← Quay lại trang sách

LÝ TƯỞNG VÀ TƯƠNG LAI

Năm 1965.

Những năm tháng phải sống xa nhà, xa Hà Nội, điều sợ hãi nhất với tôi là Tết. Tôi ra Quảng Ninh vào ngày mười lăm tháng Tám năm 1963. Cùng là đoàn Thanh niên Xung phong tháng Tám Thủ Đô, nhưng hàng chục đoàn khác nhau đều từ một trăm đến vài trăm người, được chia về các nông, lâm trường, công trường giao thông, công trường muối… của từng tỉnh miền núi, miền biển. Đoàn chúng tôi chỉ có mười lăm học sinh của mấy trường Chu Văn An, Trưng Vương, Đoàn Kết của Hà Nội, học nghề cơ giới trồng rừng, đóng tại trạm cơ giới Dốc Đỏ, Đông Triều, thuộc Ty Lâm nghiệp Quảng Ninh. Tết đến, toàn trạm gần trăm thợ thuyền biến hết về quê. Các bạn cùng đoàn đều về nhà. Riêng tôi, về Hà Nội thì không còn nhà, ở lại trạm thì bơ vơ. Tôi nghĩ đến anh Khôi cũng đang bơ vơ ở Hưng Yên. Khi đại lộ thông Trung Quốc trên Lào Cai làm xong, đoàn Thanh niên Xung phong giải thể, mỗi người đi một nơi, anh được phân về Đội 5, thuộc đoàn Khảo sát Tổng cục Thủy lợi, trước vào tận Nghệ An, sau chuyển ra đóng ở ngoại vi thị xã Hưng Yên.

Sáng hai mươi chín Tết. Trời mùa đông lạnh buốt. Tôi đạp chiếc xe cuốc Liên Xô, từ Dốc Đỏ, Quảng Ninh về Hải Phòng, rồi từ Hải Phòng về Hưng Yên. Sau đó, vừa đi vừa hỏi, mới đến một bến đò, trên bến dưới thuyền, nhưng vắng vẻ, có lẽ do sắp đến Tết. Hóa ra Đội khảo sát 5 của anh Khôi, mà anh là đội phó, ở trên một chiếc thuyền. Tôi đứng trên bờ gọi với xuống.

- Anh Khôi à?

Trong lòng thuyền có ba người mặc áo bông to sụ, đang đánh bài. Một người thò đầu ra:

- Khôi có khách đang ở trên bờ, ra nhà trọ mà tìm.

Tôi vừa quay lên thì kinh ngạc không nói được lên lời, khi thấy anh Khôi, tay xách một bị cói, đang cùng Danh Huyền và anh Bá Vân trên đường sắp rẽ xuống bến.

Anh Khôi vui vẻ:

- Em đến lúc nào?

Danh Huyền hai má ửng hồng, không rõ nhờ lạnh giá mùa đông, hay do cũng bất ngờ khi thấy tôi, nhưng cũng gượng cười:

- Tuấn bây giờ cao lớn hơn cả anh Khôi.

Anh Bá Vân bắt chặt tay tôi:

- Trông mày như thợ mỏ rồi. Bắt đầu chào chị dâu tương lai đi là vừa.

Thấy tôi ngơ ngác, anh nói thêm:

- Mày chưa biết anh mày với Danh Huyền yêu nhau lâu rồi hả?

Anh Khôi đưa Danh Huyền, Bá Vân và tôi xuống thuyền, lớn tiếng với đám ba người đang đánh bài trong lòng thuyền:

- Ba thằng biến đi đâu thì đi, hôm nay tao có khách. - Rồi anh chỉ vào tôi. - Đây là thằng Tuấn, em ruột tao, Thanh niên Xung phong ở Quảng Ninh về.

Chờ ba người trong thuyền lên bờ xong, anh mới cùng chúng tôi chui vào khoang. Ngoài trời đang nắng chói, nhưng trong khoang hơi tối. Anh Khôi vừa thắp cây đèn măng sông treo lên mái thuyền, khiến khoang thuyền sáng bừng, vừa nói với tôi:

- Hiện tại, anh và Huyền yêu nhau như Pavel với Tonya trong Thép đã tôi thế đấy, còn tình bạn giữa anh với anh Bá Vân như Dương Lễ với Lưu Bình, nên anh phải treo cây đèn này để chứng tỏ tình yêu của anh với Huyền và tình bạn của anh với anh Bá Vân luôn trong sáng như ban ngày.

Danh Huyền nhìn tôi:

- Tuấn có bị bất ngờ?

- Quá bất ngờ.

- Vậy từ nay, Tuấn phải gọi tớ là chị đấy.

- Cũng tốt chứ sao.

“Cũng tốt” có nghĩa là miễn cưỡng. Có một chị dâu tuy chỉ bằng tuổi mình, nhưng xinh đẹp, học giỏi là tốt, nhưng giữa lúc phong trào “Ba khoan” - khoan yêu, khoan cưới, khoan đẻ - rầm rộ và nghiêm ngặt như luật pháp, mà Huyền, mới mười sáu tuổi, đang ngồi ở giảng đường trường Trung cấp Mỹ thuật, đã yêu, tôi phải thêm chữ “cũng” để chứng tỏ mình vẫn khách quan.

Anh Khôi cuộn chiếc chiếu hoa cũ mà trước đó ba người thợ ngồi đánh bài, trải một chiếc chiếu hoa mới xuống lòng thuyền:

- Chiếu này chỉ khi tiếp cấp trên, đoàn trưởng, mới trải, nhưng đội trưởng về quê ăn Tết, nên chủ vắng nhà, gà mọc đuôi tôm, mang ra trải để tiếp bạn Hà Nội.

Rồi anh đặt chiếc túi cói lên giữa chiếu, một chai rượu nhỏ loại một phần ba lít, một cái bánh chưng, một khoanh giò lụa và mấy bọc đồ ăn đều gói bằng lá chuối:

- Hôm nay, coi như ăn Tết sớm, vừa đón thằng Tuấn, vừa chia tay để Bá Vân và Danh Huyền về Hà Nội.

Danh Huyền dường như quen thuộc với con thuyền, ra đuôi thuyền, lật ván sạp, bóc bánh chưng, lấy ra một lô bát, đĩa, đũa, thìa, bày ra chiếu, rồi trút các bọc thịt gà luộc, lòng lợn, rau sống ra các đĩa.

Anh Bá Vân gầy nhỏ vẫn đội chiếc mũ nồi đen, đánh chiếc áo khoác ka ki đen dài, đầy các vết thuốc màu, khoanh chân bằng tròn, mở nút chai rượu, hít hà:

- Đúng quốc lủi làng Vân đây. - Anh lần lượt rót đầy hai chiếc chén gốm nhỏ vẫn dùng uống trà, đặt trước mình và anh Khôi. Đến chén thứ ba, anh đưa Huyền. - Từ hôm đến đây, em nhất định không uống, nhưng hôm nay dứt khoát phải cạn chén với Khôi, để bõ công anh đạp xe từ Hà Nội chở em lên đây.

Huyền nhận chén rượu:

- Dù đã nói chưa bao giờ uống rượu, nhưng anh kể công thì em nhận, nhưng nói trước, chỉ nhấp môi thôi đấy.

Bá Vân rót và đưa tôi một chén:

- Mày cũng phải uống để chúc mừng anh mày và chị dâu tương lai.

Lòng thuyền khi vào phải chui, khi đứng phải cúi, nhưng ngồi cũng thoáng. Diện tích đáy khoang rộng chừng ba mét, dài năm mét, có hai dãy cửa sổ hai bên, kề ngay mặt sông, vừa tầm mắt nhìn rộng ra cảnh quan trên bến, dưới thuyền, vừa dân dã, vừa lãng mạn.

Hóa ra Danh Huyền và Bá Vân đã ở Hưng Yên với anh Khôi ba ngày. Ban ngày, anh Khôi đưa bạn đi chơi trên sông, thăm danh lam thắng cảnh, đến nhà người quen, vì anh ở đâu cũng quen thân rất rộng. Tối đến, anh Khôi ngủ dưới thuyền với ba người trong đội, còn Bá Vân và Huyền ngủ nhà trọ trên phố. Chiều nay, Bá Vân và Huyền phải về Hà Nội, để có mặt ở nhà trước ngày ba mươi Tết.

Ở chơi với nhau ba ngày, dường như có chuyện gì, họ đã nói hết với nhau, nên bữa ăn, chỉ có anh Bá Vân sẵn chất nghệ sĩ ngấm trong máu, rượu vào lời ra, say sưa độc thoại:

- Xét về lý tưởng, mày đẹp hơn tao trăm lần. Xét về sự trong sáng, mày cũng hơn tao ngàn lần. Nhưng sống mà không có chút thực tế nào như mày, thì tương lai của mày chỉ bằng một phần trăm so với tao. Tại sao hàng ngàn thằng mong đi học Liên Xô, thiên đường của Chủ nghĩa Xã hội mà không được, mày được đi lại không đi? Tại sao được chọn đi học đào tạo thành phóng viên báo Tiền phong, mày lại yêu cái nơi khỉ ho cò gáy ở Lào Cai, còn bây giờ ở cái đáy thuyền này, mày không khác gì Hỗn Giang Long Lý Tuấn trong Lương Sơn Bạc?

Anh Khôi kiên quyết không nhấp một ngụm rượu, chỉ cười:

- Khôn, dại ở đời là chuyện vô cùng. Hiện tao đang rất bằng lòng với những gì mình có, nên tao đã giao hẹn không nói những chuyện đó trước mặt thằng mới vào đời là thằng Tuấn rồi mà.

Anh Bá Vân càng cao giọng:

- Tao cứ nói. Và sẽ nói hết, vì không phải lúc nào tao với mày cũng có thể gặp nhau. Mà gặp nhau, không phải lúc nào cũng nói hết được với nhau. Hiện mày đang là cán bộ trung cấp khảo sát thủy lợi, đội phó cái đội gồm mười một thằng ở khu vực Hưng Yên. Mày đi từ năm 1958 đến 1965, bảy năm trời, với một thằng năng lực trung bình, tiến như vậy là quá chậm. Mày lại là thằng xuất sắc, chỉ tiến có thế, thực chất là thụt lùi. Mày đang phấn đấu trở thành “thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh”, là đại bàng tung cánh trong bão táp. Nhưng nếu lửa thực ra không đỏ và nước thực ra không lạnh thì sao? Nhỡ bầu trời mày tưởng là bão táp, hóa ra không có gió mà toàn sương mù thì mày sẽ là con dơi, chứ không thể thành đại bàng?

Anh Khôi vẫn điềm tĩnh:

- Đời một con người rất dài, mày mang cái nhất thời để so sánh với cái lâu dài thì sẽ không bao giờ gặp nhau.

Bá Vân uống cạn chén rượu thứ ba:

- Nhất thời và lâu dài có thể có nhiều chỗ không gặp nhau, nhưng kết quả thì chỉ có một. Thằng Huy Lạc học cùng lớp với mày và thằng Danh Hùng ở Đỗ Hữu Vị, là ai, mày quá rõ. Sau giải phóng, bố nó từ chiến khu về, đưa nó đi học Trung Quốc, giờ nó về làm đoàn trưởng Đoàn Khảo sát Thủy lợi, thành sếp của mày. Còn Danh Huyền chỉ mất có hai năm học Trung cấp Mỹ thuật, nay đã là một họa sĩ nổi tiếng. Nếu đi đường này, nó chắc chắn cũng đang Thanh niên Xung phong như thằng Tuấn. Ai dám bảo Huy Lạc và Danh Huyền không phải hai con đại bàng? Đó là hai kết quả không cần tranh luận, đúng không? Huyền! Em nói đi… Ba ngày ở đây, em đã thấy hết, nên em cần nói thẳng là thằng Khôi đang đi sai đường.

Danh Huyền:

- Em lại nghĩ khác anh. Chính nhờ anh Khôi khuyên nhủ, gần như bắt ép em thi vào Trung cấp Mỹ thuật, nên giờ em mới thấy mình đi đúng đường… Vì vậy, em không tin anh Khôi đã định hướng đúng cho người khác, lại có thể lựa chọn sai cho chính mình.

- Em đang yêu nó nên nghĩ vậy, chứ hai đứa lấy nhau, anh đánh cá em nghĩ khác.

Anh quay qua anh Khôi:

- Mày nghe tao đi. Người có tài, muốn phát huy hết tài năng, cần phải biết tạo thế và lực. Vị trí hiện tại của mày thế không có, mà lực cũng không, thì làm sao phát huy? Tài năng bị hạn chế thì cống hiến cũng hạn chế, mà cống hiến bị hạn chế thì giá trị con người mình luôn thấp hơn thiên hạ, thậm chí, thấp hơn cả những kẻ bất tài.

Trong lúc Bá Vân và anh Khôi tranh luận, tôi hỏi Danh Huyền:

- Tớ biết anh Khôi nhờ anh Bá Vân bồi dưỡng cho cậu để thi Trung cấp Mỹ thuật, nhưng vẫn không ngờ cậu thành họa sĩ thật.

Huyền nói:

- Anh Khôi bảo tớ không có cửa vào đại học nhưng có cửa vào trung cấp, mà trung cấp mỹ thuật là hợp. Tớ chỉ là đứa vẽ chơi, nhưng chiều anh ấy thì tớ nghe theo, chứ tớ vẫn ghi tên thi vào khoa Toán, Đại học Tổng hợp. Kết quả điểm thi thuộc hàng thủ khoa, vẫn bị đánh trượt. Như vậy, anh Khôi lo xa là đúng.

Tôi đắn đo một chút, rồi hỏi:

- Chuyện này qua lâu rồi, nhưng tớ vẫn muốn biết. Tối hôm trước khi lên đường đi Thanh niên Xung phong, tớ có đến nhà anh Bá Vân, ngủ với anh Khôi. Trong lúc đang lơ mơ, hình như tớ thấy cậu đến, nhưng rồi tớ lại không tin.

Huyền bật cười:

- Hôm đó, anh Khôi nói có đá vào đít cậu cũng không dậy. Hóa ra cậu vẫn thức à? Thực ra, tớ và anh Khôi không hẹn hò gì. Tớ cũng không biết anh ấy về. Nhưng anh Bá Vân thương bạn, đến tận nhà, chở tớ đến gặp anh Khôi, còn anh ấy đến ngủ nhà bạn. Tớ và anh Khôi ngồi với nhau suốt đêm, trong khi cậu nằm trên giường vẫn ngáy o o. Sáng sớm hôm sau, tớ tiễn anh ấy ra ga Hàng Cỏ.

- Cậu yêu anh tớ cũng tốt thôi. Nhưng cậu hiện là một họa sĩ nổi tiếng, trong khi anh Khôi, tiếng là cán bộ trung cấp, thực chất vẫn đang lang bạt như một công nhân.

- Cậu nói thế là chưa hiểu anh Khôi. Anh ấy rất có tài, nhưng không chỉ phấn đấu để phát huy tài năng cao nhất ở lĩnh vực chuyên môn mà còn phấn đấu để đạt tới phẩm chất của một người cộng sản chân chính. Con đường này, với những người thành phần công nông thì thuận lợi, nhưng với những người tầng lớp trên, nhiều khi như đội đá vá trời… Nhưng anh Khôi cũng xác định trước, đội đá mà chẳng vá được trời, thì sự quyết liệt đi tới đích cũng có giá trị hơn những kết quả dễ dàng! Anh Khôi và anh Vân khác nhau ở chỗ này, nên có cãi nhau suốt đời cũng không bao giờ đến đích.

- Nếu anh Khôi không thành công thì sao?

- Điều quan trọng là tớ vẫn sẽ yêu anh suốt đời, kể cả khi anh ấy thất bại.

Chiều hôm đó, sau khi ăn xong, Huyền dọn dẹp các thứ, rửa bát đũa, xếp gọn vào chỗ cũ. Rồi Huyền hỏi:

- Còn bánh chưng và thức ăn thừa để đâu?

Anh Khôi nói:

- Em cứ để ở mâm, mang ra mũi thuyền, cho ba cậu trực Tết với anh về ăn. Nhưng nhớ lấy lồng bàn đậy lại, không có chuột đấy.

Tôi hỏi:

- Trên thuyền cũng có chuột?

- Thiên đường cũng có chuột nữa là trên thuyền.

Anh Bá Vân ngấm rượu, cười khằng khặc:

- Đáng lẽ mày phải nói chính xác hơn: Thiên đường thì chuột cống, còn dưới thuyền chỉ có chuột nhắt.

Anh Khôi mượn xe đạp của tôi chở Huyền, cùng anh Bá Vân, đạp xe rời bến đò.

Bá Vân ngồi trên chiếc đi-a-măng, loại xe đạp đắt nhất thời đó, nói nửa đùa, nửa thật với anh Khôi:

- Tao nói thế nào mày cũng cãi, nhưng sự thật vẫn là sự thật, khi đi làm bảy, tám năm trời mà mày vẫn không có nổi chiếc xe đạp Thống Nhất để chở người yêu.

Anh Khôi cười lành:

- Mày có nói nặng hơn, tao cũng không thay đổi đâu.

Anh Khôi nói chỉ tiễn Huyền một đoạn, rồi về ngay. Mãi gần sáng, trời vẫn đầy sương mù, cái lạnh và gió buốt từ mặt sông khiến suốt đêm tôi phải co quắp cuốn chặt trong tấm chăn bông cũ mới ngủ nổi. Khi nghe tiếng người ở những thuyền bên gọi nhau í ới, tôi lờ đờ thức dậy theo. Một lúc, mới thấy anh Khôi lò dò xuống thuyền.

- Sao anh về muộn vậy?

- Vì đường xa, trời tối, ngày sắp Tết rất vắng, anh Bá Vân đã yếu, lại uống nhiều rượu, đi với Huyền không an toàn, nên anh chở Huyền về tận Hà Nội luôn.

Thấy tôi vẫn nằm, anh ngả lưng xuống cạnh tôi:

- Do đang gió mùa Đông Bắc, lúc đi thì xuôi, lúc về bị ngược gió, nên anh cũng hơi mệt.

Tôi nói:

- Vậy anh tranh thủ ngủ đi. Trời còn tối, em nằm thêm một tiếng nữa cũng được.

- Mệt thì mệt thật, nhưng chắc không ngủ được. Suốt dọc đường từ Hà Nội về đây, anh toàn nghĩ đến những lời của anh Bá Vân.

- Mấy thằng Hà Nội cùng đi với em ra Quảng Ninh, ban đầu hừng hực khí thế, về sau, cũng cùng một giọng như anh Bá Vân. Em chỉ nghĩ mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, em có nghĩ như chúng nó, cũng không chắc có kết quả như anh ấy nói.

Anh Khôi thở dài:

- Nhưng có thể anh ấy nói đúng đấy. Nếu đi học Liên Xô hay đi học khóa đào tạo phóng viên, anh sẽ có địa vị xã hội khác, sẽ có điều kiện cống hiến cho đất nước nhiều hơn là anh cán bộ khảo sát thủy lợi quèn.

- Anh có hối hận không?

- Lời của anh Bá Vân khiến anh phải suy nghĩ chứ không hối hận. Sống làm người không thể không biết suy nghĩ hơn thiệt, nhưng chỉ nghĩ đến lợi ích của mình trước khi nghĩ đến lợi ích người khác và lợi ích của cộng đồng, của đất nước là bản chất của tầng lớp tiểu tư sản. Anh đã chọn con đường làm người cộng sản, chịu hy sinh quyền lợi của mình vì người khác, vì đất nước, thì chẳng việc gì phải hối tiếc. Nhưng khi anh Bá Vân nói về tình yêu của anh với Huyền, thì anh phải tách khỏi cái chung, để nghĩ về cái riêng, đó là gia đình… Gia đình mình sẽ như thế nào trong tương lai? Tuy chưa hình dung ra, nhưng anh chắc chắn sẽ không thể hy sinh cho cái chung mãi mãi.

Tôi nói:

- Tất cả những gì em trải qua ở Quảng Ninh đều đúng với tâm sự của anh với em trong đêm mà hai anh em mình ngủ ở nhà anh Bá Vân, trước ngày em lên đường rời Hà Nội, nên em hết sức kính phục anh khi anh đã ở được tới bảy năm. Đoàn em có mười lăm đứa thì bốn đứa gia đình khá giả đã bỏ về, chấp nhận sống không hộ khẩu, không tem phiếu gạo, thực phẩm. Năm đứa lý lịch gia đình tùy cấp độ tốt, ở từ một đến ba năm, được cho về thi đại học đúng như lời hứa. Còn sáu đứa, trong đó có em, năm nào cũng đạt Chiến sĩ Thi đua nhưng đường về vẫn xa thăm thẳm…

Anh Khôi trầm giọng kể:

- Trong tiểu thuyết Trên bờ sông hoang vắng của Boris Polevoi, nhân vật Pavel Vasilyevich, sĩ quan Hồng quân chuyển ngành, được lãnh đạo tỉnh cử về một Xô viết huyện công tác. Anh phản đối đường lối kinh tế tập thể hóa một cách máy móc, khiến toàn huyện từ một vùng kinh tế nông nghiệp trù phú, biến thành các nông trang khô cằn, nghèo đói, những nông dân giỏi đều bỏ làng đi tứ xứ và bất cứ ai phê phán sai lầm, đều bị quy là phản động, bị xử tù tội. Vasilyevich cũng không ngoại lệ. Anh bị kỳ thị, bị vu cáo, rồi tù tội, bị đày lên tận Siberi quanh năm băng tuyết. Trong nhà tù, anh vẫn vững chắc một niềm tin, kiên nhẫn viết đề án kinh tế tân tiến nhất cho huyện, gửi lên các cấp tỉnh và trung ương, cho đến khi các cấp trên và quần chúng hiểu ra sự đúng đắn của anh. Không những cả huyện mà cả tỉnh và nhiều nơi khác thực hiện theo đề án của anh đều thành công. Khi được minh oan thì tóc anh đã bạc, gia đình tan nát, nhưng anh vẫn vui mừng vì chân lý cuối cùng cũng sáng tỏ. Niềm tin của anh vào lý tưởng cộng sản tuy phải trả giá đắt nhưng tinh thần cộng sản trong anh vẫn bất diệt.

Nói đến đây, anh nhìn đồng hồ đeo tay, rồi giật mình, ngồi dậy:

- Đến giờ, anh phải nấu cơm, để hai anh em ăn suốt ngày.

Tôi bảo:

- Hôm nay là ba mươi Tết. Với lại đồ ăn hôm qua vẫn còn nhiều.

- Ồ! Mệt quá nên anh quên béng đi mất. Nhưng đã dậy rồi thì vẫn cứ nấu. Bánh chưng và thịt gà thừa ở mâm ngoài mũi thuyền, để ba đứa cùng trực về ăn cho có mùi vị Tết. Tiếng là xung phong ở lại trực, chứ chúng nó cũng đều không gia đình.

Anh chui ra khỏi khoang, vừa lúi húi vo gạo dưới đuôi thuyền vừa nói:

- Hôm nay, thiên hạ ăn cỗ bàn ngày cuối năm, còn anh với em ăn Tết với Danh Huyền và anh Bá Vân chiều qua rồi, nên sáng nay, mình ăn cơm với rau lang luộc chấm tương bần, cà pháo muối và tép rang, nhưng anh đảm bảo ngon hơn cỗ ngày Tết… Ở Quảng Ninh, em có uống rượu?

- Khu vực quanh trạm cơ giới của em là các bản người Hoa, người Dao, và các làng dân kinh tế mới từ miền xuôi lên, chuyện nấu và uống rượu là tập quán của người sống chung với rừng núi, nên thợ thuyền ở trạm chịu ảnh hưởng, nhiều người uống theo, nhưng đám thanh niên Hà Nội bọn em không đứa nào uống.

Anh Khôi lấy trong sạp ra bình nhôm Trung Quốc sứt sẹo, cũ kỹ, màu rêu nhạt, giơ tôi xem:

- Đây cũng là rượu làng Vân, anh phải giấu để uống dần.

Tôi hỏi:

- Tại sao có anh Bá Vân anh không mang ra, lại phải đi mua?

Anh nói:

- Bình này đang đầy một lít, trong khi Bá Vân là con sâu rượu, để bạn vừa uống, vừa can là thiếu tế nhị, nhưng cho anh ấy uống thoải mái thì sức đâu đạp xe chở Huyền về tận Hà Nội, nên anh phải mua cái chai chỉ có một phần ba lít. Hồi đoàn Thanh niên Xung phong của anh đóng trên rừng núi Lào Cai, làm đường chung với các đơn vị bộ đội, dân công, có cả Thanh niên Xung phong Trung Quốc sang. Những đêm mùa đông rét run, cần uống rượu cho nóng người, ấm bụng, rồi những ngày mùa hè nóng nực, do lao động quá mệt, cần uống rượu cho lại sức, bọn anh cũng muốn thử. Nhưng vừa phải tôn trọng kỷ luật vừa nghĩ mình là dân Hà Nội, phải sống cao cả, không cuốn hút theo những cám dỗ tầm thường bởi rượu chè, bài bạc, nói tục, chọc ghẹo gái theo lối bình dân, nên các anh kiên quyết không uống. Và chỉ riêng chuyện không uống rượu như dân địa phương, cũng bị phê phán lên bờ xuống ruộng là không hòa mình vào quần chúng, chưa gột rửa được tác phong kiêu ngạo tiểu tư sản, là dấu vết của chủ nghĩa thực dân vẫn còn. Đến khi chuyển sang đoàn khảo sát thủy lợi, chỉ sống chung với dân chuyên lưu động, nay đây mai đó, phần lớn ở những nơi thâm sơn cùng cốc, lúc nào nhiều nhất là hai chục thằng, còn phần lớn chỉ từ năm đến mười, không chốn nương thân. Nơi nào gần khu dân cư và đóng quân lâu như ở Hưng Yên hiện nay thì liên hệ được ở nhờ nhà dân, là hạnh phúc nhất, còn với những vùng khỉ ho cò gáy, chỉ có cách dựng lều, dựng lán tạm bợ, cả tháng không thấy một bóng người. Tối đến, mấy thằng phải uống rượu với nhau làm vui, rồi không biết từ lúc nào, cái nghề đi lưu động của anh, đến đâu cũng phải nhờ vào dân, và làng bản nào cũng đầy phụ nữ, người già, nên nếu không có tí rượu với dân và không biết tán gái, lấy lòng người già thì đừng mong có kết quả dân vận. - Vừa nói, anh vừa mở nắp bình, ngửa cổ uống một ngụm, rồi đưa tôi. - Em thử đi. Chưa uống bao giờ thì nhấp một chút. Lúc nào ăn hãy tăng tốc. Uống rượu với thức ăn, dễ uống hơn. Nhưng nhớ uống cho biết và để hòa đồng, chứ đừng uống để nghiện thì sẽ làm nô lệ cho ma men.

Nể anh, tôi rót một chút rượu ra chén, vừa nhắm một chút, thấy đắng, mặt đã nóng bừng, cố gắng hết sức mới không bật ho hắt ra.

- Đúng là rượu ngon thật. - Tất nhiên, tôi nói dối.

Hai anh em đang ăn, anh đột nhiên hỏi tôi:

- Đám Thanh niên Xung phong Hà Nội lứa em rất nhiều con gái, ở các nông, lâm trường cũng không thiếu, em đã dính dáng đến chuyện yêu đương chưa?

Tôi nói:

- Hiện em chỉ phấn đấu để đi học đại học. Còn chuyện đó em chưa quan tâm.

- Cả một chút xao xuyến hay dự tính cũng không?

- Xao xuyến thì không, nhưng dự tính thì có. - Đắn đo một chút, tôi thật thà thổ lộ. - Em thích một người vợ to khỏe, cao từ một mét sáu mươi đến một mét sáu lăm.

Anh Khôi ngạc nhiên:

- Sao cao thế?

- Vì em cao một mét bảy. Hồi đi học, ở trong lớp, đứa nào cao một mét sáu mươi trở lên và chơi thể thao, em đều thích, nhưng chúng nó toàn lớn tuổi hơn em.

- Còn tâm hồn?

- Đến bây giờ, tâm hồn mình còn chưa định hình thì làm sao để ý đến tâm hồn bọn con gái. Nhưng em muốn sau này, vợ em đẻ cho em mười một thằng con trai, để lập một đội bóng đá, mà em sẽ làm huấn luyện viên.

Anh Khôi bật cười:

- Phụ nữ to khỏe bây giờ chỉ có ở nhà quê.

- Em nhất định chỉ lấy dân Hà Nội. Nhưng đó chỉ là ước mơ. Nhất định em phải có một nghề vững chắc, vị trí xã hội ổn định, mới nghĩ đến chuyện yêu đương và xây dựng gia đình.

Anh Khôi trầm ngâm một lúc, rồi nói:

- Nếu đi theo tiếng gọi tình yêu, anh và Huyền lấy nhau và sẽ có một gia đình đầm ấm.

- Em cũng nghĩ thế.

- Nhưng hai đứa lý lịch cùng có vấn đề, có thể sẽ không có tương lai. Mà tương lai mù mịt thì hạnh phúc, nếu có, cũng không mấy ngọt ngào.

- Huyền có nghĩ như anh?

- Huyền nói, “chỉ sợ vì chuyện kỳ thị lý lịch, anh và em không dám yêu và lấy nhau, chứ đã dám yêu và dám lấy, thì chẳng có gì phải sợ không có tương lai”. Tương lai của Huyền là một gia đình ấm cúng, trong khi tương lai của anh là cả một sự nghiệp và lý tưởng lớn.

Đúng lúc đó, từ trên bờ có tiếng phụ nữ gọi xuống:

- Anh Khôi! Anh Khôi ơi?

Anh Khôi vội bỏ bát đũa, nhìn lên bờ, rồi nói với tôi:

- Đây là hai đứa ở đội tuyển điền kinh học sinh của tỉnh do anh tham gia huấn luyện. Để anh ra mời chúng nó xuống thuyền cho em làm quen. Con gái Hưng Yên tuy không cao một mét sáu mươi trở lên nhưng rất xinh.

Anh chui ra khỏi khoang, gọi:

- Hai em xuống đây đã.

Đứng trên bờ là hai cô gái, một mặc áo len đỏ tuyền, một mặc áo len xanh lam có những vạch vàng phía trước, cùng đứng bên chiếc xe đạp nữ Thống Nhất màu nâu sáng, đúng là cùng khá xinh nhưng không cao.

- Anh quên hôm nay ngày gì à? - Cô gái áo đỏ hét xuống.

- Mấy hôm trước, anh đã nói với thầy Tám là anh có bạn từ Hà Nội đến. Còn hôm nay có thằng em từ Quảng Ninh về, nên mọi chuyện của đội, anh xin vắng rồi mà.

- Nếu thế, rủ luôn em anh đi.

Cô gái áo xanh nói tiếp:

- Toàn đội tập với nhau cả năm trời, được dịp Tết chụp ảnh chung làm kỷ niệm, lại vắng anh, ai cũng không chịu. Anh mà không đi, chúng em sẽ kéo cả đội đến đây đấy.

Anh Khôi đành chui vào khoang, nói với tôi:

- Hay em đi cùng với anh. Hội này, đều học sinh lớp chín, lớp mười, toàn dân thể thao, trẻ trung và vui lắm.

Tôi đành theo anh Khôi rời thuyền lên bờ. Trời rét như cắt, gió mùa đông bắc thổi mạnh, anh Khôi và tôi cùng chỉ mặc bên trong chiếc áo dệt kim Đông Xuân, còn bên ngoài là bộ đồ bảo hộ lao động, áo blu dông và chiếc quần rộng thùng thình, hai đầu gối và hai mông là miếng độn như những miếng vá lớn, cùng loại vải sợi gỗ rẻ tiền, đồng màu xanh sẫm. Bộ quần áo chẳng đẹp và cũng chẳng sang, khi hàng triệu bộ đồ bảo hộ lao động cả nước cùng giống nhau, nhưng nhiều người thuộc thế hệ chúng tôi vẫn thích mặc, cả khi đi dự lễ cưới lẫn lúc cần trang trọng, chỉ vì đó là thứ trang phục duy nhất chứng tỏ mình là “công dân” nhà nước. Tuy nhiên, khi hai anh em lên bờ, đứng bên hai cô gái trẻ đẹp, áo len màu rực rỡ, anh Khôi và tôi với bộ đồ “công dân” nhà nước chẳng khác gì hai con quạ đứng cạnh hai con công. Cũng phải nói những năm đó, con gái miền Bắc cần phải vô cùng cảm ơn các mùa đông khắc nghiệt đã ban cho họ có cơ hội mặc những chiếc áo len tự đan với đủ màu, đủ kiểu, chứ hết đông sang hè, với mỗi năm tiêu chuẩn bốn mét vải, các mậu dịch lại chỉ bán duy nhất mỗi đợt một màu, phụ nữ cả nước lập tức chấp chới khắp nơi một mốt “màu mậu dịch”. Trong khi tôi lúng túng thì anh Khôi lại hồn nhiên như mình đang là chim ưng tung cánh, giới thiệu hai cô gái với tôi và ngược lại:

- Đây là Vành Khuyên, còn đây là Thu An trong đội tuyển điền kinh học sinh của tỉnh, còn đây là Tuấn, em ruột anh, thuộc đoàn Thanh niên Xung phong tháng Tám Thủ Đô đang ở vùng mỏ Quảng Ninh, về đây ăn Tết với anh.

Anh cố ý nhấn mạnh mấy tiếng “Đoàn Thanh niên Xung phong tháng Tám Thủ Đô” và “vùng mỏ Quảng Ninh” trong khi tôi ở ngành lâm nghiệp, để nâng thêm giá trị thằng em, nhưng chẳng mấy tác dụng khi Vành Khuyên, cô gái áo đỏ, nói ráo hoảnh:

- Sao hai anh em không giống nhau?

Tôi rất ghét những ai so sánh như vậy, vì biết chắc họ sẽ giống như bác Quỳnh gái, mẹ của Danh Huyền, nói tôi xấu xí hơn anh Khôi. May quá Thu An lại nói:

- Em thấy mũi hai anh rất giống nhau.

Còn tôi, vốn là dân cơ khí, chỉ liếc một cái đã phát hiện ra biển số đăng ký gắn ở khung chiếc xe đạp Thống Nhất nữ mà hai cô bé đang đi chính là chiếc xe của anh Khôi. Nhưng tôi lờ đi.

Anh Khôi dắt chiếc xe Sputnik của tôi đang dựa ở gốc cây phượng bên bờ, xuống đường:

- Bây giờ xuất phát nhé.

Vành Khuyên thấy tôi chuẩn bị ngồi lên sau xe anh Khôi, thì nói:

- Anh chở anh Tuấn à?

Anh Khôi hỏi:

- Em muốn Tuấn chở anh?

Vành Khuyên:

- Hai nam, hai nữ cùng đi, tại sao không phải là anh chở em, còn anh Tuấn chở An? Từ đây đến trường gần chục cây số chứ có gần đâu.

Thu An cười:

- Mày thích được anh Khôi chở thì tự thú từ đầu, lại còn quanh co, lý do lý trấu.

Anh Khôi:

- Nhưng Vành Khuyên nói có lý. Gần chục cây số, các anh là con trai phải phục vụ các em là đúng. Tuấn chở Thu An đi.

Vành Khuyên hớn hở ngồi tót lên sau xe anh Khôi, hồn nhiên vòng tay ôm eo anh. Hồi đó, ngay con gái Hà Nội nổi tiếng dày dạn, ngồi sau xe cũng chưa có lối văn minh dạng hai chân hai bên, ôm bạn trai ngồi trước như Vành Khuyên. Trong khi Thu An ngồi sau xe tôi, chỉ níu ngón tay vào sau yên xe và cách tôi một khoảng xa đến nỗi tôi có cảm giác mình đang chở bao gạo chứ không phải chở người.

Vừa lên xe, Thu An đã xởi lởi như quen thân tôi từ lâu:

- Anh biết không, thực ra, thầy Tám đã nói anh Khôi xin vắng mặt có lý do chính đáng là để tiếp anh từ Quảng Ninh về, nhưng cái Vành Khuyên nó quá mê anh Khôi nên rủ em đến để lừa anh ấy đi. Ở lớp em, nó có biệt danh là Thị Màu.

- Tức là hạng lẳng lơ?

- Từ khi đóng vai Thị Màu trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” ở đội văn nghệ của trường, nó trở nên nổi tiếng, nhưng nhiều người nói do bị hồn Thị Màu nhập vào, nên đang là đứa hiền lành đoan chính, bỗng nhiên nó mang luôn tính cách Thị Màu, cứ thích đứa con trai nào là không giấu được ai. Anh nhìn nó đang áp mặt vào lưng anh Khôi đấu hót, khiến người đi đường cũng cau mặt kìa…

Tôi nói:

- Vành Khuyên có biết anh Khôi đã có người yêu?

- Biết thừa. Mấy ngày chị Danh Huyền và anh Bá Vân lên đây, khi anh Khôi bận công việc ở đội khảo sát, chính nó đưa hai người đi thăm danh lam thắng cảnh Hưng Yên. Em bảo nó: “Mày nên rút lui đi?”, nó bảo: “Tại sao phải rút, khi tao trẻ đẹp hơn? Chưa kể trong tình yêu, thứ nhất cự ly, thứ nhì mặt dày, cả hai tiêu chuẩn ấy, tao đều hơn bà Huyền”.

Chặng đường từ bến đò đến trường phổ thông cấp ba thị xã của Khuyên và An gần mười kilômét, Khuyên cố ý điều anh Khôi đi lúc nhanh hơn, lúc chậm hơn tôi, cho hai xe luôn cách nhau một khoảng xa, để cô tự do trò chuyện. Tôi cũng thích như thế để khai thác triệt để Thu An mau mồm, ruột để ngoài da, về những điều tôi chưa biết về ông anh mình.

Hóa ra từ ngày đội Khảo sát Thủy lợi 5 mà anh Khôi là đội phó về đóng ở thị xã Hưng Yên, một sáng sớm tập chạy, anh gặp thầy Tám, giáo viên dạy thể dục thể thao ở trường phổ thông cấp ba thị xã. Thầy Tám là dân Hưng Yên, nhưng hồi nhỏ lại học tiểu học ở trường Nguyễn Công Trứ, Hà Nội, có thời gian tham gia đoàn Tre Việt của anh Khôi. Sau khi học hết cấp hai, Tám thi vào Trung cấp Sư phạm Thể dục Thể thao. Ra trường, được về quê Hưng Yên dạy đúng ngành nghề. Gặp anh Khôi, như cá gặp nước. Cả hai gây dựng nên phong trào tuổi trẻ tập chạy buổi sáng ở thị xã. Cùng thời gian này, Bộ Giáo dục và Tổng cục Thể dục Thể thao chuẩn bị tổ chức Đại hội Thể dục Thể thao Học sinh Toàn quốc lần thứ nhất. Thông báo được gửi về tỉnh. Do phong trào thể dục thể thao toàn tỉnh còn yếu, kinh phí lại yếu hơn, nên chỉ chọn một trường có phong trào tốt để đầu tư và đại diện. Kết quả, trường của thầy Tám được chấm. Nhân có anh Khôi quá nhiều kinh nghiệm gây dựng phong trào, thầy đã mời anh làm trợ lý. Cả đội có tất cả bốn mươi tuyển thủ, chủ yếu là các môn điền kinh như chạy các cự ly ngắn, dài, trung bình, nhảy xa, nhảy cao, ném tạ… Vì tất cả vẫn phải đảm bảo việc học hành, nên thời gian tập chủ yếu là sáng sớm, chiều muộn và các ngày Chủ nhật, đều là thời gian phù hợp với anh Khôi, vì anh cũng không thể bỏ việc ở đoàn khảo sát. Thu An kể:

- Vành Khuyên lúc đầu không chú ý đến đội tuyển vì nó thích văn nghệ hơn. Từ lúc gặp anh Khôi, nó như bị tiếng sét ái tình, tìm mọi cách xin được tập, nhưng đều bị thầy Tám từ chối. Nó rủ em đến tận bến đò gặp anh Khôi. Em dặn trước nó: “Anh ấy dân Hà Nội, mày đừng có giở trò Thị Màu ra đấy”. Nó bảo: “Mày không phải dạy tao. Nếu giảng đạo đức, tao cũng tôn vinh Thị Kính, nhưng trong lòng dạ thì Phật cũng thích Thị Màu. Dân Hà Nội cũng thế thôi”. Hóa ra nó nói đúng. Anh Khôi vừa thấy nó đã bảo: “Đứng thẳng lên xem”. Nó đứng thẳng. Anh ấy lại bảo: “Chạy thử một trăm mét xem”. Nó chạy thử. Anh ấy nhìn ngực nó thở, rồi nói với em: “Tại sao bây giờ em mới đưa bạn ấy đến gặp anh? Chỉ nhìn đôi chân dài của Vành Khuyên, anh cũng biết bạn ấy sinh ra để cho điền kinh rồi”. Em hỏi: “Sao thầy Tám lại từ chối nó?”, Vành Khuyên nói: “Thầy ấy bảo chỉ nhìn mắt em, thầy đã thấy em thiếu ý chí. Theo nghiệp thể thao mà thiếu ý chí, chỉ nên làm khán giả”. Nó bảo với anh Khôi: “Tài năng thuộc về trò, còn ý chí thuộc về thầy, nên em bảo cái An đưa em đến gặp anh, để nhờ anh rèn luyện ý chí”. Nó bây giờ là tuyển thủ chạy một trăm mét và nhảy xa, thành tích trong luyện tập đều gần sát với kỷ lục quốc gia. Em với nó còn cùng học Judo với anh Khôi. Em học vì truyền thống gia đình. Ông nội, bố em đều là con nhà võ. Còn nó, anh Khôi dạy bay lên trời thì chắc nó cũng xin theo học.

- Theo em, lý do gì Vành Khuyên nó mê anh Khôi?

- Lý do ấy à? Con Vành Khuyên chắc chắn có lý do riêng của nó, còn em quý anh Khôi vì thấy anh ấy sống thoải mái và giàu lòng thương người. Bố em quen anh Khôi trước khi anh ấy đến trường huấn luyện đội tuyển điền kinh. Một lần lên Hà Nội thăm người bạn trước cùng đơn vị hồi chống Pháp, lúc về, mới biết chiếc xe đạp đã khóa cẩn thận dựng ở ngoài cửa bị kẻ gian lấy mất. Về nhà, bố em tiếc của, chửi dân Hà Nội mấy ngày liền. Anh Khôi đến chơi thấy vậy, tặng luôn chiếc xe Thống Nhất của mình. Chiếc xe anh đang chở em chính là xe của anh ấy. Bố em nhất định không nhận. Anh ấy nói: “Cháu ở dưới thuyền là chính. Đi đo đạc hay công tác ở gần có xe đạp công, đi xa có xe ô tô của đội. Xe cháu để dưới thuyền thì vướng, còn để trên bờ lại phải nhờ người trông, nên coi như cháu nhờ chú đi hộ”. Bố em nói: “Thời buổi đi làm mấy năm để dành mới mua được chiếc xe đạp, muốn mua một chiếc lốp hay chiếc líp, phải đăng ký cả năm mới đến lượt, mà nó cho mình chiếc xe nhẹ như không. Cái nhẹ như không ấy là cái tình vô giá”. Bố và mẹ em đều muốn gả chị em cho anh ấy, nhưng anh ấy nói, đã có chị Huyền rồi. Em kể chuyện này để anh thấy đến bố mẹ em còn mê anh ấy thì con Vành Khuyên mê chẳng có gì là lạ.

Tôi nói đùa:

- Em có mê anh ấy không?

- Em ấy à? Trước sau như một, em quyết tâm thực hiện đúng chủ trương “Ba khoan” của Đảng và Nhà nước, để dành nhiều thời gian và tâm sức xây dựng Chủ nghĩa Xã hội tươi đẹp. Hí hí hí… Mấy chị cùng phố với em nói đùa: “Muốn được như vậy, phải luyện cách nhìn bọn đàn ông, con trai như củ khoai, củ ráy”. - Thu An vừa nói vừa cười khúc khích.

Cuối cùng, chúng tôi cũng đến trường. Thấy anh Khôi và Vành Khuyên dừng xe ở cổng, cả đội tuyển hơn bốn chục người trong đó có cả thầy Tám từ sân trường ùa ra. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy tất cả đều mặc võ phục Judo trắng tuyền, tất cả đều thắt lưng màu đỏ. Vành Khuyên cười rạng rỡ:

- Anh Khôi bất ngờ chưa?

Thầy Tám thấy anh Khôi, tỏ ra thông cảm khi Vành Khuyên và Thu An đến trễ:

- Hai em vào thay đồ đi.

Anh Khôi nói với thầy Tám:

- Tôi chỉ đưa anh có bốn bộ võ phục. Anh lấy đâu ra nhiều thế?

Thầy Tám ngạc nhiên:

- Danh Huyền không nói với anh à? Về Hà Nội, ngay tối qua, cô ấy đã nhờ người anh họ chạy xe khách Hà Nội – Hưng Yên, chở lên đây tặng đội tuyển một trăm bộ. Trong thư gửi kèm, cô ấy nói: “Sau khi võ đường Nhu Việt của bố giải tán, võ phục mới của võ sinh tồn trong kho, không biết làm gì, nên gửi tặng đội tuyển, cho các em dùng để tập luyện”. Nhưng thấy toàn đồ mới, vải tốt, trong khi đội tuyển xin mãi, cả trường lẫn Ty đều nói phải chờ tỉnh duyệt mới có kinh phí may đồng phục cho đội tuyển, tôi liền trao đổi với các anh ấy, trước mắt cứ dùng mấy bộ Judo này, vừa sang, vừa đẹp. Các anh ấy đồng ý, nhưng phải thay thắt lưng đen bằng thắt lưng đỏ, để giữ bản sắc dân tộc.

Anh Khôi vui vẻ:

- Đúng là cái khó ló cái khôn, - rồi anh bảo tôi, - em cũng vào mặc một bộ, chụp ảnh chung với đội tuyển của trường làm kỷ niệm.

Vành Khuyên với Thu An đã thay đồ xong nhanh như chớp, xúng xính chạy ra sân hòa vào các bạn. Hai người thợ ảnh ngoài thị xã được mời vào chụp ảnh tất bật ngược xuôi phục vụ yêu cầu làm duyên, làm dáng của các ngôi sao thể thao tương lai của đất nhãn lồng Hưng Yên. Người thích chụp riêng, người thích chụp đôi, người thích chụp cả đội…

Khi anh Khôi mặc xong bộ võ phục trở ra cũng là lúc chiếc xe com-măng-ca chở bốn sĩ quan công an chạy thẳng vào cổng. Họ cùng lạnh lùng rời khỏi xe. Thầy Tám nhạy cảm thấy sự khác thường, chủ động ra gặp họ:

- Các đồng chí có chuyện gì?

Viên đại úy, cấp bậc cao nhất trong bốn người, nghiêm giọng nói:

- Chúng tôi cần gặp anh Nguyễn Minh Khôi.

Anh Khôi bước tới:

- Thưa! Tôi đây.

- Ai cho phép anh tổ chức dạy môn võ của phát xít Nhật ở trường?

Thầy Tám sửng sốt:

- Hình như các đồng chí có sự nhầm lẫn. Ở đây chỉ có các thành viên đội tuyển điền kinh học sinh của tỉnh. Và tôi là người chịu trách nhiệm chính chứ không phải anh Khôi.

Viên đại úy mỉa mai:

- Anh giấu đầu thì cũng phải cố mà giấu cả đuôi chứ. Anh nghĩ chúng tôi dân Hưng Yên nhà quê nên không biết bộ đồ đội tuyển các anh đang mặc của nước nào hả? Điền kinh mà mặc đồ võ thế kia để thi vật chắc?

Thầy Tám lắc đầu:

- Khổ quá. Đây vẫn là sự hiểu lầm. Nguyên nhân chỉ là tỉnh chưa duyệt kinh phí để may đồng phục cho đội tuyển, nhân có một mạnh thường quân tặng đội tuyển bộ đồ này để tập, tôi có xin ý kiến các anh lãnh đạo Ty và hiệu trưởng cho các em mặc tạm, trước mắt hôm nay để chụp ảnh kỷ niệm, nhân ngày Tết.

Viên đại úy cau có:

- Mạnh thường quân này là anh Khôi?

Vành Khuyên đứng cạnh thầy Tám, lớn tiếng:

- Anh Khôi chỉ có bốn bộ, số còn lại là của người khác.

Đám học sinh nhân cơ hội cũng nhao nhao:

- Chúng em mặc chỉ để chụp ảnh thôi.

- Nước Nhật đâu còn là phát xít.

Viên đại úy hạ giọng, nói với thầy Tám:

- Chúng tôi chỉ định đến mời anh Khôi về Ty nói chuyện về việc tổ chức dạy võ Nhật không giấy phép, nhưng anh đứng ra nhận trách nhiệm thì chúng tôi mời cả anh về Ty luôn. Ở đây đôi co trước mặt quần chúng, rất dễ gây hiểu lầm về thiện chí của công an nhân dân chúng tôi. - Anh ta như muốn làm lành với anh Khôi. - Mời anh theo chúng tôi. Nếu anh chứng minh được mình vô can, chúng tôi sẽ thành thật xin lỗi, rồi chở anh về tận nhà.

Đám học sinh lại nhao nhao:

- Ở đây chẳng có ai dạy võ cả.

- Thầy và anh Khôi đừng đi.

Vành Khuyên đáo để, xông đến trước mặt viên đại úy:

- Ai bảo các anh võ Nhật đeo thắt lưng đỏ? Muốn bắt người vì lý do gì thì nói thẳng ra. Nếu không rõ ràng, thầy và anh Khôi nhất định không đi.

Viên đại úy hóa ra biết Vành Khuyên:

- Em không nên nóng nảy. Việc đi hay không thuộc về thầy giáo em và anh Khôi. Tốt nhất em nên khuyên các bạn tôn trọng luật pháp. - Anh ta quay qua hỏi anh Khôi. - Anh có định đi không?

Thấy đám học sinh vẫn bất bình định tiếp tục phản ứng, anh Khôi bình tĩnh, nói với các em:

- Chắc có sự hiểu lầm gì đó trong chuyện này. Anh và thầy Tám lên làm việc với các đồng chí ấy xong, sẽ về thôi, các em an tâm đi. - Rồi anh nói với viên đại úy. - Các anh cho chúng tôi vào thay bộ đồ khác.

Viên đại úy:

- Đúng ra các anh phải mặc bộ đồ trái phép này để giữ nguyên bằng chứng, nhưng thôi… tôi chấp nhận linh động. Có điều trước khi thay phải cho thợ ảnh chụp, để chúng tôi lưu hồ sơ. - Anh ta nói với hai người thợ ảnh vẫn đứng trong đám đông. - Chụp hai anh này mỗi người ba kiểu.

Anh Khôi cười nhạt, chịu đứng để chụp ảnh, rồi tranh thủ lúc thợ chụp thầy Tám, anh đến bên tôi:

- Em lấy xe về Hà Nội gặp anh Lạc, nói anh ấy lên ngay Hưng Yên cứu anh.

Tôi lo lắng khi nghe hai tiếng “cứu anh”:

- Thực ra là chuyện gì?

- Họ bắt lỗi về vụ tập võ chỉ là chuyện vớ vẩn, nhưng sự việc rất không bình thường này do đâu, vẫn chưa đoán được, nên anh phải cầu cứu anh Lạc.

- Anh Lạc có đáng tin cậy?

- Anh Lạc hiện là đoàn trưởng Đoàn Khảo sát Thủy lợi, tức cấp trên của anh. Tuy anh và anh ấy có những bất đồng về tính cách, nhưng anh ấy vẫn sẵn sàng xả thân vì bạn.

- Việc đang khẩn cấp, em ra bưu điện gọi điện cho anh ấy sẽ nhanh hơn đạp xe về tận Hà Nội.

- Không được. Việc này nhất định phải gặp nói trực tiếp. Vì dính đến chuyện bắt bớ, không có gì đảm bảo em ra bưu điện sẽ không bị công an theo dõi và nghe trộm. Gặp được anh Lạc, em nhớ nói kỹ mọi chuyện.

Nghe anh Khôi nói xong, tôi như bắt đầu nhập cuộc vào một vụ trinh thám ly kỳ. Lúc anh Khôi và thầy Tám lên xe công an, nhân lúc đám học sinh chú ý nhìn theo xe, tôi lập tức rời cổng trường, mắt trước mắt sau, lấy xe đạp phóng vọt ra đường.