả của nó trên chiến trường. Nếu bạn sắp đánh nhau, bạn muốn được khích lệ tinh thần. Bạn không muốn trở nên điên khùng ngu ngốc mà muốn tinh thần được kích động. Âm nhạc giúp xua tan nỗi sợ. Chúng tôi đã từng nghe các ban nhạc như Papa Roach, Dope, Drowning Pool - bất cứ thứ nhạc nào kích động chúng tôi. (Bây giờ, tất cả các band này đều được luân phiên nhau trong list nhạc nghe lúc làm việc của tôi.)

Nhưng lại chẳng có gì có thể khích lệ tôi trên đường trở về căn cứ. Đó là một chuyến đi dài và nóng nực. Ngay cả dù tôi vừa nhận được tin vui về việc thăng chức, nhưng một mặt tôi vẫn trong tâm trạng đen tối còn mặt kia thì căng thẳng.

Trở về căn cứ, mọi việc chậm chạp đến lạ thường. Chẳng có gì xảy ra. Và điều đó bắt đầu gây rắc rối cho tôi.

Chừng nào tôi tham gia chiến đấu, ý nghĩ tôi sắp bị thương, sắp chết là điều gì đó tôi có thể gạt ra khỏi đầu. Có quá nhiều việc đang diễn ra để khỏi phải bận tâm về điều đó. Còn nếu không, tôi phải làm nhiều công việc khác, tôi không thực sự tập trung vào vấn đề đó nữa.

Nhưng bây giờ, nó gần như là tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới.

Tôi có thời gian để thư giãn, nhưng tôi không thể. Thay vào đó, tôi nằm trên giường suy nghĩ về tất cả mọi việc tôi từng trải qua, đặc biệt là những phát súng.

Tôi nhớ lại các phát súng mỗi khi tôi nằm nghỉ. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, có lẽ còn mạnh hơn nhiều so với đêm ở thành Sadr.

Mọi thứ có vẻ xuống dốc trong mấy ngày khi chúng tôi trở lại sau đợt tuần tra khu vực biên giới. Tôi không sao ngủ được. Tôi cảm thấy rất bồn chồn lo lắng. Cực kỳ lo lắng. Huyết áp tôi lại tăng lên, thậm chí còn cao hơn cả trước đây.

Tôi cảm giác như mình sắp nổ tung.

Về mặt thể chất, tôi mệt nhừ. Bốn đợt dàn quân tham chiến đã rung những hồi chuông báo động. Đầu gối tôi đã khá hơn nhưng lưng tôi lại bị đau, mắt cá chân cũng đau, khả năng nghe kém. Tai tôi ù ù. cổ tôi bị chấn thương, xương sườn bị rạn, ngón tay và khớp đốt ngón tay bị gãy. Tôi bị viêm võng mạc và giảm thị lực mắt phải. Còn hàng tá vết bầm tím cùng cả đống vết thương và đau đớn. Theo các bác sĩ, tôi còn bị bệnh mộng tinh nữa.

Nhưng điều thực sự làm tôi lo ngại là huyết áp của tôi. Tôi vã mồ hôi đầm đìa và tay thì run rẩy. Mặt tôi, lúc mới đầu thì trắng bệch, giờ đã trở nên tái nhợt.

Tôi càng tìm cách nghỉ ngơi thư giãn, mọi việc càng trở nên tồi tệ hơn, đến mức cảm giác như cơ thể tôi bắt đầu run rẩy, và nghĩ về điều đó chỉ khiến tôi xáo trộn hơn.

Hãy tưởng tượng bạn đang trèo lên một cái thang cao bắc ra ngoài sông, đến cả nghìn dặm và ở đó bạn bị sét đánh. Cơ thể bạn nhiễm điện, nhưng bạn vẫn sống. Thực tế, bạn không chỉ nhận thức được mọi việc đang diễn ra, mà bạn còn biết bạn có thể đối phó với nó. Bạn biết phải làm gì để trở xuống.

Bạn đã làm như vậy. Trèo xuống. Nhưng khi bạn trở lại mặt đất, dòng điện không biến đi. Bạn tìm cách để ngắt dòng điện, để đứng vững trên mặt đất, nhưng bạn không thể tìm được một cột thu lôi bỏ mẹ nào đê ngắt dòng diện đo đi cả.

Không thể ăn hay ngủ được, rốt cuộc tôi đã tìm đến bác sĩ và yêu cầu họ kiểm tra sức khỏe cho tôi. Họ nhìn tôi và hỏi tôi có muốn dùng thuốc không.

Tôi nói với họ là không cần lắm. Nhưng tôi đã dùng thuốc.

Họ cũng gợi ý rằng vì tần suất chiến đấu hầu như không còn và dù sao chúng tôi cũng chỉ còn vài tuần nữa sẽ trở về nước, nên tôi trở về nước là hợp lý.

Không biết việc gì khác để làm, tôi đã đồng ý.