TRONG RỦI CÓ MAY
Tháng Mười năm 2009.
Vụ tìm hài cốt anh Khôi bị Tư Bông lừa, mất mười triệu, không để lại vấn vương nhiều, vì thu nhập thường xuyên của chúng tôi không khiến sự mất mát đó là chuyện lớn. Nỗi tự ái đắng họng vì mang tiếng nhà văn, nhà báo lại bị lừa một cách quá đơn giản, ban đầu khá sốc, cuối cùng cũng dịu đi, khi chúng tôi tìm được cách ngụy biện: do quá thiên về cảm xúc tìm anh Khôi bằng được mà phần tỉnh táo bị che mờ… Hai vợ chồng chỉ còn bận tâm về việc tìm cách nào dễ chịu nhất để thanh minh, xin lỗi gia tộc, họ hàng và chính quyền địa phương ở quê. Bỗng một hôm, vợ tôi nói:
- Chuyện hài cốt trong mộ anh Khôi rõ ràng là giả rồi… Nhưng nhỡ đó đúng là hài cốt thật, thì tức là hài cốt của người khác, phải làm sao?
Dù vô thần một trăm phần trăm, tôi cũng nghe như sét đánh ngang tai. Tôi tức giận phát run:
- Nếu đúng như vậy thì thật kinh khủng. Nếu là hài cốt người khác thì phải kiện con Tư Bông ra tòa.
Thời điểm đó, đọc sách báo, nghe truyền miệng về những vụ gọi hồn và khả năng liên lạc với những người cõi âm của các nhà ngoại cảm, rồi theo Tư Bông trong vụ gọi hồn anh Khôi, niềm tin của chúng tôi ở chuyện này, chỉ ở mức thiên hạ tin thì mình theo, vì quá nôn nóng trong vụ tìm hài cốt ông anh, chứ cơ sở thuyết phục lẫn bằng chứng tin cậy, hoàn toàn chưa đủ. Nhưng việc đưa hài cốt người ngoài về đất thiêng, nơi thờ phụng của gia tộc, không chỉ xúc phạm, lừa dối tổ tiên, gia tộc chúng tôi, mà còn xúc phạm cả gia đình, gia tộc của hài cốt đó, thì dẫu chưa tin lắm vào thế giới tâm linh, chúng tôi cũng hoảng sợ. Nếu gọi điện cho Tư Bông làm lành, rồi hỏi về vụ thật, giả này, chắc chắn không hy vọng. Dễ gì tìm được câu trả lời thật thà ở ả siêu lừa đảo này.
Vợ tôi, chiều tối nào cũng thắp nhang trên bàn thờ xin lỗi các cụ tổ tiên, bố, hai mẹ và anh Khôi về vụ sai phạm này.
Tôi nói với vợ:
- Cầu trời trong mộ chỉ là đất, chứ không phải hài cốt người khác.
Chuyện ê chề này lẽ ra chỉ hai vợ chồng biết, rồi chôn sâu vào câm lặng, nhưng không đưa được cái mộ giả, nếu chứa hài cốt người khác, ra khỏi nghĩa trang gia tộc, thậm chí còn phải trả về chỗ cũ, thì vợ chồng tôi không thể ăn ngon, ngủ yên. Nghĩ đến chuyện phải tìm một nhà ngoại cảm khác để hóa giải, chúng tôi cùng rùng mình. Việc chọn Tư Bông, chúng tôi cũng đã cẩn thận tìm hiểu cả chục người trong cuộc, và từ đầu đến cuối, chúng tôi đều trên tinh thần phản biện và giám sát từng đường đi nước bước của ả, rốt cuộc lại thế này. Phương án tìm nhà ngoại cảm thứ hai bị gạt đi. Tôi sực nhớ trong những nhà văn, nghệ sĩ, bạn thân mình có một số hiểu biết và đeo đuổi chuyện tâm linh thuộc loại có hạng. Mấy chục năm chơi với nhau, vì bụt chùa nhà không thiêng, nên gặp nhau, bạn thì nói những chuyện này nghiêm túc, còn mình chỉ tán cho vui. Giờ tại sao không tham khảo? Hai vợ chồng ngồi trao đổi, duyệt lại “đội quân” sống đời nhập thánh này.
Năm 1979, tôi đón bố tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn ở cùng. Bố tôi bảo: “Anh Khôi mất rồi, con là thứ, nay thành trưởng, thay anh Khôi là cháu đích tôn dòng họ Nguyễn Hữu, nên phải có bàn thờ”. Khi đó, nhà tôi ở quận Phú Nhuận. Nhân nhà văn Lê Phương, tác giả tiểu thuyết Thung Lũng Cô Tan vang bóng một thời, một trong những trùm tử vi và kinh dịch đất Bắc, vào Sài Gòn công tác, tôi nhờ anh tìm chỗ và hướng đặt bàn thờ trong nhà. Tin thì ít mà theo phong tục thì nhiều.
Năm 1990, chúng tôi chuyển sang quận Gò Vấp, bàn thờ cũng chuyển theo, lại nhờ Thanh Vân, đàn em của họa sĩ Nguyễn Thị Hiền, gốc là nghệ sĩ múa đoàn Văn công Quân Giải phóng Miền Nam thời chiến tranh chống Mỹ, nay là thầy tướng số có “thương hiệu”, chuyên chọn ngày, chọn đất, xem chân tướng cho các chủ doanh nghiệp, các ông này bà kia thứ dữ. Cũng theo phong tục là chính, tin là phụ. Họa sĩ Nguyễn Thị Hiền kể rằng từ khi ông xã là nhà tâm linh học Lê Dưỡng Hạo (cũng là bạn học của tôi và Phạm Văn Lân) mất, cứ thắp nhang trước bàn thờ, là một con bướm trắng xuất hiện như hiện thân của anh Hạo, tạo đường dây cho Hiền liên lạc được với cõi âm…
Sửa nhà cũ, xây nhà mới, khai trương trường học, chúng tôi đều nhờ học giả Lê Khánh Trường xem ngày, đến cúng và đo từng khung cửa. Thiên hạ làm, mình cũng theo, chứ tin cũng mù mờ.
Người đẹp Hồng Quang, phu nhân Phạm Văn Lân, chủ nhà hàng, khách sạn Lotus, bạn học với tôi hồi trung học, là con chim sơn ca nổi tiếng trong đoàn Ca múa nhạc Trung ương suốt hai chục năm chiến tranh. Hòa bình lập lại, bỗng nhiên trở thành bà đồng, bỏ chục tỷ đồng ra xây đền Bảo Hà, thờ Đức Thánh Trần và ông Hoàng Bảy (danh tướng dưới trướng Trần Hưng Đạo, trấn ải phương Bắc), ở Lồ Ô, quận Thủ Đức, ngoại thành Sài Gòn. Bạn bè của Lân, Quang, trong đó có vợ chồng tôi cũng thành con nhang đệ tử, cũng mê mẩn xem Quang múa hát chầu văn và phán truyền, chia lộc, nhưng xem thánh Mẫu Thượng Ngàn nhập vào đồng là phụ mà hồi tưởng lại thời “Tiếng hát át tiếng bom” là chính.
Danh sách bạn bè sống đời “nhập thánh” khá dài. Ai sẽ là người kín miệng nhất? Cuối cùng, chúng tôi quyết định chọn nhà văn Nguyễn Nguyên Bảy, cũng là một thầy phong thủy nổi danh, mặc dù biết thừa đã tâm sự với các văn nghệ sĩ Việt Nam không khác gì tâm sự với toàn thế giới. Tôi bấm điện thoại gọi anh.
Hóa ra vợ chồng Nguyễn Nguyên Bảy, Lý Phương Liên đang ở Mỹ, thăm hai gia đình con trai và con gái.
- Xin chào đồng hương. - Bảy bắt máy với giọng vui vẻ.
- Tôi có việc muốn nhờ ông. Nhưng việc này là chuyện danh dự của chúng tôi, ông phải giữ bí mật, tuyệt đối không được lộ cho người thứ hai, kể cả Phương Liên.
Giọng Nguyễn Nguyên Bảy phấn chấn như người lâu không được nói tiếng Việt:
- Yên tâm đi. Ông bà chọn tôi để giữ bí mật tuyệt đối là chính xác rồi. Nhưng ông đừng nói tiếp mà để tôi nói trước. Ông bà đang vừa bị lừa mất tiền nên mới cầu cứu tôi phải không?
Máy điện thoại của tôi đang mở loa ngoài, nên vợ tôi cũng nghe. Hai chúng tôi cùng kinh ngạc, nhưng vợ tôi vẫn chống chế:
- Anh nói đúng mà cũng không đúng. Đây là chuyện của bạn em chứ không phải của anh Tuấn và em. Chuyện mất tiền cũng sai vì do số tiền mất không lớn nên họ không tính là mất.
- Mất một xu cũng là mất. Ông bà nói tiếp đi.
Tôi nói:
- Nguyên thằng bạn tôi vốn tin vào chuyện tâm linh, có nhờ một nhà ngoại cảm tìm hài cốt ông anh hy sinh ở chiến trường miền Nam sau bốn mươi năm mất tích. Cuối cùng tìm được và đưa được hài cốt về an táng ở nghĩa trang ngoài quê miền Bắc. Mọi chuyện xong rồi, mới biết là nhầm. Theo ông, chuyện này nên xử lý thế nào?
Nguyễn Nguyên Bảy nói ngay:
- Chuyện lẫn lộn này, ông bà không phải là người đầu tiên nhờ tôi. Bản chất của sự việc là nhầm hay lừa, tôi không bàn. Đây là chuyện sai phạm nghiêm trọng về cả đạo lý, pháp lý lẫn tâm linh, nên ông hãy nói với thằng bạn mù quáng của ông là giá nào cũng phải công khai với gia đình, họ hàng, nếu chính quyền biết, cũng phải công khai với chính quyền, để bỏ ngôi mộ giả ấy đi. Đấy là trường hợp nếu trong mộ chỉ có đất và những lưu vật giả. Trường hợp là hài cốt người khác, sẽ hết sức phức tạp và vô cùng nghiêm trọng. Trả lại chỗ cũ thì không thể được, nhưng đưa đi chỗ khác thì đưa đi đâu, nếu không biết chủ của bộ hài cốt là ai? Đó là duy vật, còn duy tâm thì bạn ông bà tuy vô tình nhưng vẫn là phạm trọng tội.
Bỗng trong máy điện thoại có tiếng véo von, chúng tôi nhận ngay ra giọng Lý Phương Liên:
- Về tâm linh thì đây là chuyện rất nghiêm trọng, hậu quả khôn lường, anh không coi thường được đâu.
Vợ tôi càu nhàu với riêng tôi:
- Đã nói là không được lộ với ai, vậy mà ông ấy vẫn dính vợ vào.
Nguyễn Nguyên Bảy nói tiếp:
- Hóa giải vụ này thế nào, tôi có nói cách nào qua điện thoại thì ông và thằng bạn ngu của ông cũng không giải quyết được, nên chỉ có cách đợi tôi bay về. Nhưng bây giờ, ông hãy hỏi thằng bạn ông, đã biết chính xác bộ hài cốt đó là của người khác chưa? Cần phải biết chính xác vì có khi nó chỉ toàn đất, có khi là xương động vật…
Tôi lúng túng:
- Thực ra vụ hài cốt người khác mới chỉ là giả thiết…
Nguyễn Nguyên Bảy la lên:
- Trời ơi! Tôi nghi vụ này chẳng phải của thằng bạn nào mà của chính nhà ông lắm. Nhưng thôi, cứ cho là chuyện của bạn ông thì ngay hôm nay, ông bảo nó bay về quê, xin phép những người có trách nhiệm để khai quật mộ, mở nắp tiểu đựng hài cốt, nhờ thêm người có chuyên môn xác định chính xác xương cốt còn sót lại trong đó là gì. Sau đó, ông gọi lại cho tôi.
Trò chuyện với Nguyễn Nguyên Bảy xong, vợ chồng tôi cùng thẫn thờ. Vợ tôi lại càu nhàu:
- Ông nội này thất tín ngay từ đầu, liệu có tin được không? Đã dặn đi dặn lại đừng nói với ai.
Tôi cũng hậm hực vì việc đó, nhưng vẫn nói:
- Thực ra nhiệt tình và tư vấn của Nguyễn Nguyên Bảy cũng bổ ích. - Rồi tôi tự an ủi theo thuyết “thắng lợi tinh thần” của AQ trong truyện ngắn Lỗ Tấn. - Ở nước Mỹ xa xôi, thằng Việt Nam yêu nước nào cũng thèm nghe tiếng nói từ quê hương, có khi cha nội này cho cả con trai, con gái, con dâu, con rể, lẫn cháu nội, cháu ngoại cùng nghe, thì giá trị tích cực nhiều hơn ý nghĩa tiêu cực, mình không nên chấp. Chưa kể bệnh “nghe hơi nồi chõ” kinh niên ở Việt Nam có lan rộng sang tận Mỹ thì cũng như muối bỏ biến, vì dân Mỹ nó cũng chẳng biết gì.
Thay vì bay về quê theo lời khuyên của Nguyễn Nguyên Bảy, vợ chồng tôi quyết định lặng lẽ bay ra Huế. Chuyến đi này, chúng tôi rủ thêm được Quang Sang, trung tá cảnh sát hình sự, chuyên viên khám nghiệm hiện trường, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, được đào tạo ở Đức. Sang thuộc nhóm bạn học thời trung học chơi với Thuận Ánh, con gái lớn của tôi. Khi biết chúng tôi đi Huế xem xét lại nơi đào “hài cốt” bác Khôi, Ánh đã giới thiệu bạn. Sang vui vẻ nhận lời. Để Sang có tư duy khách quan, chúng tôi giấu vụ chiếc lọ Penicillin. Tuy được đào tạo ở trời Tây, cậu ta vẫn dặn chúng tôi trước khi đi phải thắp nhang trên bàn thờ, cầu xin Trời Phật Thánh Thần, các linh hồn tổ tiên dòng họ và bác Khôi phù hộ. Tôi nói:
- Cháu là U40 mà cũng tin tâm linh?
Sang bảo:
- Có nhiều chuyện không đủ chứng lý, nhưng không tin không được, nên tốt nhất vẫn là “có thờ có thiêng”…
Chuyến ra Huế được thực hiện âm thầm. Chúng tôi cố ý không ở khách sạn cũ, không cho Nguyễn Quang Hà và Quốc Toản biết, cũng không tận dụng thổ công taxi Lê Văn Quý. Đường đi nước bước ở Huế, do chuyến đi trước vội vội vàng vàng, phần nhiều vào sáng sớm và tối nhập nhòe, nên không kịp ghi nhận địa hình, địa vật. Tôi chỉ nhớ chiếc Innova do Năm Được lái có đi qua đàn Nam Giao, nên quyết định chọn nơi đó làm điểm xuất phát.
Ngồi ở quán cà phê gần đàn Nam Giao, chưa biết lần hồi ra sao thì rất may, khi thử hỏi mấy người lớn tuổi ngồi bàn bên về vùng đất của dòng họ ông Bảy Tuệ, tức Võ Minh Tuệ, thì lại có người biết. Người đó còn nhiệt tình đi cùng xe để chỉ đường. Quang Sang đắc ý:
- Đang lo việc khó nhất là tìm đường, lại có quý nhân phù trợ. Có khi do hai bác thắp nhang từ ở nhà.
Hóa ra vùng đất dòng họ ông Bảy Tuệ chỉ cách đàn Nam Giao chừng bốn cây số nhưng Năm Được cố ý đi loanh quanh để chúng tôi mất phương hướng. Xe vừa dừng ở chân đồi, vợ chồng tôi đang lo tìm chỗ đặt trái cây, đồ lễ và thắp nhang, Sang đã đạp đám cây cỏ dại, lách theo khoảng trống giữa các hàng mộ chí lên đến huyệt đất mà Tư Bông đã thuê đám bốn người già gầy guộc đào lên. Huyệt đất rộng, một chiều chừng mét rưỡi, sâu hơn một mét, vẫn còn nguyên những dấu vết mới đào. Trời đang nắng gắt nên đất khô căng, dưới đáy huyệt có mấy hòn đá, hàng chục đầu đạn AK han gỉ, một túi ni lông đựng thứ bột màu đen và mấy thứ quần áo rách.
Sang bảo:
- Hai bác để cháu xuống. - Cậu ta nhảy nhẹ xuống hố, chuyển tất cả các thứ lên trên, rồi xem kỹ từng chút thành và đáy huyệt.
- Có thấy gì không?
Sang dùng hai tay vịn vách huyệt, nhảy lên trên, nói:
- Tất cả những thứ này không lẫn lộn gì với đất, mà đều từ ngoài mang vào. - Sang dốc túi ni lông đựng thứ bột màu đen còn lại không nhiều ra tay, vê, bóp, rồi đưa lên mũi ngửi. - Đây là bột than củi trộn với một ít vụn xương động vật, chắc chắn không phải xương người.
- Làm sao phân biệt được?
Sang nói:
- Xương người chôn bốn chục năm đã mủn thành đất thì chỉ có mùi đất, còn xương này vẫn đang có mùi tanh. Những đầu đạn cũ gỉ này đều mới được quăng vào, vì chất và màu gỉ này là do ở ngoài trời, chứ không phải ở trong đất.
Vợ chồng tôi kể cho Sang nghe từ đầu vụ khai quật. Đến chi tiết Năm Được mang thùng nước Vĩnh Hảo và túi bánh mì kẹp thịt lên cho thợ, bị té ngã, Sang chăm chú nghe, rồi thốt lên:
- Chính lúc này, nó vờ té để đánh lạc hướng chú ý của mọi người, rồi đưa đồ giả vào trong huyệt để lừa hai bác.
- Điều quan trọng nhất khiến hai bác phải mời cháu ra đây, là để xác định những thứ hai bác đưa về quê có phải hài cốt người khác không?
Sang quả quyết:
- Trăm phần trăm là không.
Nghe Sang nói, vợ chồng tôi cùng nhẹ nhõm như trút được gánh nặng ngàn cân trong người.
Hai vợ chồng từ Huế về được mấy ngày thì cậu Hùng, hớt hải đến nhà, Hùng kể:
- Nhà bác Hán ở Thanh Hóa cũng nhờ mụ Tư Bông tìm hài cốt con trai là anh Sở, lính hải quân hy sinh ở đảo Cồn Cỏ, được chôn ở nghĩa trang liệt sĩ Quảng Bình, nhưng năm 1972, nghĩa trang này trúng bom B52, bị đào xới, nhiều mộ bị mất dấu. Con mẹ Tư Bông được mời đến tìm, khi đưa hài cốt về Thanh Hóa, gia đình đem đi thử ADN, hóa ra không đúng… Một số nhà khác nhờ Tư Bông tìm mộ cũng xôn xao, nghi bị Tư Bông lừa.
Tôi thất thần:
- Vậy vụ bác Lãng ở Hòa Bình thì sao?
Hùng nói:
- Biết tin vụ anh Sở, em gọi điện ra Thanh Hóa, hỏi anh Nhiên. Anh ấy nói, chiếc khóa thắt lưng lính mạ kền ở trong quan tài thì không thể lộn với ai. Nhưng anh ấy cùng cả nhà cũng sẽ kiểm lại vụ này từ đầu… Nếu cần sẽ tìm cách đi thử ADN.
Chúng tôi thực sự bị sốc… Chuyện của mình như vết thương sắp lên da non, lập tức tấy lại. Cuộc chiến tranh đã trôi qua lâu rồi mà người thân của những người lính hy sinh trong cuộc chiến vẫn tiếp tục lặn lội khắp các vùng đất nước, lần tìm mọi manh mối, bấu víu từng tia hy vọng, cầu cạnh đến cả thế giới tâm linh, tốn kém không biết bao nhiêu công sức, tiền của, thời gian, để tìm cho được hài cốt ruột thịt của mình, vậy mà, những kẻ như Tư Bông đã lợi dụng để lừa đảo, kiếm sống trên sự cả tin thiêng liêng của những người đáng được trân trọng… Lặng lẽ chịu đựng sẽ không khác gì tiếp tay cho loại người này. Tôi quyết định sẽ báo công an để Tư Bông và đồng bọn phải bị cơ quan pháp luật ngăn chặn, trừng phạt.
Vợ chồng tôi lập tức bay ra Hà Nội. Con đường ngắn nhất luôn là con đường quen biết. Nguyễn Dũng, hiệu trưởng trường Đại học Văn Lang, Sài Gòn, bạn học cũ thời cấp hai ở Hà Nội của tôi, giới thiệu cho tôi cậu em Nguyễn Dĩnh, đại tá, Cục phó Cục Cảnh sát Truy nã Tội phạm, Bộ Công an. Dĩnh nhiệt tình hẹn chúng tôi đến văn phòng của anh làm việc. Buổi chiều hôm chúng tôi ra, vợ chồng nhà văn Chu Lai, Vũ Thị Hồng biết tin, lại gặp trước. Tôi và Chu Lai cùng thuộc lứa nhà văn trẻ xuất hiện trên văn đàn thời đầu chiến tranh chống Mỹ, đến nay đều đã ngoài sáu chục, cùng còn viết, nên vẫn chơi bền với nhau. Còn Vũ Thị Hồng và vợ tôi cùng học khóa 12 Đại học Tổng hợp Hà Nội, cùng là phóng viên chiến trường, chỉ khác là Hồng vào Khu Năm, còn vợ tôi vào Nam Bộ. Sau chiến tranh, cả hai may mắn cùng còn sống.
Trong lúc ăn tối, Chu Lai hỏi:
- Ông ra làm việc với VTV?
Thời gian này, qua báo chí truyền thông, nhiều người biết tôi đang hợp tác với VTV làm hai phim truyền hình nhiều tập là Huyền Sử Thiên Đô , bộ phim về Lý Công Uẩn và phim Thái Sư Trần Thủ Độ , cho đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Nên tôi đính chính:
- Tôi ra để đến Bộ Công an tố cáo một bọn tội phạm chuyên lừa đảo tìm hài cốt liệt sĩ bằng cái danh ngoại cảm.
Vợ chồng tôi thay nhau kể cho Vũ Thị Hồng và Chu Lai nghe về vụ lừa ngoạn mục của Tư Bông và Năm Được, cuối cùng là cuộc hẹn sáng mai với đại tá Nguyễn Dĩnh.
Nghe xong, Chu Lai ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Ai xác định được hai đứa đó là tội phạm mà ông đã đến Cục Truy nã?... Có một người, tôi mà nhờ chắc chắn sẽ giúp các vị một cách nhiệt tình nhất. Ông có quen Hữu Ước, báo Công an Nhân dân không?
- Chỉ biết chứ không quen.
- Ông đánh giá Hữu Ước thế nào?
- Trong giới văn chương, báo chí, tôi nghe tiếng xấu nhiều hơn tốt, nhưng coi đó là sự hoang dại của thói đời. Riêng tôi, chỉ thấy ai là người lao động có máu lửa, có hiệu quả, đều đáng được trân trọng.
Chu Lai nói tiếp:
- Ông nghĩ vậy thì ngay bây giờ, tôi gọi điện cho Hữu Ước. - Anh cầm điện thoại di động, nhấn số của nhà văn Hữu Ước, Tổng Biên tập báo Công an Nhân dân.
Sáng hôm sau, chúng tôi đến gặp nhà văn Hữu Ước ở tòa soạn báo. Anh mặc thường phục, mời chúng tôi ăn sáng bằng tô phở do chính “đầu bếp” tòa soạn nấu, rồi hỏi:
- Ăn được không?
Phở không hợp khẩu vị, nhưng chúng tôi cũng vẫn lịch sự khen ngon. Lúc cùng uống cà phê, anh Hữu Ước mới nói:
- Hôm qua, nghe ông Chu Lai nói, tôi đã gọi điện ngay cho Bùi Tiến Quý, Viện trưởng Viện Khoa học Hình sự của Bộ, vì dù vợ chồng ông có mang bằng chứng nào ra đây, vẫn phải có kết quả giám định thì mới triển khai điều tra, sau đó là màn truy bắt tội phạm. Bùi Tiến Quý hẹn trong sáng nay gặp vợ chồng ông, nên lát nữa ông bà nên sang gặp anh ta luôn. Bùi Tiến Quý là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, bạn tôi, một người rất thông minh và nhiệt tình với bạn bè, ông bà có thể tin anh ta như tin tôi.
Thế là chúng tôi nhảy taxi sang luôn Viện Khoa học Hình sự, Bộ Công an. Trên đường đi, tôi dặn vợ:
- Rút kinh nghiệm vụ Tư Bông, mình phải thận trọng, đừng lộ quá nhiều thông tin, xem anh ta đánh giá sự việc thế nào. Nếu gặp một nhân vật quan liêu thì thà để bọn tội phạm hoành hành, còn hơn mất quá nhiều thời gian vào việc đuổi hình bắt bóng.
Tiến sĩ Bùi Tiến Quý tiếp chúng tôi ở phòng Viện trưởng. Anh khoảng năm mươi tuổi, người dong dỏng, gương mặt trí thức, thông minh, đúng như Hữu Ước nói. Lẽ ra phải đi họp, vì hẹn tiếp chúng tôi, nên anh đi trễ.
Ngồi đối diện với anh ở bàn làm việc, tôi trình bày tóm tắt sự việc và cố ý giấu những thông tin có thể dễ bị suy diễn. Khi tôi chìa ra lọ penicillin, trong có cuộn giấy ghi những thông tin về anh Khôi và một túi ni lông nhỏ đựng những vụn đất đen, được hiểu là có lẫn vụn xương từ hài cốt anh Khôi đào ở nghĩa trang ngoại vi thành phố Huế, Bùi Tiến Quý vừa thoáng nhìn, đã cười:
- Một cái lọ bốn chục năm chôn dưới đất, thủy tinh có thể không mất màu, nhưng nắp cao su thì phải bạc và cứng. Chỉ nhìn nắp cao su vẫn nguyên màu thế này đã biết ngay bị lừa rồi.
Tôi nói:
- Sự việc xong xuôi chúng tôi mới biết. Nếu chỉ vợ chồng tôi là nạn nhân, mình bị hớ thì mình ráng chịu, nhưng hài cốt liệt sĩ là chuyện thiêng liêng, sau sự cố, chúng tôi tìm hiểu lại, mới biết trước chúng tôi, cô ta đã lừa một số người khác. Nếu không kịp thời ngăn chặn và trừng trị, cô ta sẽ còn lừa nhiều người nữa, nên tôi mới tìm đến anh, nhờ giám định những thứ này, để có bằng chứng pháp lý, khởi tố và truy bắt tội phạm.
Bùi Tiến Quý nói:
- Việc giám định để cơ quan có trách nhiệm truy bắt hay khởi tố tội phạm, với chúng tôi không khó khăn, tôi sẽ cho làm ngay. Khoảng hơn chục năm gần đây, xuất hiện những nhà ngoại cảm tuyên bố có thể gọi hồn, giao lưu với người cõi âm, và có những linh cảm hoặc nhìn nhận đúng về người, vật và những hiện tượng nằm ngoài khả năng nhận biết thông thường của đời sống. Trước đây, tất cả những chuyện này bị gọi chung là mê tín dị đoan, bị đả phá, thậm chí những người này còn bị bắt đi cải tạo. Nhưng thực tế, không riêng Việt Nam mà cả các nước văn minh hàng đầu thế giới cũng phải thừa nhận thực tế có những người có thể giao tiếp với cõi âm, nên Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đã lập ra hai viện khoa học, chuyên nghiên cứu về đề tài này. Số nhà ngoại cảm, nghe lan truyền, phóng đại, tưởng rất nhiều nhưng thực tế không nhiều đến mức không thể biết hết. Nói cách khác, ai có năng lực thực tế và ai lợi dụng lời đồn đại thì với trách nhiệm tìm hiểu và nghiên cứu, Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng và Tiềm năng Con người và bên chúng tôi đều biết cả. Nên cô Tư Bông này, chủ ý tìm thì cũng dễ gặp, nếu anh chị đã quyết.
- Chúng tôi quyết tìm, nhằm để cơ quan pháp luật ngăn chặn, không để cô ta tiếp tục đi lừa nhiều người khác.
- Thế thì chuyện đó coi như xong, chỉ cần tôi cung cấp cho anh chị kết quả giám định nữa thôi. Nhân cuộc gặp này, theo tôi, ta nên bàn thêm về việc anh chị có còn quyết tâm tìm hài cốt anh Nguyễn Minh Khôi hay không?
- Tất nhiên là vẫn muốn, nhưng giờ chúng tôi không tin có thể tìm được.
- Đặc điểm của các nhà ngoại cảm mà chúng tôi nghiên cứu: có người xuất thần bộc lộ khả năng, có người nhờ chuyên tâm nghiên cứu tìm tòi, có người thì khả năng chỉ xuất hiện một thời gian rồi mất… Mình là người có nhu cầu, thì điều quan trọng là phải tìm đúng người có năng lực thật sự. Nếu anh chị vẫn muốn tìm hài cốt anh Khôi, tôi sẽ giới thiệu một người. Anh chị đồng ý thì chúng tôi cũng coi như vụ này nằm trong nội dung hợp tác và nghiên cứu của Viện.
- Người đó hiện ở đâu?
- Cậu này là Nguyễn Văn Lư, ở Hà Nam. Chắc anh chị sẽ bất ngờ, cậu ta chỉ mới hai mươi chín tuổi.
Tiến sĩ Bùi Tiến Quý ghi cho chúng tôi địa chỉ và nói định đi vào ngày nào thì báo cho anh biết, để anh báo cho cậu Lư.
Tưởng ở ngay Hà Nội, chứ phải đi tận Hà Nam thì hoàn toàn nằm ngoài “chương trình” của chuyến ra Bắc. Chúng tôi đồng tình một cách xã giao.
Lúc về, vợ chồng bảo nhau, về Sài Gòn, đợi vụ Tư Bông nguội hẳn rồi tính sau. Chúng tôi không nghi ngờ gì nhiệt tình của Tiến sĩ Bùi Tiến Quý, mà do cú lừa ngoạn mục của Tư Bông đã khiến nhiệt tình chạy theo thế giới ngoại cảm của chúng tôi đã giảm đi rất nhiều. Nhưng khi đến nhà chị Tâm tạm biệt để hôm sau về Sài Gòn, chúng tôi kể lại chuyện gặp Tiến sĩ Bùi Tiến Quý, vừa nghe thì cả chị Tâm lẫn Nga, con gái chị đều nói nên đi Hà Nam, vì cả hai đều đã một lần chứng kiến lễ gọi hồn ở Đông Tác, Hà Nội, thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Tiềm năng Con người, và hồn được gọi đã hiện lên thật.
Thế là chúng tôi quyết định ở lại Hà Nội, gọi lại cho Tiến sĩ Bùi Tiến Quý. Chỉ một lát sau, Bùi Tiến Quý gọi lại cho chúng tôi, báo thầy Lư đã nhận lời gặp chúng tôi và dặn chúng tôi thắp nhang bàn thờ trước khi đi. Chị Tâm sẵn sàng cùng đi, còn Vinh bận công chuyện nên không đi.
Sáng sớm hôm sau. Từ khách sạn Lê Thạch, vợ tôi nhấc điện thoại nhờ nhân viên trực tiếp tân gọi giùm xe. Chỉ chừng mười phút sau, đã có chiếc Toyota màu xanh của hãng Mai Linh đến đón. Lái xe là một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi, khá niềm nở:
- Hai bác định đi đâu ạ?
Vợ tôi nói:
- Đến cầu Kim Ngưu đón một người. Sau đó, đi tiếp Hà Nam…
- Ồ! Hà Nam là quê cháu. Hai bác về đâu ạ?
Vợ tôi lấy điện thoại di động, bật phím, rồi đọc địa chỉ vừa hiện trên màn hình:
- Thôn Đồng Mật, xã Lê Hồ, huyện Kim Bảng, Hà Nam.
Cậu lái xe reo:
- Trời! Đúng thôn nhà cháu.
Vợ chồng tôi cùng sởn da gà vì sự trùng hợp ngẫu nhiên này. Vợ tôi thì thầm:
- Liệu có phải do tối qua mình thắp nhang?
Tôi thiên về sự trùng hợp tình cờ, nhưng cũng không tin chắc, nên chỉ ngồi im.
Cái tên Hà Nam quen thuộc với chúng tôi nhiều nhất có lẽ chỉ ở câu thơ “Hà Nam danh giá nhất ông Cò” trong bài Ông Cò của Tú Xương mà chúng tôi từng phải học thuộc lòng từ năm đầu cấp hai. Sau đó, cũng có nghe tên đội bóng đá nữ Phong Phú, Hà Nam. Ngoài những cái đó ra thì khi chạy trên cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ, nhìn sang hai bên đường, toàn cánh đồng lúa và thấp thoáng những rặng tre muôn thuở của làng xóm Việt Nam, thì người lạ như chúng tôi chẳng thể nào phân biệt Hà Nam với các tỉnh vùng quê Bắc Bộ khác nhau ở điểm nào. Trời nắng gắt. Đường cao tốc nườm nượp hai chiều xe. Cái mới mẻ của vùng đất lần đầu đặt chân, cộng với tâm lý bán tín bán nghi tìm đến nhà ngoại cảm nhờ tìm hài cốt anh mình, khiến chúng tôi bồi hồi. Chúng tôi im lặng trong cảm xúc, còn cậu lái xe chứng tỏ luôn biết “chăm sóc khách hàng”:
- Quê cháu bây giờ phần lớn thanh niên bỏ làng lên thành phố, không chỉ vì nghèo mà ở thành phố sống thoải mái, có công ăn việc làm, kinh tế ổn định hơn… Chúng cháu có về quê cũng chỉ về vào dịp lễ hội, giỗ chạp, tết nhất… nên quê cháu bây giờ chỉ đông người già và trẻ con. Hai bác về thôn cháu, chắc đi lễ chùa?
Tôi hỏi:
- Cháu có biết nhà ông thầy ngoại cảm tên Lư?
- A! Cậu Lư. Cả vùng này, nói cậu Lư, ai chẳng biết. Chắc các bác đến nhờ cậu Lư tìm hài cốt người thân?
- Đại loại như vậy.
- Cháu sẽ đưa các bác đến tận nhà… Nhưng các bác có đăng ký trước không? Nếu hôm nay mới đến, có khi phải chờ mấy ngày, cháu sẽ giới thiệu nhà nghỉ để các bác nghỉ lại. Đảm bảo tương đương với nhà nghỉ ngoài phố.
Tôi hỏi dò:
- Ở cùng thôn, cháu thấy thầy Lư này có thiêng?
- Thiêng hay không cháu không biết, vì họ nhà cháu mồ mả yên ổn, nên chưa từng nhờ cậu ấy vụ gọi hồn, nhưng khách thập phương từ Nam ra Bắc, người từ nước ngoài về, cũng tìm đến, chắc cậu ấy là thứ thật. Phần nhà cháu chỉ biết cậu ấy vốn cũng bình thường như mọi người, nhưng mấy năm trước, tự nhiên một ngày mọi người đồn cậu ấy được thánh nhập, đòi gia đình lập điện thờ, từ đó, nói đâu trúng đấy, cứ như thánh thật.
Chị Tâm hỏi:
- Ở quê cháu, mọi người có tin không?
- Nói thật, lúc đầu mọi người không tin. Nhưng bây giờ phần lớn người già thì tin, còn bọn trẻ, trong đó có cháu, vẫn nghi ngờ. Không phải không tin cậu Lư, mà không tin chuyện tâm linh. Ví dụ, các cụ nói theo tâm linh thì “Ở hiền gặp lành”, ở ác thì “ác giả ác báo”, nhưng thực tế, người hiền có gặp lành không, hay càng lành càng khốn khổ khốn nạn? Còn bọn ác, đâu có bị ác giả ác báo? Có khi ông trời còn cho chúng nó sướng hơn mình.
Tôi nói:
- Cháu nói vậy, các bác đang đến tìm thầy Lư là dại à?
- Cháu đâu có ý vậy. Cháu chỉ nói những đứa không tin như cháu thì nghĩ vậy, còn những người tin như các bác và những người già ở quê cháu, có thể nghĩ ngược lại, vì các bác và các cụ ở hiền gặp lành thật.
Phải thừa nhận, đi đường dài, có một người lái xe biết “chăm sóc khách hàng” theo kiểu vô tư, tiện đâu nói đó như cậu này cũng khiến đường lạ thành quen, đường xa thành gần, nhưng ngồi từ ghế phía sau nhìn lên, ngắm kỹ cậu ta, dù chín mươi phần trăm tin việc cậu ta được nhân viên tiếp tân ở khách sạn gọi đến đón chúng tôi đi Hà Nam là hoàn toàn ngẫu nhiên, nhưng sự ngẫu nhiên đến mức cậu ta cùng huyện, cùng xã, cùng thôn với nhà ngoại cảm thì vẫn có mười phần trăm thuộc về điều kỳ lạ, không dễ giải thích.