LẦN THEO MANH MỐI
Tháng Mười năm 2009.
“Ông Khôi mất vào giữa năm 1970... trong trận đánh kéo dài nhiều ngày, khi quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tấn công vào căn cứ quân Giải phóng, trong đó có bệnh xá, nơi ông Khôi và nhiều thương binh đang điều trị, tại một khu rừng ở Svay Rieng, Campuchia, giáp biên giới Việt Nam... Trước chiến dịch 1970, ông Khôi nằm trong số người ưu tú, được lựa chọn ra Bắc để đào tạo phục vụ cho cuộc chiến lâu dài. Đoàn này đi nửa đường thì bị địch tập kích. Một số hy sinh. Một số khác, trong đó có ông Khôi, bị thương. Ông Khôi bị mảnh đạn làm dập xương ống chân, được đưa vào điều trị tại bệnh xá ở Svay Rieng, thuộc căn cứ của Mặt trận Giải phóng tỉnh Phước Long di tản sang. Tại đây, ông gặp người vợ tên Minh, là y tá của bệnh xá, chăm sóc… Trong chiến dịch 1970, bệnh xá trong rừng bị máy bay trực thăng địch tấn công, khiến nhiều người hy sinh, trong đó có liệt sĩ Khôi và người vợ y tá... Những người chết đều được chôn riêng trong rừng, gần bệnh xá. Sau giải phóng, năm 1982, hài cốt của hai mươi bảy người này đã được bốc về Việt Nam, an táng tại các nghĩa trang liệt sĩ trong nước, nhưng cụ thể ở đâu, ông Khôi nói đến rằm tháng Giêng âm lịch sang năm mới nói được...”
Tôi đưa tay tắt phím máy ghi âm, rồi nói với cậu Hùng:
- Như vậy, so với giấy báo tử ghi: “Đã an táng tại nghĩa trang mặt trận” thì lời cậu Lư bớt mung lung hơn một chút. Nhưng tại sao hai mươi bảy người hy sinh cùng một thời điểm, cùng chôn một nơi, khi đưa hài cốt về Việt Nam lại “an táng tại các nghĩa trang” mà không phải một nơi?
Vợ tôi nói:
- Hôm ở điện cậu Lư, em có hỏi câu này, nhưng cậu ấy nói: “Hồn chỉ nói như vậy”.
Sau chuyến ra Hà Nội đầy bức xúc, khởi đầu là ý định tố cáo Tư Bông với cơ quan pháp luật, kết thúc lại là gặp Tiến sĩ Bùi Tiến Quý và nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư, chúng tôi trở về Sài Gòn, được cậu Hùng đến đưa tin, anh Nhiên từ Thanh Hóa gọi điện vào nói: “Đã lấy vụn xương của bác Lãng mang đi thử ADN, có kết quả đúng là hài cốt của bác. Chín người khác ở Thanh Hóa, Nam Định, Hòa Bình, nhờ Tư Bông gọi hồn, tìm hài cốt người thân mấy năm rồi, cũng đem thử ADN, chỉ có ba trường hợp sai”. Rồi mấy hôm sau, Tiến sĩ Bùi Tiến Quý lại gửi kết quả giám định mấy thứ đồ dỏm do Tư Bông khui từ ngôi mộ giả ở Huế, khiến chúng tôi tiến thoái lưỡng nan trước những thật giả lẫn lộn.
Khi mọi thứ cảm xúc trái chiều lắng đi, vợ chồng tôi mới gọi thêm cậu Hùng đến cùng nghe lại toàn bộ băng ghi âm cuộc tiếp xúc với cậu Lư tại điện thờ ở Hà Nam, để phân tích và nhìn nhận lại sự việc. Vụ Tư Bông là một bài học nhớ đời, nên lần này, dù có sự đảm bảo của Tiến sĩ Bùi Tiến Quý, thì thận trọng cũng không thừa.
Hùng kể:
- Hôm anh từ Hà Nội gọi điện vào, em lập tức tìm cách móc nối với bạn bè, người quen là các cựu binh chiến trường miền Đông Nam Bộ xem có ai biết về một bệnh xá dã chiến năm 1970 ở vùng rừng núi bên Campuchia, gần biên giới Việt Nam, thì không ai biết. Có người đoán có thể là bệnh xá dân sự, nhưng nghe không mấy thuyết phục, vì vùng chiến sự làm gì có dân. Còn vụ bốc hài cốt hai mươi bảy người từ một bệnh xá trong vùng rừng núi Campuchia về Việt Nam năm 1982, an táng tại các nghĩa trang, hôm nay, em mới nghe lần đầu. Những nghĩa trang nào? Thuộc tỉnh nào? Cách tốt nhất vẫn là tìm gặp được chính những người trong đội bốc hài cốt về. Để em đi mày mò lần nữa, nhưng chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian.
Tôi nói:
- Tóm lại, thực tế nhất vẫn chờ đến rằm tháng Giêng sang năm như cậu Lư nói. Chơi với các nhà ngoại cảm không khác gì chơi ú tim. Cậu ta nói, bác Khôi hẹn, nhưng chỉ mình cậu ta tiếp xúc với hồn. Một chút bằng chứng để chúng ta tin hồn có về và hồn có nói điều này điều khác là hoàn toàn không có.
Hùng bảo:
- Nhưng việc lần đầu gặp nhau, lại chỉ biết bác Khôi qua họ tên, quê quán, ngày mất mà cậu ta nói được cả thầy em mặc đồ màu gụ, rồi tên chị Vân, chị Thanh là vợ anh Tuấn, chị Dung có chồng là Liên, đứa con đầu một tuổi của chị Tâm mất từ năm 1959… thì từ đâu?
Vợ tôi nói:
- Điều này đúng là kỳ lạ. Nhưng liệu... có thể nào cậu ta khiến chúng ta cùng nhìn nhận những chi tiết này từ thuật thôi miên, để đánh lạc hướng việc chính là chúng ta cần gặp anh Khôi đã không thành.
Tôi nói:
- Thì cậu ta đã nói cả anh lẫn em và chị Tâm cùng không tin nên hồn không gặp.
- Thoạt nghe câu này có vẻ có lý nhưng không phải thước đo, vì việc không thành chỉ vì không tin, đâu phải hết chuyện. Còn vụ cậu ta nói anh Khôi gặp vợ tên Minh ở bệnh xá trong rừng, trong khi anh Khôi chưa từng có vợ thì sao? Vụ muốn sớm tìm mộ phải gặp một người tên Toản và nhờ một người tên Thắng đón ngõ đều không chính xác.
Hùng nói:
- Sai thế thì hơi nhiều.
Vợ tôi quay sang tôi:
- Hay anh gọi điện thoại cho anh Bùi Tiến Quý nói về những thắc mắc của mình?
Tôi đã cầm điện thoại di động, định bấm số, nhưng rồi lại đặt xuống bàn:
- Có lẽ không nên. Nếu có sai lệch thì cũng không thể xử như trường hợp của Tư Bông, vì cậu Lư có sự bảo lãnh của anh Bùi Tiến Quý, mình bộc lộ sự nghi ngờ quá sớm là thiếu tế nhị với anh Quý. Trước mắt vẫn còn cuộc hẹn vào rằm tháng Giêng sang năm, cứ kiên nhẫn chờ xem. Qua những sự việc mình vừa trải qua, thông tin anh Khôi mất ở Huế từ Tư Bông coi như bị loại rồi. Thông tin cậu Lư quả quyết hài cốt của anh Khôi đã được bốc từ Campuchia về Việt Nam năm 1982 và chưa biết anh ấy được mai táng ở đâu, nhưng ở một trong những nghĩa trang liệt sĩ thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ vẫn có khả năng là đúng.
Hùng hỏi:
- Anh tính đi tìm à?
Tôi nói:
- Nếu tin cậu Lư, mình chỉ việc ngồi chờ đến rằm tháng Giêng sang năm, nhưng rõ ràng mình chưa tin, vì vậy chúng ta sẽ tự đi tìm. Miền Đông Nam Bộ có một trăm nghĩa trang liệt sĩ thì mới tìm không xuể, chứ trên dưới hai chục cái, cứ cho là tìm hết chỉ mất hai tháng, hoàn toàn trong điều kiện của mình.
Vợ tôi hăng hái:
- Em tán thành. Từ đầu giải phóng, ý thức đi tìm anh Khôi của anh và em là có, nhưng phải nói là vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, mình chưa quyết tâm cao, giờ chính từ vụ Tư Bông kích hoạt, mình mới có đà tìm anh ấy. Nay đã đi rồi thì đi đến cùng.
Hùng hỏi:
- Còn vụ truy nã con Tư Bông siêu lừa?
Tôi nói:
- Mình đã có đầy đủ bằng chứng pháp lý trong tay, nhưng đụng vào cơ quan luật pháp, không phải ngày một ngày hai là xong, nên cứ cho nó nợ đấy, để tập trung vào việc tìm anh Khôi đã.
Thế là vợ chồng tôi trưng dụng chiếc Toyota và cậu lái xe tên Thuần của công ty Hùng, lên đường. Đầu tiên, chúng tôi đến phòng Chính sách của Quân đoàn 4 ở căn cứ Sóng Thần, rồi sang phòng Chính sách của Quân khu 7 ở Tân Sơn Nhất. Cái khó nhất ở trường hợp anh Khôi là ngoài tờ giấy báo tử và tấm bằng Gia đình Liệt sĩ, phần có thêm chỉ toàn lời khai của người thân trong gia đình: Họ, tên, ngày sinh, quê quán, hai địa chỉ hòm thư đơn vị dựa vào thư anh viết về, đều là khi còn ở miền Bắc. Thời gian từ năm 1967, anh vào chiến trường miền Nam, hoàn toàn không có thông tin lẫn thư từ. Tuy nhiên, tại hai phòng Chính sách Quân đoàn 4 và Quân khu 7, hai sĩ quan tiếp chúng tôi vẫn rất kiên nhẫn và nhiệt tình, dành cả buổi lục tung danh sách liệt sĩ khắp các chiến trường từ các kho tư liệu và tàng thư. Rốt cuộc cũng không tìm đâu ra tên Nguyễn Minh Khôi.
Thiếu tá Huỳnh Văn Đảnh công tác ở phòng Chính sách Quân khu 7 khuyên:
- Giấy báo tử ghi hy sinh ở mặt trận miền Đông Nam Bộ, thì không thể có chuyện hài cốt ở nơi khác, nhưng sau Mậu Thân 1968, rất nhiều đơn vị tạm chia nhỏ quân về các địa phương, tránh những trận phản kích lớn. Nếu trong các đồng chí đó có đồng chí Khôi, rồi hy sinh lúc ở địa phương, thì việc thống kê không hề đơn giản, nên khó tránh khỏi việc nhầm lẫn hoặc bỏ sót.
Trung tá Vũ Hữu Bằng ở phòng Chính sách Quân đoàn 4 thì nói:
- Các đồng chí thuộc diện đổi tên và quê quán trước khi vào chiến trường miền Nam để giữ bí mật việc miền Bắc đưa quân vào miền Nam, nếu hy sinh mà không có dấu vết gì trong hồ sơ gốc hoặc không có người làm chứng, đều khó tìm, như trường hợp đồng chí Khôi.
Cuối cùng, cả hai con người nhiệt tình đều khuyên chúng tôi:
- Hai bác nếu vẫn kiên trì đi tìm, thì hoặc cố gắng tìm cho được người từng cùng đơn vị với đồng chí Khôi, hoặc chịu khó đến các nghĩa trang liệt sĩ, vì ở nơi chôn cất cụ thể, trừ những mộ vô danh, còn lại đều là tên thật.
Tôi nói:
- Nhỡ anh tôi nằm trong số mộ vô danh?
Thiếu tá Huỳnh Văn Đảnh nói:
- Cũng có một số người không có bất cứ manh mối nào về người thân, đã nhờ các nhà ngoại cảm tìm giùm, hai bác nên thử xem, chỉ có điều, đây là lời khuyên của cá nhân tôi, đừng nói với ai.
Trung tá Vũ Hữu Bằng thì nói:
- Có một số thân nhân liệt sĩ đã đưa cả nhà ngoại cảm đến đây, sau đó, họ báo đã tìm được đúng mộ liệt sĩ. Tôi có địa chỉ và số điện thoại của họ đây, hai bác thử gặp họ để tìm hiểu thật hư. Nếu là thật thì theo tôi cũng là một cách để tìm đồng chí Khôi. Đồng chí ấy hy sinh từ năm 1970, giờ đã bốn mươi năm, càng để lâu sẽ càng khó tìm.
Mấy hôm sau, vợ chồng tôi quyết định đi đến từng nghĩa trang. Trước khi đi, chúng tôi tìm gặp và gọi điện thoại cho những bạn bè và người quen là cựu binh, từng tham gia hoặc hiểu biết những trận đánh diễn ra trong năm 1970 tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ, để bắt đầu từ những nghĩa trang gần sát với thông tin ít ỏi về anh Khôi.
Đầu tiên là nghĩa trang Dầu Tiếng, Tây Ninh, rồi đến Bến Cát, Đồng Nai, trở về nghĩa trang Bình Dương, nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh, nghĩa trang Bến Dược, Củ Chi, cuối cùng là hai nghĩa trang Tân Biên và Tây Ninh. Những nghĩa trang liệt sĩ nhỏ thuộc huyện, thị xã, nằm trên đường đi, tiện hỏi thăm, rồi rẽ vào tìm, không thể nhớ hết.
Suốt hai tháng trời, từ đầu tháng Mười Một năm 2009 đến sát Tết Dương lịch, hai vợ chồng chỉ loanh quanh hết nghĩa trang này đến nghĩa trang khác. Nơi nào quy hoạch hoàn chỉnh, có bản đồ mộ chí và danh sách liệt sĩ trong hồ sơ, chỉ việc đọc hồ sơ. Ở những nơi chưa hoàn chỉnh hoặc hồ sơ lộn xộn, chúng tôi phải chia nhau phơi nắng ngoài nghĩa trang, đi đọc từng tấm bia trên hàng ngàn mộ chí. Có khi chúng tôi vừa đọc vừa khóc, bởi người chết quá nhiều, bởi hàng trăm ngàn lính hy sinh, hầu hết ở lứa tuổi mười tám đến ba mươi, quê quán khắp các vùng đất nước, nhiều nhất vẫn ở các tỉnh miền Bắc, là hàng trăm ngàn bậc bố mẹ mất con, vợ mất chồng. Tại nghĩa trang Tân Biên, mấy trăm bộ hài cốt mới được đội quy tập chuyển từ Campuchia về, còn xếp chật các giá sắt trong kho lợp tôn, chật và nóng như hỏa lò. Khi đi phải đủ tuổi, đủ cân, mới được nhập ngũ, khi về chỉ còn một bọc ni lông màu xanh lá cây bạc, chừng hai đến ba kilôgam xương trộn đất, với tên viết sơ sài. Làm sao không phát khóc. Ở đâu chúng tôi cũng thấy các nghĩa trang được chính quyền và người dân chăm chút, trân trọng. Ở đâu chúng tôi cũng được những người quản trang giúp đỡ và chia sẻ. Ở đâu chúng tôi cũng gặp những người từ khắp nơi trong nước lặn lội đi tìm mộ người thân. Và ở đâu chúng tôi cũng thấy dấu chân của những nhà ngoại cảm. Nhưng vẫn không tìm thấy tên anh Khôi.
Khi chúng tôi gần như đã quyết định bỏ cuộc thì một buổi sáng, thiếu tá Huỳnh Văn Đảnh gọi điện thoại báo:
- Bên thu thập tư liệu liệt sĩ mới bổ sung danh sách hơn một ngàn người, bác có thể đến xem, may ra có thể gặp anh bác.
Chỉ hơn một giờ sau, vợ chồng tôi đã có mặt ở phòng Chính sách Quân khu 7. Và tưởng mình đến sớm nhất, không ngờ hơn chục người đã có mặt từ trước. Có người vừa khóc, vừa dò tìm người thân trên những nghĩa trang giấy. Chúng tôi mất ba ngày để đọc kỹ từng trang hồ sơ… Vợ tôi tìm thấy tên cả những bạn học hồi học cấp ba trường Lam Sơn, Thanh Hóa, cả bạn học thời Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tôi tìm được bốn người tên Khôi: Nguyễn Lê Khôi - Hà Tĩnh, Trần Hoàng Khôi, Lê Văn Khôi - Hà Nội và Phạm Hữu Khôi - Hải Phòng. Không danh sách nào có Nguyễn Minh Khôi, Lập Chí, Minh Trí, Kim Anh, Vĩnh Phú.
Chia sẻ với nỗi thất vọng của chúng tôi, lúc tiễn chúng tôi về, thiếu tá Đảnh nói:
- Đầu tháng tới, bên sưu tầm tư liệu sẽ bổ sung danh sách khoảng hơn sáu ngàn liệt sĩ nữa, tôi sẽ lại báo hai bác. Hy vọng lần tới, hai bác sẽ gặp được đồng chí Khôi.
Chiều ngày hai mươi hai tháng Mười Hai năm 2009, sau khi từ phòng Chính sách Quân khu 7 về, chúng tôi quyết định chấm dứt cuộc tìm kiếm anh Khôi ở các nghĩa trang liệt sĩ. Vợ tôi sắm một đĩa trái cây đặt lên bàn thờ, rồi hai vợ chồng cùng thắp nhang tạ lỗi với bố mẹ và anh Khôi.
- Kính thưa các cụ tổ tiên họ Nguyễn Hữu ở Lập Chí, Minh Trí, Kim Anh, Vĩnh Phúc, nay là Sóc Sơn, Hà Nội. Kính thưa cậu, mợ và cô. Hôm nay, ngày hai mươi hai tháng Mười Hai năm 2009, chúng con xin thắp nén nhang tưởng nhớ các cụ, và xin phép các cụ, cậu, mợ, cô được thưa chuyện với anh Khôi. Anh ạ! Suốt hai tháng qua, vợ chồng em đã đi rất nhiều nghĩa trang liệt sĩ ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ, quyết tìm bằng được anh, nhưng không gặp. Có thể con đường tìm anh ở các nghĩa trang liệt sĩ có điều gì đó bất cập, nên chúng em xin lỗi anh và quyết định dừng lại. Giờ chỉ còn cách trông chờ vào nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư với cuộc hẹn vào rằm tháng Giêng năm tới. Kính mong anh thông cảm với chúng em. Nguyễn Mạnh Tuấn và Đỗ Thị Thanh (Hà Phương).
Thắp nhang ở bàn thờ xong, hai vợ chồng còn ngồi chờ tàn nhang mới xuống dưới nhà thì con gái lớn Thuận Ánh từ nhà chồng gọi điện thoại về:
- Ba anh Hưng nói chiều nay bố mẹ không đến dự sinh nhật lần hai của ông, thì ông sẽ thân chinh đưa xe đến đón.
Tôi ngạc nhiên:
- Sáng bố đã gọi điện thoại xin lỗi ông ấy rồi mà.
- Nhưng bố mẹ không đi là ông đến đón thật đấy.
Thế là chúng tôi đành phải đi.
Nhà ông Vũ Văn Giã, thông gia với chúng tôi ở đường D2, quận Bình Thạnh, cùng gốc Bắc, là dân kỹ thuật công nghệ thông tin, nhập ngũ chiến đấu ở chiến trường miền Nam, trước khi nghỉ hưu là trưởng phòng kỹ thuật Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Còn vợ chồng tôi là dân văn nghệ, báo chí, vẫn hợp tác với đài truyền hình, nên về xã giao thì mật thiết, nhưng để gọi là tri âm, tri kỷ, do hai nhà nhiều cái khác nhau, nên vẫn còn khoảng cách. Giỗ, Tết, ăn mừng bên nhà ông bà Giã cũng khác nhà tôi. Như ngày giỗ, nhà tôi mỗi năm chỉ chọn một trong hai ngày giỗ bố hoặc mẹ, đặt nhà hàng nấu và phục vụ, mời cả họ đến ăn, còn những ngày khác chỉ có vợ chồng con cái. Trong khi nhà ông Giã, một năm hàng chục ngày giỗ, ngày nào cũng họ hàng, con cháu kéo về đi chợ, nấu nướng, không khác gì đám giỗ nhà quê miền Bắc. Và khách mời những dịp này bao giờ cũng dứt khoát phải có đủ mặt đồng đội của ông thời vào sống ra chết ở chiến trường. Ngày hai mươi hai tháng Mười Hai hằng năm là ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông luôn tổ chức tiệc lớn vì coi mình vẫn còn sống sau cuộc chiến là được sinh ra lần hai. Mấy lần trước vợ chồng tôi đều bận không dự được, ông vẫn có ý trách, còn lần này bận đi tìm anh Khôi.
Lúc chúng tôi đang ngồi chờ taxi đến đón, thì chuông điện thoại di động reo. Đọc số điện thoại nơi gọi hiển thị trên màn hình, tôi nhận ra Kính, con thứ ba của mẹ kế. Kính cũng đã ở tuổi ngoài sáu mươi, đang ở An Dương, Hà Nội, nơi đặt bàn thờ chính của gia đình.
- Chuyện gì thế?
- Chiều hôm qua, em sang nhà thằng Toản ăn giỗ… Anh còn nhớ thằng Toản, con ông bà Mộc không? Nhà mình ở C10 thì nhà nó ở C8. Em với nó học cùng lớp từ cấp một đến hết cấp ba, nên hồi đó, nó vẫn sang nhà mình chơi.
- Toản thì anh không nhớ. Thời kỳ anh ở An Dương đến nay đã hơn sáu mươi năm rồi. Nhưng có chuyện gì?
Kính kể:
- Vì được mời sang ăn giỗ, em sực nhớ mình đang giữ tấm ảnh nó, nên lục tìm mang sang tặng gia đình. Nguyên do, hôm trước khi đơn vị lên đường vào Nam, bọn em được về nhà mấy ngày, nó sang rủ em cùng đi chụp ảnh kỷ niệm. Ngoài ảnh hai đứa chụp chung, nó còn chụp riêng và tặng em một tấm mặc quân phục, khổ 12 x 19 centimét. Khi hai đứa vừa chia tay, thì anh Thảo, thương binh từ chiến trường miền Nam ra điều trị thương tật, được anh Khôi nhờ mang năm cuốn nhật ký và lá thư anh Khôi viết kèm, đến nhà mình. Do thư không có phong bì đã nhàu nát, chữ bằng mực bút máy mờ nhòe, nên tiện có tấm ảnh thằng Toản tặng còn để trên bàn, em lật mặt sau, ghi lại số hòm thư còn đọc được từ lá thư của anh Khôi vào đó để nhớ, rồi chuyện lâu quá, quên khuấy. Giờ biết anh đang quyết tìm anh Khôi, em cung cấp cho anh số hòm thư của anh ấy mà em đã ghi lại.
Tôi quýnh quáng như có luồng điện chạy trong người, vì thông tin về anh Khôi đã đến ngay sau lúc chúng tôi thắp nhang trên bàn thờ anh:
- Chú đọc đi.
Kính chậm rãi đọc:
- 86.500YK.
Tôi hỏi thêm:
- Chú có hỏi anh Thảo gặp anh Khôi ở mặt trận nào không?
- Anh ấy nói anh ấy là bộ đội địa phương còn anh Khôi bên bộ đội chủ lực, cùng ở miền Đông Nam Bộ, nhưng tình cờ gặp nhau ở một bệnh xá trong rừng bên Campuchia.
Ngắt máy với Kính, tôi chìa cho vợ số hòm thư vừa ghi:
- Vẫn là thông tin người thương binh tên Thảo nhận năm cuốn nhật ký của anh Khôi ở bệnh xá bên Campuchia, nhưng thêm chi tiết hòm thư này.
Vợ tôi hỏi:
- Em thấy anh nói chuyện với Kính có nhắc đến tên Toản, là Toản nào?
- À! Cậu này là hàng xóm cùng lứa với Kính ở An Dương.
- Liệu có dính đến tên Toản mà cậu Lư nhắc tại điện thờ nhà cậu ấy ở Hà Nam?
Tôi hơi ngớ ra. Nhưng lại nói:
- Chắc chỉ là sự tình cờ trùng tên, chứ cậu Toản này với số hòm thư Kính ghi mặt sau tấm ảnh đều không còn giá trị gì đến việc tìm anh Khôi, khi mình đã đi khắp các nghĩa trang rồi.
Chiếc taxi đến đón chúng tôi từ nhà, vừa dừng trước cổng nhà đang để mở thì vợ chồng ông Giã đã tươi cười ra đón. Ông Giã lớn hơn tôi năm tuổi, người thấp đậm nhưng chắc nịch, tướng tinh vẫn rất lính:
- Tôi đang chuẩn bị giận nếu ông bà không đến.
Tôi cũng tươi cười:
- Chúc mừng sinh nhật ông. - Thấy trong nhà khách khứa đầy đủ đã ngồi vào bàn ăn, tôi nói thêm. - Xin lỗi vì đến trễ.
Thuận Ánh đứng cùng bố mẹ chồng, thanh minh:
- Bố mẹ con vừa ở phòng Chính sách Quân khu 7 về.
Ông Giã ồn ào:
- Hai tháng trước, con Ánh cho tôi biết ông bà đang đi khắp các nghĩa trang liệt sĩ tìm ông anh… Từ ngày giải phóng, tôi đã giúp tìm hài cốt hàng trăm thằng đồng đội, nên rất có kinh nghiệm, tại sao ông bà không nhờ tôi?
- Tôi vẫn nghĩ ông là lính kỹ thuật...
- Nhưng năm tôi nhập ngũ, hàng vạn dân Bách khoa, Tổng hợp, Sư phạm, Giao thông, Xây dựng, Thủy lợi… vào chiến trường đều là lính chiến đấu hết… Muốn tìm tung tích liệt sĩ, trước tiên phải tìm đúng đầu mối. Thứ nhất là đơn vị, thứ hai là chiến trường, đánh ở đâu, trận nào, thời điểm nào, thứ ba là hòm thư. Hòm thư ở thời điểm nào rất quan trọng.
Tôi nói:
- Hòm thư gần nhất của anh Khôi thì tôi vừa mới biết.
Đưa vợ chồng tôi vào bàn ăn, trong khi tôi chào hỏi, bắt tay các vị khách đến trước, ông Giã vẫn không lạc đề:
- Là dân kỹ thuật nên hồi chiến tranh tôi thuộc lòng hơn hai trăm hòm thư. Bây giờ vừa lâu, vừa già, bị mai một, nhưng vẫn nhớ hơn trăm. Ông thử nói tên hòm thư ông anh, xem nó có nằm trong bộ nhớ của tôi không?
Tôi nói:
- 86.500YK, được cậu em tôi ghi vào năm 1969.
Ông Giã lớn tiếng:
- Tôi lấy đầu ra đảm bảo đây là hòm thư của Sư đoàn 9, biệt danh Công trường 9 để giữ bí mật quân sự. Đến năm 1968, sư đoàn vẫn cắm ở biên giới Campuchia, vùng đầu nguồn sông Vàm Cỏ Đông, sau Mậu Thân, mới dạt sang Svay Rieng, Campuchia. Năm 1970, Mỹ ném bom rải thảm, còn lính Việt Nam Cộng hòa tràn sang, đánh với ta rất ác liệt… Kết quả, chúng thất bại thảm hại.
Vợ tôi nói với tôi:
- Cậu Lư cũng nói anh Khôi hy sinh ở Svay Rieng.
Ông Giã nghe được, hỏi:
- Cậu Lư là ai?
Tôi nói:
- Là một nhà ngoại cảm. Vừa rồi vợ chồng tôi ra Hà Nội để nhờ cậu ta…
Ông Giã lại ồn ào:
- Dẹp hết… Dẹp hết… Đừng có tin bất cứ loại thầy ngoại cảm nào! Nhiều người ở quê tôi, rồi người nhà mấy thằng cùng sư đoàn dắt thầy ngoại cảm vào đây tìm hài cốt người thân, gặp tôi, đều vớ vẩn hết. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9, hiện đóng ở căn cứ Đồng Dù, Củ Chi. Ông bà đã đến Đồng Dù chưa?
- Chúng tôi chỉ đến Bộ Tư lệnh Quân khu và Quân đoàn, chứ sư đoàn làm sao đi hết được.
- Nhưng sư đoàn, trung đoàn mới gần với từng người lính. Ông bà nghe tôi, cứ đến Đồng Dù… Tuy nhiên, cũng đừng lạc quan quá… Chiến tranh kiểu Việt Nam không giống ai, nên vấn đề liệt sĩ rất phức tạp, nhưng đã đúng hòm thư này năm 1969, thì chắc chắn anh ông là lính Sư đoàn 9. Ông bà cứ lên đấy tìm, có gì trục trặc, về đây, tôi sẽ tính tiếp.
Ngay sáng hôm sau, vợ chồng tôi lên căn cứ Đồng Dù. Từ thành phố theo hướng Quốc lộ đi Tây Ninh, qua thị trấn Hóc Môn một đoạn, rồi rẽ phải là tới. Cổng lớn căn cứ cũ của quân đội Việt Nam Cộng hòa được xây lại khá hoành tráng mang tên mới: Doanh trại Quân đội Nhân dân Việt Nam. Lái xe hơi chỉ dừng báo miệng với lính gác là cần barie sơn hai màu đỏ trắng được cất lên cho khách vào. Căn cứ rộng thênh thang với các đường trải nhựa ngang dọc giữa các dãy nhà cao tầng, những hàng xà cừ và phượng vĩ lâu năm dọc các con đường, khiến căn cứ như một thị trấn nghỉ dưỡng vùng trung du, hơn là một căn cứ quân sự.
Chúng tôi tìm đến tòa nhà ba tầng gần khu trung tâm, nơi làm việc của phòng Chính sách Sư đoàn. Tòa nhà lớn rộng, nhưng cả khách lẫn chủ đều thưa thớt.
Tiếp chúng tôi là trung tá Nguyễn Văn Thịnh, khoảng ba mươi lăm tuổi. Tức là năm 1975, khi chiến tranh chấm dứt, anh mới ra đời. Thịnh tỏ ra nhã nhặn và thân thiện, khi nghe chúng tôi trình bày mục đích cuộc đến thăm. Anh đưa chúng tôi vào phòng làm việc rộng, cũng chỉ có mình anh, mời ngồi và rót nước chè nóng ra tách:
- Mời hai bác. Với số hòm thư hai bác vừa nói thì khả năng bác Nguyễn Minh Khôi ở Sư 9 rất cao. Hai bác đến vào dịp này cũng có thuận lợi là những thông tin và tư liệu về các cá nhân chiến sĩ và đơn vị, những người còn sống hoặc hy sinh kể từ ngày thành lập sư đoàn đến nay đã được vi tính hóa, nên nếu đúng, phần mềm sẽ tìm thấy ngay.
- Hy vọng chúng tôi sẽ gặp may. - Tôi nói.
- Nhưng cái khó là ngoài số hòm thư chính xác, những thông tin còn lại, các bác vừa nói đều là truyền miệng, dù sự suy diễn rất logic nhưng cũng chỉ có giá trị tham khảo. Những thông tin này nếu đúng thì không có vấn đề gì, nhưng nếu chỉ sai một chút, lệch một ly là sẽ chệch đi hàng dặm. Đụng vào trường hợp này, sẽ không khác gì sa vào thiên la địa võng, mong hai bác cũng thông cảm.
- Đồng chí an tâm. Cuộc tìm kiếm này, lúc khởi đầu còn rối hơn cả lạc vào thiên la địa võng. Nay đến đây, tìm chưa thấy nhưng gần như đã đúng mạch. Nếu có phát sinh thêm khó khăn cũng không đến nỗi mịt mù, chúng tôi chấp nhận được.
- Hai bác có thông thạo vi tính?
- Đại để chúng tôi cũng biết đọc, biết viết.
- Thế thì quá tốt. Mời hai bác đến ngồi với tôi bên bàn máy. - Trung tá Thịnh chủ động rời xa lông sang bàn đặt máy vi tính gần cửa sổ.
Vợ chồng tôi rời ghế theo Thịnh nhưng chưa nhập cuộc ngay, tôi nói:
- Khoan đã. Nhờ biết số hòm thư mà tìm đến đây là đúng rồi, nhưng tôi vẫn có điều thắc mắc.
Thịnh vừa khởi động máy vi tính, vừa hướng về tôi:
- Bác cứ nói.
Tôi trình bày:
- Trước khi đến đây, vợ chồng tôi đã ra Huế tìm ông anh vì có nguồn tin anh tôi hy sinh ngoài đó. Khi ra Huế, chúng tôi gặp một số người quen là cựu binh, từng chiến đấu ở mặt trận Huế, Quảng Trị, họ quả quyết anh Khôi cùng sư đoàn với họ, nên việc anh hy sinh ở Huế là hợp lý… Như vậy là mâu thuẫn với việc anh ấy vốn ở Sư đoàn 9 miền Đông Nam Bộ?
Trung tá Thịnh lắng nghe, rồi thận trọng hỏi:
- Liệu các cựu binh ở Huế có nhớ nhầm việc bác Khôi cùng sư đoàn? Bây giờ, sau gần nửa thế kỷ mới lần tìm lại quá khứ, nhiều bác đã lớn tuổi, trí nhớ có thể không còn tốt, không ít bác vì quá yêu thương người đã khuất, nên cứ nghĩ đó là người cùng đơn vị với mình.
- Tôi không nghĩ họ nhầm. Ban đầu, khi tôi hỏi, họ nói ngay anh Khôi cùng với họ thuộc sư đoàn tập huấn ở Mai Siu, Hà Bắc, trước khi vào Nam năm 1967. Cứ tạm cho là có sự nhầm lẫn. Thì cũng năm đó, chính tôi đã lên Mai Siu thăm anh tôi. Như vậy, có thể không hẳn là họ thật sự có biết nhau, nhưng việc cùng sư đoàn hay trung đoàn là có thật.
Trung tá Thịnh suy nghĩ một lúc, rồi nói:
- Năm 1967 đến 1975, tôi chưa ra đời, nhưng tôi nghĩ tư liệu về sư đoàn từng tập huấn ở Mai Siu, Hà Bắc trước khi vào chiến trường miền Nam năm 1967, phần mềm máy vi tính chắc chắn ghi nhận.
Thịnh thao tác vèo vèo trên bàn phím, chỉ vài phút, anh đã có “đáp số” hiện trên màn hình, rồi vừa đọc, vừa giải thích:
- Giữa năm 1967, sư đoàn Mai Siu, Hà Bắc, gồm ba trung đoàn, hành quân vào chiến trường miền Nam, tăng cường cho cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Một trung đoàn chỉ đến Huế, Quảng Trị. Một trung đoàn đi tiếp vào miền Đông Nam Bộ. Trung đoàn thứ ba xuống tận mặt trận miền Tây Nam Bộ. Như vậy, các cựu binh bác quen ở Huế nhớ bác Khôi cùng sư đoàn Mai Siu, Hà Bắc là đúng, nhưng họ nhầm ở chỗ khi cùng vào Nam, trung đoàn của họ dừng ở Huế, còn trung đoàn bác Khôi vào miền Đông Nam Bộ.
Một thanh niên ra đời trong hòa bình, cộng với sự thành thạo xử lý công nghệ thông tin hiện đại, đã phân tích về chiến tranh không kém một cựu binh từng trải, nên nỗi lo về một thế hệ trẻ không biết gì về các cuộc chiến thời cha ông có thể là thừa. Vợ chồng tôi cùng hài lòng:
- Như vậy là rõ rồi. Cảm ơn đồng chí.
Thịnh lại thành thạo lướt các ngón tay, thao tác trên bàn phím, vừa nói:
- Bây giờ sang chuyện tìm tiếp bác Khôi. Do họ và tên vừa nhiều, vừa hay trùng nhau, sẽ tìm mất thì giờ, nên ta bắt đầu tìm ở quê. Quê bác Khôi khi đi bộ đội khai ở đâu ạ?
Tôi nói:
- Lập Chí, Minh Trí, Kim Anh, Phúc Yên… hay Vĩnh Phúc, Vĩnh Phú cũng được.
Thịnh điều chỉnh con chuột và bàn phím. Trên màn hình hiện lên một loạt tên địa phương, anh cho trôi nhanh và dừng lại ở: Lập Chí, Minh Trí, Kim Anh, Phúc Yên…
- Bây giờ đến tên nhé. Tôi sẽ đọc, nhưng để khỏi sót, hai bác cũng đọc cùng, nếu thấy tên Nguyễn Minh Khôi thì nói liền.
Hàng trăm cái tên lướt chậm trên màn hình.
Vợ tôi bật khóc:
- Chỉ một thôn mà cũng chết nhiều quá.
- Đến số 315 là hết.
Tôi nói:
- Vô lý. Quê đúng đến tận thôn thì phải có tên anh ấy chứ.
Thịnh vẫn nhã nhặn:
- Vậy tôi tua lại nhé. - Anh trở lại từ đầu mục danh sách các liệt sĩ thôn Lập Chí với tốc độ chậm hơn lần trước.
Tôi lại nói:
- Không lẽ anh ấy ở sư đoàn khác?
- Hai bác bình tĩnh đi. Còn mục tên nữa. Nếu tên không có thì có thể sơ sót do thống kê, chứ đúng hòm thư thì không thể nhầm sư đoàn.
Anh chỉnh con chuột và bàn phím sang mục Họ và tên, rồi ngừng ở cột tên: Khôi. An Văn Khôi, Bùi Hải Khôi, Chu Hồng Khôi, Hà Khôi… Nguyễn Đắc Khôi, Nguyễn Duy Khôi, Trần Hoàng Khôi, Mạc Khôi, Phạm Đức Khôi… Vũ Mai Khôi… Đến tên nào, Thịnh đọc to tên ấy. Đến Vũ Mai Khôi là hết, anh hạ giọng:
- Như vậy là không có. Không có Nguyễn Minh Khôi.
Vợ chồng tôi cùng choáng váng. Mọi niềm hy vọng được gìn giữ nuôi dưỡng ở nhà ông thông gia từ tối hôm trước tan tành như mây khói. Không tin ở sự thật cay đắng, tôi mở cuốn sổ kẹp tờ giấy báo tử lúc vào đã đưa cho Thịnh, vẫn để trên bàn:
- Vậy tại sao trong giấy báo tử vẫn có tên Nguyễn Minh Khôi?
Thịnh dường như quen với đủ thứ phản biện của các đối tượng đi tìm hài cốt thân nhân, cầm tờ giấy báo tử đọc lại, rồi nói:
- Trong giấy báo tử không ghi tên đơn vị… Đây chưa hẳn là sơ sót vì nhiều khi việc báo tử cũng phải đảm bảo bí mật quân sự. Rồi vì nhiều lý do, thông tin về liệt sĩ từ mặt trận tận trong Nam về đến Bộ Chỉ huy Quân sự Vĩnh Phú để báo về gia đình cũng có những sơ sót…
Tôi thất vọng:
- Nói tóm lại, đến đây cũng thất bại… Nói thật với chú, trước khi đến đây, chúng tôi đã nhờ một nhà ngoại cảm tìm giúp, nhưng chưa tin mấy… Giờ đến đây rồi mới hiểu ra có khi vẫn phải trông ở họ.
Đôi mắt của Thịnh rất buồn:
- Hai bác có quen ai từng là đồng đội của bác Khôi?
- Anh ấy không đi bộ đội từ Hà Nội mà đi từ Hưng Yên. Trước khi anh ấy vào Nam, hai anh em gặp nhau đúng một lần, nên không quen ai cùng đơn vị anh ấy.
- Giờ hai bác cứ về, nhưng để lại cho tôi số điện thoại và địa chỉ. Tôi sẽ ráng tìm trong các cựu binh Sư 9 xem có ai biết bác Nguyễn Minh Khôi. Nếu có người biết thì sẽ ra manh mối. Nhưng tôi cũng nói trước, coi như còn nước còn tát, chứ cũng trông vào may rủi, vì những người cùng sư đoàn nay đều còn rất ít, cùng trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội chắc chắn càng ít hơn.
Chúng tôi để số điện thoại và địa chỉ lại, rồi chia tay Thịnh ra về. Một chuyến đi thất vọng hoàn toàn.
Lúc ô tô rời khỏi cổng doanh trại, vợ tôi nói:
- Tình hình này, vụ cậu Lư có khi cũng không xong.
- Tại sao? - Tôi hỏi.
- Vì người tên Toản do cậu ấy nói cũng là vu vơ.
Điện thoại di động bỗng reo. Nhìn số điện thoại, tôi biết là trung tá Thịnh:
- A lô!
Thịnh nói:
- Để hai bác về, cháu như thấy mình có lỗi. - Anh đổi cách xưng hô từ “tôi” một cách chuyên nghiệp sang “cháu”. - Có lỗi cả với bác Khôi. Cháu vừa hỏi, cảnh vệ nói hai bác vừa ra cổng. Nếu không phiền, cháu mời hai bác quay lại, chúng ta sẽ rà lại mục quê quán và tên liệt sĩ lần nữa.
Tôi nói:
- Chúng tôi và chú đã rà kỹ rồi mà.
- Nhưng nghĩ kỹ lại, cháu cũng vẫn tin bác Khôi nhất định ở Sư 9. Chúng ta sẽ rà thêm ở cột ngày sinh, cha mẹ…
Tôi liền bảo lái xe quay lại.
Vừa thấy chúng tôi rời xe, Thịnh đã ra đón. Chúng tôi cùng theo anh lên lại phòng làm việc ở lầu một.
Thịnh khởi động máy vi tính, rồi nói:
- Hai bác cùng cháu đọc kỹ nhé. Tên thì không thể có thêm Nguyễn Minh Khôi, nhưng còn cột tuổi, bố, mẹ…
Năm sinh của tất cả những người tên Khôi lần lượt trôi trên màn hình. Đến dòng “Nguyễn Duy Khôi, năm sinh 1942”, tôi nói:
- Anh tôi sinh năm 1942.
- Giờ là cột quê quán.
Thịnh chỉnh sang cột quê quán. Trên màn hình hiện lên dòng chữ: Bắc Hồng, Thụy Hà, Đông Anh, Hà Nội.
Tôi lắc đầu:
- Không phải.
Thịnh lại chuyển sang dòng Phạm Quang Khôi, năm sinh 1942, nhưng cột quê quán lại là Vĩnh Bảo, Hải Phòng, và nói:
- Sinh năm 1942 chỉ có bốn người. - Anh chỉnh tiếp sang tên Khôi sinh 1942 khác.
Cùng lúc đó, từ trong vô thức ở tôi bỗng nảy ra cảm giác quen quen với hai tiếng “Thụy Hà”. Tôi vội bảo Thịnh:
- Trở lại tên Nguyễn Duy Khôi đi.
Khi Thịnh chỉnh lại tên Nguyễn Duy Khôi, sinh năm 1942, quê quán Bắc Hồng, Thụy Hà, Đông Anh, Hà Nội, thì tôi nhớ ra, những ngày ở Trần Nhật Duật và Lê Thái Tổ, thỉnh thoảng trong năm, bố tôi có đưa chị Tâm và anh Khôi về Thụy Hà ăn giỗ. Thụy Hà ở đâu? Không biết. Bắc Hồng thì không nghe bao giờ, còn Đông Anh quá quen thuộc nhưng chưa bao giờ nghĩ nó dính líu đến mình. Thịnh thấy tôi phân vân, liền nói:
- Nếu bác không nhớ, cháu thử chuyển sang cột cha, mẹ.
Miệng nói, tay anh chỉnh luôn cho màn hình hiện cột “Bố”. Vừa thấy tên Nguyễn Hữu Lược, tim tôi muốn vỡ tung. Tiếp theo cột tên “Mẹ”, hiện dòng chữ: Đỗ Thị Lộc. Tôi đứng phắt khỏi ghế, ôm chầm và nhấc bổng Thịnh lên, vừa cười ha hả như thằng điên:
- Đúng anh tôi rồi! Đúng anh tôi rồi.
Tôi xin lỗi Thịnh, rồi chạy ra ngoài hành lang, bấm điện thoại, gọi cho chị Tâm ở Hà Nội:
- Bọn em tìm thấy anh Khôi rồi.
Từ Hà Nội, chị Tâm cũng mừng rú:
- Vẫn nhờ thầy Lư à?
- Không. Theo hòm thư của anh Khôi do Kính viết mặt sau tấm ảnh thằng Toản. Từ hòm thư, bọn em tìm đến phòng Chính sách Sư đoàn 9, nhưng tên Nguyễn Minh Khôi không có… Cuối cùng lại là Nguyễn Duy Khôi, ở Bắc Hồng, Thụy Hà, Đông Anh, Hà Nội.
Chị Tâm sốt ruột:
- Bắc Hồng, Thụy Hà, Đông Anh là quê nội nhà mình. Còn Nguyễn Duy là họ gốc của gia tộc, từ trước thời cụ nội Nguyễn Hữu Định. Khi cụ nội lập ấp ở Phúc Yên, chi Nguyễn Hữu mới tách ra… Không biết vì sao Khôi nó phải đổi khác so với lý lịch gốc?
Việc vì sao, anh Khôi lại đổi tên và đổi cả quê so với lý lịch, mãi mãi chỉ nằm trong phỏng đoán. Nhưng chính điều này khiến chúng tôi hiểu ra, hồi mấy năm đầu giải phóng, chúng tôi nhờ nhà văn Vũ Thị Hồng, thậm chí, cả trung tướng Bùi Cát Vũ, Tư lệnh Quân đoàn 4, tìm liệt sĩ Nguyễn Minh Khôi, đã không thể tìm ra.
Tôi trở vào phòng đúng lúc mọi thông tin về anh Khôi hiện rõ trên màn hình: “Nguyễn Duy Khôi, sinh năm 1942, quê quán Thụy Hà, Bắc Hồng, Đông Anh, Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Chức vụ: B trưởng. Nhập ngũ năm 1967 tại Hưng Yên. Đơn vị: C3. D4. E2. F9. Hy sinh: 23/5/1970, tại Svay Rieng, Campuchia. Đã quy tập hài cốt về nghĩa trang liệt sĩ trong nước năm 1982”.
Vợ tôi đang hỏi Thịnh:
- Tại sao giấy báo tử lại ghi ngày mất mười hai tháng Ba năm 1970?
Thịnh nói:
- Chuyện này đôi khi vẫn có thể xảy ra, vì một đằng là thông báo ngay tại chiến trường, còn một đằng sau khi chiến dịch kết thúc mới báo cáo kiểm lại quân số, chỉ cần một bên sơ sót là ra hai ngày khác nhau.
Tôi lại hỏi:
- Hài cốt được đưa về Việt Nam thì ở nghĩa trang nào?
Thịnh nói:
- Các trường hợp hoàn tất khai quật hài cốt, rồi di chuyển từ A đến B đều có biên bản ghi rõ thời gian, địa điểm. Những trường hợp còn nằm trong dự tính di chuyển, hoặc di chuyển đến địa điểm mới nhưng nơi đó chưa hoàn tất việc tiếp nhận hay mai táng, hoặc vẫn còn trục trặc về tên tuổi, quê quán, đơn vị, thì trong biên bản tạm bỏ trống nơi đến, nên chưa được cập nhật vào đây.
- Vậy chúng tôi sẽ tìm anh tôi ở đâu?
Thịnh nói:
- Đội quy tập hài cốt liệt sĩ ở Svay Rieng, Campuchia do Tỉnh Đội Tây Ninh phụ trách, hai bác chịu khó đến văn phòng Tỉnh Đội Tây Ninh hỏi, chắc chắn họ sẽ biết.
Khi chia tay, trung tá Thịnh tiễn chúng tôi xuống tận thềm tam cấp lối lên cầu thang tầng trệt, rồi cùng ra tận xe hơi. Tôi vào xe rồi, vẫn thấy vợ tôi đứng nhỏ to với Thịnh một lúc mới lên xe.
- Em còn hỏi thêm chuyện gì?
Xe chạy một đoạn, vợ tôi mới miễn cưỡng nói:
- Em đưa năm triệu, nhưng cậu ấy nhất định không nhận.
Tôi nóng mặt:
- Có phải chuyện gì cũng thanh toán bằng tiền đâu.
Vợ tôi nói:
- Mình phiền cậu ta suốt từ tám rưỡi sáng đến gần hết buổi chiều. Thông tin về anh Khôi hôm nay là vô giá, trong khi gần hai tháng nay, anh và em đi khắp các nghĩa trang, riêng tiền xăng, tiền ở khách sạn và tiền ăn, đã hơn hai chục triệu, chưa kể vụ bị con Tư Bông lừa ra Huế, nay bồi dưỡng cho cậu ta năm triệu còn là ít… - Rồi vợ tôi nói thêm. - Cái mệt mỏi nhất của đời sống hôm nay là không biết nên đánh giá con người thế nào?
Rời căn cứ Đồng Dù, chúng tôi đi ngược lên Tây Ninh. Ở Tỉnh Đội Tây Ninh, đã cuối giờ làm việc nhưng chúng tôi cũng được viên thiếu tá trực ban đón tiếp một cách tôn trọng. Anh cho biết từ nay đến Tết, các đội quy tập hài cốt liệt sĩ đều ở cả bên Campuchia để cố gắng đưa hài cốt các liệt sĩ về trước Tết, nên phải đợi đến sau Tết chúng tôi mới có thể gặp những người phụ trách. Anh cũng cho chúng tôi biết tên sĩ quan phụ trách và số điện thoại, để có thể liên lạc trước khi lên gặp.
Trên đường từ Tây Ninh về Sài Gòn, trời bắt đầu xâm xẩm. Suốt một ngày đi đường và giao tiếp toàn những việc căng thẳng, tiêu hao khá nhiều sức lực tuổi thất thập cổ lai hy của hai vợ chồng, nhưng có lẽ sự mệt mỏi bã bời lại nằm ở chỗ, sau những thông tin vô giá về anh Khôi, kết cục vẫn là chưa biết hài cốt anh hiện ở đâu, nên thay cho niềm vui mừng bột phát vẫn là sự trầm lại khi nghĩ về anh. Cuối cùng thì mơ ước được trở thành đảng viên Đảng Cộng sản của anh cũng đạt được. Và bao nhiêu năm phấn đấu cật lực ở Thanh niên Xung phong, rồi đoàn Khảo sát Thủy Lợi, giỏi và xuất sắc đến đâu, vẫn chỉ là cấp phó, thì sau cùng anh đã là cấp trưởng: Trung đội trưởng.
Cái giá mà anh tôi phải trả cho cái đích phấn đấu ấy liệu có quá đắt?
Tôi bỗng nhớ đến một câu trong tác phẩm văn học nào đó, mà anh Khôi bắt tôi đọc, đại ý: “Nếu nhìn vào kết quả, không có cái giá hy sinh nào không đắt, nhưng nhìn vào hành trình thì mọi hy sinh vì lý tưởng không bao giờ vô ích”. Nhớ vậy, mà hiểu anh, nhưng trong tôi vẫn buồn. Suốt chặng đường dài, không thấy tôi nói gì, vợ tôi bỗng hỏi:
- Từ số hòm thư Kính ghi sau bức ảnh của Toản, mình tìm ra chính xác đơn vị, ngày mất và nơi mất của anh Khôi. Như vậy, cậu Toản này với cậu Toản do cậu Lư nói không phải tình cờ?
- Nếu không tình cờ đến nhà ông Giã thì mọi chuyện vẫn mù mịt...
Miệng nói vậy, nhưng lòng tôi vẫn phải thầm thừa nhận lời cậu Lư, “Muốn tìm liệt sĩ Khôi phải nhớ gặp một người tên Toản”, không hề vô tình.