KIÊN ĐỊNH
Năm 1958.
Trước khi lên đường gia nhập đoàn Thanh niên Xung phong Hà Nội đi mở đường Quốc lộ mới xuyên rừng núi Lào Cai sang Trung Quốc, anh Khôi rủ tôi ra bờ Hồ Hoàn Kiếm. Xế cửa nhà tôi, đối diện nhà may Tiến Thành, phía bên bờ hồ, kề bãi cỏ khuôn viên rộng mà lũ trẻ phố tôi vẫn đá bóng, là cây đa cổ thụ, bóng mát xum xuê tỏa lên mái ki-ốt tao nhã hình lục giác. Ở đó là quán chuyên bán kem và nước giải khát, chiều tối nào cũng đông khách, phần lớn là lứa trẻ, còn ban ngày vắng vẻ, thỉnh thoảng mới có vài người khách vãng lai. Hà Nội mấy năm đầu hòa bình, cả thành phố đang cố chứng tỏ là thủ đô của người lao động, ai rong chơi trong giờ hành chính là lạc lõng với nhịp sống “mình vì mọi người và vì miền Nam ruột thịt”. Anh Khôi đưa tôi ra bộ bàn ghế cóc đóng vụng về vì tình trạng thiếu gỗ, cạnh gốc đa, như hai kẻ rong chơi. Anh mua kem cho tôi ăn, còn anh uống nước chanh. Bình thường khi có tiền từ thù lao dạy võ ở Nhu Việt, nhuận bút ít ỏi ở báo Tiền phong, hay Thiếu niên Tiền phong, anh thường vui vẻ đãi tôi, thằng Vinh và mấy đứa em con mẹ kế ăn kem, nhưng lần này chỉ riêng tôi được ưu ái, còn nét mặt anh có vẻ quan trọng. Tôi đoán có thể anh đang xúc động trước khi đi xa nhưng hóa ra không phải. Anh hỏi tôi về Danh Huyền, điều mà lâu nay không thấy anh để tâm tới.
- Huyền hồi này thế nào? - Anh hỏi.
- Nó vẫn là một trong ba đứa học giỏi nhất lớp.
- Anh muốn hỏi về tâm lý kia?
Tôi như đứa học trò không thuộc bài. Tất cả những câu hỏi về tâm lý bọn con gái lúc đó đều quá sức đối với tôi. Vì những năm học cấp một, cấp hai, thậm chí, lên cấp ba, bắt đầu tuổi thanh niên, tôi ham mê đá bóng và nghịch ngợm với bọn con trai hơn để ý bọn con gái. Nếu nói không biết trong lớp đứa nào đẹp, đứa nào xấu, đứa nào giỏi, đứa nào dốt, đứa nào mình thinh thích, đứa nào chỉ nhìn đã thấy ghét là nói dối, nhưng tất cả đều không lưu lại trong tôi chút bận tâm nào nhiều hơn những trận bóng đá, những trò tinh nghịch. Tôi với Huyền cũng vậy. Từ khi gặp lại nhau ở trường phổ thông cấp hai - ba Hà Nội, số của tôi giống như hồi tiểu học, vẫn bị ngồi bàn cuối góc trong, lý do là thầy Tám chủ nhiệm nói tôi “lười giơ tay phát biểu”, còn Huyền vẫn luôn được ngồi bàn đầu, ngay cửa lớp. Mang tiếng là hai đứa từng học cùng lớp, từng gần nhà, cùng phố, rồi hồi lớp sáu, tôi còn được Huyền bồi dưỡng vào Đội Thiếu niên Tiền phong, nhưng càng về sau, Huyền càng xa cách. Đôi lúc đụng mặt trong giờ ra chơi hay ở cổng trường, trước sau như một, Huyền nếu không lạnh tanh như không quen biết thì cũng len lén lườm lườm. Nên khi nghe anh Khôi hỏi, tôi phải cố hết sức để nhìn nhận đúng về cô bạn cùng lớp.
- Em thấy cuối năm lớp sáu, sang lớp bảy, hình như nó buồn hơn.
- Em có biết tại sao không?
- Trước đây nó và Bảo Còi vẫn thay nhau đứng đầu lớp. Bây giờ đứng đầu lớp lại là thằng Hạo, nó có khi tụt xuống thứ sáu, thứ bảy, nên nó đau khổ.
- Nó còn vẽ báo tường?
- Vẫn. Cô Vinh dạy vẽ khen nó có năng khiếu hội họa, nhưng có lẽ do thất bại trong cuộc chạy đua đứng đầu lớp, nên nó vẽ dở hơn trước.
Anh Khôi lắc đầu:
- Hóa ra em chẳng hiểu gì về Huyền cả. Chuyện gia đình Huyền, nếu anh không đi Thanh niên Xung phong, anh vẫn sẽ giấu em, nhưng vì sắp đi, anh buộc phải cho em biết, nhưng em phải tuyệt đối giữ bí mật, không để lộ cho bất cứ ai, kể cả bố.
Tôi ngồi im với tia nghĩ chạy nhanh trong đầu, kiểm xem liệu mình có giữ bí mật nổi không?
Anh Khôi nói chậm rãi:
- Thực ra hoàn cảnh của Huyền rất đáng thương. Năm ngoái, bác Danh Quỳnh, bố Huyền bị bắt về tội làm gián điệp cho Mỹ - Diệm.
- Em có nghe anh nói.
- Anh không tin. Không bao giờ tin bác ấy theo Mỹ - Diệm. Nhưng chuyện bị bắt là có thật. Vào tù, bác Quỳnh cố ý tạo bệnh, để được đưa ra bệnh viện Phủ Doãn điều trị. Từ đây, nhân sơ hở, bác ấy đã trốn khỏi bệnh viện, đưa anh Danh Hùng vượt tuyến vào Nam.
Tôi bủn rủn cả người, không muốn tin lời anh Khôi.
- Biết chuyện này, anh đã đến nhà bác Quỳnh. Nhà ở ngõ Tư Đường và phòng tập Judo Nhu Việt ở Lý Thái Tổ bị nhà nước tịch thu, bác Quỳnh gái cùng Danh Vũ và Huyền dọn về ở ngõ Liên Trì. Bác ấy kể bác trai muốn đưa cả nhà đi, nhưng bác ấy, anh Danh Hoàng và Huyền không đi. Bác kiên quyết không theo Mỹ - Diệm, phản bội Tổ quốc…
Tôi nói:
- Không đi là đúng.
- Nhưng sau khi bác Danh Quỳnh đi, anh Danh Hoàng đang là bác sĩ bệnh viện Bạch Mai, bị đuổi việc, còn bác Quỳnh gái đang dạy Đại học Sư phạm cũng bị cho nghỉ.
Tôi ngạc nhiên:
- Trước bố không cho bọn em sang nhà bác Danh Quỳnh vì bác gái mở nhà thổ. Sao giờ có chuyện bác ấy dạy Đại học Sư phạm?
Anh Khôi:
- Quán bar có vũ nữ chưa hẳn đã là nhà thổ. Bác Quỳnh gái nguyên là Giáo sư Anh văn, Pháp văn, từng dạy ở đại học và trường trung học Thăng Long, nhưng dưới chế độ thực dân Pháp, người trí thức, đặc biệt là nữ trí thức bị coi rẻ, phải làm thêm nghề khác để sống, nên bác ấy mở quán bar… Nay chế độ xã hội chủ nghĩa coi trọng trí thức, đã trả lại nghề dạy học cho bác ấy… Không ai ngờ lại có chuyện xấu xảy ra… Nhưng có thể có điều gì ẩn khuất, chứ anh vẫn không tin người tử tế như bác Danh Quỳnh lại làm gián điệp, cũng như anh không tin anh Danh Hùng theo địch.
- Em cũng không tin.
- Đau xót nhất bây giờ là chuyện không tin nhưng có thật, và người đau xót hơn anh có lẽ là bác Quỳnh gái và Danh Huyền. Thực ra, gần hai năm qua, anh vẫn giấu mọi người, thường xuyên đến thăm bác, để bác bớt phần nào đơn độc khi bị xung quanh kỳ thị, nhưng bây giờ anh sắp đi rồi… Trước khi đi, anh phải nhờ hai người quan tâm giúp bác Quỳnh gái, một trong hai người đó là em.
Tôi sửng sốt:
- Em làm sao giúp được?
- Biết em giúp được, anh mới nhờ. Khi biết tin bác Quỳnh trai bị tai nạn, anh đến nhà, thấy bác gái và Huyền phải đi rửa bát cho hàng phở gần Hồ Ha-le để kiếm sống, anh về nói với chị Tâm. Chị Tâm có một tổ đan len xuất khẩu gồm mấy cô, mấy chị trong phố. Chị đồng ý chia hàng cho bác Quỳnh gái. Từ đó, anh vẫn lấy len từ chị Tâm đưa đến nhà bác ấy, rồi lấy áo đan xong về cho chị Tâm.
Tôi muốn ứa nước mắt:
- Sao em không biết?
- Quan hệ với những nhà có dính dáng đến chuyện chính trị đều nguy hiểm, rất dễ bị vạ lây, nên anh buộc phải giấu mọi người, kể cả bố. Giờ anh muốn em thay anh trong việc đưa len chỗ chị Tâm đến cho bác Quỳnh gái, sau đó, nhận áo về đưa chị Tâm.
Hà Nội những năm tháng này, hình như muốn tôn vinh các nghề lao động thủ công, trong đó có nghề đan len, nên khắp nơi các tổ đan len xuất khẩu hoạt động với khí thế bừng bừng. Nay bất ngờ được anh Khôi cho tham gia, dù chỉ là chân chạy hàng, làm sao tôi không thích.
- Việc này, em làm được nhưng sợ trước sau gì bố cũng biết.
- Có thể. Bố rất nghiêm khắc với hai tội dối trá và thất tín, nhưng nếu làm việc tốt thì dù phạm hai tội kia, bố cũng không đánh. Vụ chuồng xí ở Trần Nhật Duật, bố có đánh anh đâu.
Thấy tôi ngồi im, anh Khôi nói tiếp:
- Người thứ hai anh nhờ là anh Bá Vân.
- Anh người gầy nhỏ vẫn hay đến nhà mình chơi?
- Anh ấy là họa sĩ nổi tiếng, hiện công tác ở báo Thiếu niên Tiền phong. Nhìn thấy trước hoàn cảnh Huyền, chắc chắn sẽ không có cửa vào đại học, nên anh đưa đến gặp anh Vân. Xem một số tranh của Huyền, anh ấy bảo không cần phải học đến lớp mười, tốt nghiệp xong lớp bảy thì thi luôn vào Trung cấp Mỹ thuật. Hệ trung cấp ít khắt khe về lý lịch. Học nghệ thuật lại có học bổng cao. Nếu được đào tạo kịp thời, chắc chắn Huyền sẽ thành một họa sĩ tài năng. Hôm nay, anh có hẹn anh ấy đến đây, để anh và em cùng anh ấy đến nhà Huyền, gặp cả bác Quỳnh gái nói rõ mọi chuyện.
- Sao giờ này anh ấy vẫn chưa đến?
- Có thể anh ấy bận nên đến trễ một chút, chứ bạn anh không bao giờ sai hẹn.
Được dịp giúp Huyền và bác Quỳnh gái, tôi cũng thích, nhưng so với việc “anh hùng cứu mỹ nhân” đầy trong phim Mỹ và tiểu thuyết dịch của nước ngoài mà anh Khôi bắt tôi đọc, thì rất kém hào hùng, nên chắc chắn cái máu thích khoe khoang của tôi không thể phát huy.
Tôi ăn hết cái kem thứ năm, anh Bá Vân vẫn chưa tới. Anh Khôi tỏ ra sốt ruột. Tôi quyết định hỏi anh về chuyện tôi muốn hỏi từ lâu, nhưng ngại mang tiếng lạc hậu, nên không dám:
- Tại sao được đi học Liên Xô, anh lại chọn đi Thanh niên Xung phong?
- Em đã đọc Thép đã tôi thế đấy rồi phải không?
- Em đọc từ năm ngoái.
Anh trở nên hào hứng:
- Tuổi trẻ Việt Nam ngày nay muốn trưởng thành, muốn trở thành đại bàng trong bão táp, phải là “thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh”. Liên bang Xô Viết Xã hội Chủ nghĩa hiện đang là thiên đường của nhân loại, là nơi ai cũng mơ ước được bước chân tới, nhưng giai đoạn “lửa đỏ và nước lạnh” bên họ đã qua lâu rồi. Đi Thanh niên Xung phong chắc chắn là gian khổ, nhưng anh sẽ đứng vững trên đôi chân của mình. Còn gì hạnh phúc hơn khi một, hai chục năm sau, Việt Nam mình cũng thành thiên đường như Liên Xô, và lại có bàn tay đóng góp của mình? Và hạnh phúc hơn nữa là lúc đó, anh sẽ là một thư ký thời đại, viết về những thành quả của đất nước mà mình là người trong cuộc? Ostrovsky, Maxim Gorky, Boris Polevoi… đều có tuổi trẻ tôi luyện trong lửa đỏ và nước lạnh mà trở thành những nhà văn hàng đầu Liên Xô.
Tôi còn quá nhỏ trước một ước mơ lớn của ông anh, nên chỉ thấy anh có lý, chỉ thấy anh quả thật đang là một thần tượng lớn với những khát vọng cống hiến cho đất nước và lý tưởng tốt đẹp. Những năm đó, không riêng anh, mà hầu hết thanh niên Hà Nội và tuổi trẻ miền Bắc đều lãng mạn và ào ạt muốn nhuốm mình trong “lửa đỏ và nước lạnh” vì Tổ quốc.
- Tại sao lại không nghĩ, nếu có điều kiện, xã hội ngày càng tốt đẹp thì mười năm nữa, nếu muốn, vẫn có thể đi Liên Xô học thành kỹ sư, bác sĩ, nhưng nếu những ngày đất nước còn đầy khó khăn, còn đang nước sôi lửa bỏng vì hậu quả chiến tranh, đang cần mình, mà mình không đóng góp thì mười năm sau, cơ hội đó không còn? - Anh Khôi nói thêm.
Cuối cùng anh Bá Vân gầy nhỏ, đầu đội mũ nồi đen, mặc chiếc áo ka ki đen đầy những vết sơn dầu xanh đỏ nhếch nhác, cũng đạp xe đến. Nhưng anh không đến một mình mà đi cùng một anh bạn. Hai người cùng dắt xe từ ngoài đường đôi vào chỗ anh Khôi và tôi ngồi.
Anh Khôi trách:
- Năm giờ mười lăm phút rồi.
- Tớ xin lỗi.
Anh Vân ngồi xuống chiếc ghế cóc, uống ừng ực hết cốc nước chanh của anh Khôi, rồi mới giới thiệu người bạn cùng đi:
- Đây là anh Hoàng Khiêm, phóng viên tạp chí Nghệ thuật và Đời sống. Vì đột xuất tớ phải tiếp anh ấy để trả lời phỏng vấn của tạp chí, nên vụ Danh Huyền chiều nay, phải khất đến hôm khác… Tương lai của bọn trẻ con để lỡ hẹn vài năm cũng không sao. - Rồi anh liến thoắng giới thiệu anh Khôi với Hoàng Khiêm. - Đây là Nguyễn Minh Khôi, tuổi trẻ nhưng tài cao, còn đang học lớp tám nhưng đã là cộng tác viên ruột của các báo Tiền phong và Thiếu niên Tiền phong… - Anh nói với Hoàng Khiêm. - Mình ngồi đây phỏng vấn được không anh? Ngay bên bờ Hồ Gươm thơ mộng…
Hoàng Khiêm gật đầu:
- Chỗ này quá đẹp. - Anh ta giơ máy ảnh lên vừa ngắm, vừa bấm liền mấy pô. - Tuyệt.
Bá Vân phấn chấn:
- Theo em, tiện đây, anh phỏng vấn luôn Nguyễn Minh Khôi, một nhân vật văn võ kiêm toàn, được chọn đi học Liên Xô, được chọn đào tạo thành phóng viên, nhưng bỏ hết, đi Thanh niên Xung phong để trở thành một Pavel Corsaghin 8* của Việt Nam.
8* Nhân vật chính trong tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy.
Hoàng Khiêm trả lời nhạt nhẽo cho có lệ:
- Tuyệt vời. Nhất định tôi sẽ làm một bài phỏng vấn cho riêng cậu.
Tự biết mình là thừa, tôi nói với anh Khôi:
- Em về đây.
Anh Khôi nói nhỏ vào tai tôi:
- Em về nói với chị Tâm cho anh mấy đồng để anh trả tiền nước.
Tôi hiểu ý, nhưng vẫn hỏi thêm:
- Còn lời hẹn với bác Quỳnh và Huyền?
Anh Khôi lưỡng lự, rồi nói:
- Lát nữa ra đưa tiền cho anh, em chịu khó chạy đến nhà xin lỗi bác Quỳnh và Huyền giùm anh.
Trời ơi! Từ nhà tôi ở Lê Thái Tổ đến ngõ Liên Trì đâu có gần, nhất là với đôi chân thằng bé lớp bảy… Sự hồn nhiên này của anh khiến tôi sực nhớ lại hồi tôi và Huyền cùng làm mắc áo di động và mang cặp cho hai ông anh tập chạy với đoàn Tre Việt ở trường Đỗ Hữu Vị. Thì ra chế độ nào thì trật tự anh em vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, tôi vẫn đủ khôn để giữ cơn hậm hực chỉ nằm trong bụng: “Với bạn thì toàn nhường nhịn, nhưng với thằng em thì bắt nó phải nhường nhịn lại”.
Trong thời gian anh Khôi đi vắng, tôi phải đi bộ từ nhà ở Lê Thái Tổ tới ngõ Liên Trì, xin phép bố đến nhà bạn học nhóm, ôm chiếc cặp nhét đầy những cuộn len đưa cho bác Quỳnh gái, rồi nhận lại những chiếc áo đan xong về cho chị Tâm. Sang năm lớp tám, hoạt động bí mật này mới chấm dứt, một phần vì chị Tâm tốt nghiệp đại học ra trường, được điều đi Bình Giang, Hải Dương dạy học, tổ đan len của chị phải giải thể. Còn một phần vì bác Quỳnh gái xin được vào làm nhân viên phục vụ bàn tại một cửa hàng ăn mậu dịch trên đường Nguyễn Thái Học. Tôi và Huyền cũng không còn dịp liên hệ hay gặp nhau để làm bộ không quen, rồi lườm với nguýt vì tôi lên cấp ba, học ở trường Chu Văn An, quận Ba Đình, còn Huyền học trường Trung cấp Mỹ thuật ở quận Hoàn Kiếm.