SỰ DẪN DẮT MÀU NHIỆM
Năm 2010.
Chuyến đi lên nghĩa trang liệt sĩ Phước Long vào rằm tháng Giêng, tìm được mộ anh Khôi nhờ tư vấn của Tiến sĩ Bùi Tiến Quý và hướng dẫn của nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư, lúc ở hiện trường, do bị cuốn vào cảm xúc tâm linh và sự háo hức hướng về anh Khôi, mọi thắc mắc phát sinh đều bị coi là nhỏ, nhưng về Sài Gòn vài ngày, thật bình tâm lại, những thắc mắc được thu nhỏ kia lại phình to lên. Điều này thực ra không có gì khó hiểu. Chúng tôi vốn được sinh ra, rồi sống trong một nền giáo dục và nền tảng xã hội vô thần, nay phải tin ngay những điều thuộc thế giới tâm linh, một thế giới đang chỉ có nhận thức một chiều, không thể dễ dàng. Và phần quan trọng nhất, nếu đúng là mộ anh Khôi, làm sao có đủ cơ sở pháp lý để phòng Thương binh Xã hội Tỉnh Bình Phước, nơi quản lý nghĩa trang liệt sĩ Phước Long, chịu làm thủ tục thừa nhận, khi mà luật pháp còn chưa hợp pháp hóa việc tìm mộ liệt sĩ bằng phương pháp ngoại cảm?
Bởi thế, chúng tôi quyết định họp “Hội đồng gia đình” để có một quyết định sáng suốt hơn về việc tìm thấy hài cốt anh Khôi. Bắt đầu thâm nhập vào thế giới tâm linh bằng những bước đi chập chững, càng đi, càng thấy đây là chuyện không thể coi thường.
“Hội đồng gia đình” chúng tôi, gồm vợ chồng tôi, vợ chồng Vân, Dật (Nhà văn Dương Trọng Dật, nguyên Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, sau là Chủ nhiệm Khoa Quan hệ Công chúng, trường Đại học Văn Lang), cậu Hùng, các con Thuận Ánh cùng chồng là Việt Hưng, Minh Trí cùng chồng là Vĩnh Phúc, và cậu con út Tuấn Phúc. Trước khi bắt đầu họp bàn, cả nhà cùng lên lầu bốn, đứng trước bàn thờ gia tộc, trong đó đương nhiên có hình ảnh anh Khôi, thắp nhang và cầu xin sự linh ứng.
Tiếp theo, Hà Phương, vợ tôi, tường thuật tóm tắt hành trình đi tìm anh Khôi, khởi đầu từ vụ vợ chồng tôi bị Tư Bông lừa ra Huế vào tháng Chín năm 2009 và kết thúc là tìm thấy mộ anh Khôi ở nghĩa trang liệt sĩ Phước Long, nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư.
Trong khi thế hệ già tham gia một cách trầm tĩnh và cẩn trọng, thì thế hệ trẻ gồm ba con gái, trai, và hai rể lại sôi nổi, vui vẻ, như thể cuộc sống hằng ngày của chúng vốn đều đều bằng lặng, nay bỗng nhiên nảy sinh một đề tài lạ, kích thích nên cảm hứng thú vị.
Tuấn Phúc, đang theo học khoa Đạo diễn, Đại học Điện ảnh Hà Nội, nói:
- Chú Bùi Tiến Quý nói thầy Lư vào miền Nam đúng một lần và ngắn ngày trong dịp đi Sóc Trăng dự đại lễ cầu hồn bên Phật giáo, nên không thể rành rẽ Phước Long, một tỉnh miền Đông Nam Bộ. Nhưng hoàn toàn có thể suy luận, từ tháng Mười năm ngoái, bố mẹ đi Hà Nam gặp thầy Lư, đến rằm tháng Giêng âm lịch năm nay mới có câu trả lời, là thời gian quá đủ để thầy Lư vào nghĩa trang Phước Long, thu xếp được mọi sự chính xác về mộ bác Khôi, như bố mẹ đã nghe… Theo con, chân lý nào cũng phải có chứng minh. Mọi kết quả không có chứng minh đều không nên vội tin.
Cô Vân nói:
- Hai bóng vong của bác Khôi và người phụ nữ tên Minh, thầy Lư nói là vợ bác ấy, chính mắt dì, cô Chín Nguyện và cậu Thắng trông thấy là chứng minh rồi còn gì?
Minh Trí nói:
- Theo logic tâm linh, bố mẹ cháu là người gần bác Khôi nhất, phải trông thấy. Dì Vân và cậu Thắng là em vợ, cô Chín Nguyện là bạn của bố mà trông thấy, có thể chỉ là tâm lý, chứ không hẳn tâm linh?
Cậu Hùng:
- Vụ đụng cái bình hoa ở chính ngôi mộ thầy Lư chỉ từ xa, nếu một lần và một người đụng là ngẫu nhiên, nhưng cậu Thắng đụng tới ba lần, còn chị Vân và cô Chín Nguyện đụng mỗi người một lần, không thể là ngẫu nhiên.
Việt Hưng, kỹ sư công nghệ thông tin, rể lớn, nói:
- Nếu bình hoa đặt trên mặt mộ bị đụng phải thì chỉ hai lần cũng đủ chứng minh do vong bác Khôi khiến, nhưng nó được đặt giữa hai ngôi mộ, tức là giữa lối đi, mà theo bố mẹ kể, mọi người đã chia nhau đi thắp nhang cho hơn một ngàn bốn trăm ngôi mộ, thì việc nhiều người vấp phải một lọ hoa vẫn có thể coi là chuyện bình thường, nhưng lọ hoa bị vấp này trùng với lời nhận định từ Hà Nam của thầy Lư thì không phải ngẫu nhiên.
Cô Vân thừa nhận ngay:
- Đúng là không hề ngẫu nhiên. Vì bình hoa này lúc đi thắp nhang, dì cố ý tránh, nhưng vẫn cứ đụng.
Vĩnh Phúc, rể nhỏ, kiến trúc sư, nói:
- Con tin thế giới tâm linh là có thật, nhưng do thật giả lẫn lộn, rồi người giỏi, người dở trong những thầy ngoại cảm cũng là chuyện có thật. Với những kết quả rõ ràng, không nhất thiết phải đòi hỏi chứng minh, nhưng với những sai số cũng rõ ràng như bố vừa nêu, vẫn nên kiểm tra lại.
Nhà văn Dương Trọng Dật, người đã mất nhiều năm đi tìm mộ anh trai Dương Trọng Chử, bộ đội trung đoàn 320 miền Bắc, hy sinh cùng tháng Năm năm 1970 với anh Khôi, trong cùng chiến dịch đối đầu khốc liệt với lính Việt Nam Cộng hòa và lính Mỹ tại Svay Rieng, Campuchia, được chính những đồng đội còn sống, từng chôn cất anh và hơn trăm đồng đội hy sinh, sau đó, trực tiếp tham gia đội tìm kiếm hài cốt. Nhưng do mặt trận bị bom đạn Mỹ cày xới nhiều lần, thời gian quá lâu, địa hình, địa vật thay đổi, nơi chôn cất lại ở vùng sình lầy, nên khai quật lên chỉ còn đất đen cùng những mủn xương vụn nên người thân chỉ còn cách mang đất về an táng tại nghĩa trang quê nhà. Riêng Dương Trọng Dật đưa “anh Chử” về Nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh. Dật góp ý:
- Theo tôi, đã nhờ tới thế giới tâm linh để tìm kiếm hài cốt người thân mất tích, nếu có đủ cơ sở chứng minh thì quá tốt, nhưng nếu vẫn còn những điều nghi ngờ, chưa hẳn do thiếu cơ sở chứng minh một cách khoa học, mình đã vội bác bỏ cũng không nên. Logic thuộc thế giới tâm linh có nhiều điều nằm ngoài tư duy thông thường. Ví dụ, thầy Lư này nói, muốn sớm biết rõ bác Khôi, phải tìm người tên Toản và đi đến mộ bác Khôi phải có người tên Thắng đón ngõ, thoạt đầu do không tin, nên chẳng ai để ý, nhưng kết cục lại từ cả hai người này mới ra anh Khôi. Đây là điều không thể nào chứng minh được.
Vợ tôi nói:
- Về cơ bản, chuyện này mình không tin cũng không được, nhưng tin ngay, cũng miễn cưỡng. Anh Khôi rõ ràng không có vợ, nhưng thầy Lư, ít nhất hai lần khẳng định, tại bệnh xá ở Svay Rieng, anh Khôi gặp vợ là y tá Minh. Một dấu hỏi lớn nữa là thầy Lư hai lần nói về một người tên Hùng hay Phùng, bạn anh Khôi, mà anh Tuấn biết, hiện cũng ở Phước Long, trong khi anh Tuấn không hề liên quan đến người này.
Thuận Ánh, biên tập viên chương trình Thời sự Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, phát biểu:
- Sự sai số còn ở cả chỗ giấy báo tử từ Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh Vĩnh Phú gửi về gia đình ghi ngày mất của bác Khôi là mười hai tháng Ba năm 1970, trong khi tại hồ sơ lưu trữ của Sư đoàn 9, căn cứ Đồng Dù, lại ghi ngày hai mươi ba tháng Năm năm 1970. Cứ cho nhầm lẫn này do hoàn cảnh chiến tranh, thì việc làm thủ tục để phòng Thương binh Xã hội Bình Phước hợp thức hóa hài cốt bác Khôi, chắc chắn sẽ trục trặc. Theo con, dù việc tìm được bác Khôi hay không, tìm trúng hay không trúng, thì từ trước đến nay, nhà mình cũng đã thờ bác rồi, nên việc bác ấy ở nghĩa trang Phước Long, tin hay không tin, quyết định thuộc về bố mẹ. Nếu bố mẹ tin bác ở đó, thì chúng con theo. Nhỡ thực tế, không phải bác ấy mà nhầm một liệt sĩ khác, thì người đó cũng xứng đáng được chúng ta thờ cúng, chắc bác Khôi cũng sẽ thông cảm.
Cuối cùng, “Hội đồng” quyết định sẽ trở lên nghĩa trang Phước Long lần nữa, làm việc với ban quản lý nghĩa trang, sau đó, đến phòng Thương binh Xã hội Tỉnh Bình Phước, tường trình toàn bộ việc tìm được mộ anh Khôi và đề nghị cho gia đình được mở nắp mộ, lấy một phần hài cốt đưa về Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra ADN. Đó là một quyết định hợp lý, nên ngay tuần sau, tuy vợ tôi còn mệt, hai vợ chồng vẫn thuê xe đi Bình Phước.
Chúng tôi trở lại nghĩa trang liệt sĩ Phước Long vào trúng ngày các trường Phổ thông Trung học của tỉnh tổ chức cho mấy trăm học sinh, đồng phục áo trắng, quần hoặc váy xanh đi cắm trại và sinh hoạt ngoài trời, dọn sạch cỏ và cây dại trong nghĩa trang, cắm hoa, thắp nhang trên đài tưởng niệm và các phần mộ. Những bình hoa để giữa khoảng cách các ngôi mộ được đặt hết lên mặt mộ, phía trước các tấm bia.
Xe vừa chạy vào cổng sắt mở rộng, chúng tôi đã gặp quản trang là người đàn ông nhỏ con, khắc khổ, khoảng ngoài năm mươi tuổi, mặc bộ quân phục xanh lá cây bạc cũ, đứng chắn, vẫy xe dừng lại:
- Các đồng chí ở cơ quan nào?
Tôi xuống xe, nói với ông ta:
- Hôm trước, tôi có lên đây tìm mộ ông anh, nhưng chú đi vắng… - Tôi chỉ về hướng mộ anh Khôi ở góc cuối mảng nghĩa trang, bên trái đài tưởng niệm do thầy Lư chỉ định.
- À… Hôm đó, các đồng chí vừa đi khỏi, tôi cũng về.
- Hôm nay, chúng tôi lên gặp chú để bàn về việc nhận mộ anh tôi. Tôi là Tuấn… Còn chú… Xin lỗi! Chú tên gì?
Người quản trang vui vẻ:
- Tôi là Tư Quảng.
Ông ta chỉ chỗ cho xe đậu, rồi mời chúng tôi vào phòng tiếp khách ở dãy nhà ngói cấp bốn bên phải cổng ra vào, niềm nở, pha trà, rót nước:
- Mời các đồng chí… Ngôi mộ người anh liệt sĩ mà các đồng chí tìm được, do bên quân đội hay trên phòng Thương binh Xã hội tỉnh chỉ xuống?
Tôi mở cặp, rút ra tờ đơn tường trình, đưa ông ta:
- Đây là tờ đơn chúng tôi gửi chú và phòng Thương binh Xã hội tỉnh. Trong đơn, tôi nói rõ việc tìm được mộ anh tôi là nhờ một nhà ngoại cảm nổi tiếng do Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Tiềm năng Con người giới thiệu. (Đây cũng là nơi Tiến sĩ Bùi Tiến Quý làm việc, nhưng tên nó ít nhạy cảm hơn: Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an).
Ông Tư Quảng nói:
- Nếu vậy, tôi phải nói ngay. Vì pháp luật không thừa nhận việc tìm hài cốt liệt sĩ bằng khả năng ngoại cảm, nên tất cả các trường hợp tìm thấy theo cách này, phòng Thương binh Xã hội tỉnh đều không nhận giải quyết.
- Trường hợp ngôi mộ anh tôi, được nhà ngoại cảm chỉ định có độ chính xác rất cao.
- Nói thật với anh chị… Tìm mộ liệt sĩ thất lạc từ hồi chống Pháp, chống Mỹ là việc thiêng liêng cần phải được ủng hộ tối đa. Về cá nhân, không chỉ tôi mà nhiều người trên phòng Thương binh Xã hội, thậm chí, một số anh, chị lãnh đạo tỉnh cũng từng chứng kiến và tin ở nhiều trường hợp tìm mộ bằng ngoại cảm, nên hồi đầu, mấy anh ấy cũng chỉ đạo linh động với bà con, nhưng về sau, quá nhiều chuyện phức tạp xảy ra. Số tìm mộ sai, chỉ mộ lộn do nhà ngoại cảm yếu kém nhiều hơn, rồi không ít những vụ ngoại cảm lừa, sinh ra kiện tụng, rồi đưa cả lên báo chí, truyền thông gây hậu quả xấu, nên mấy anh ấy mới siết lại nguyên tắc.
Vợ chồng tôi đưa mắt cho nhau. Rồi tôi nói với Tư Quảng:
- Nói thật với chú, trước khi được nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư chỉ lên đây, chúng tôi cũng bị một nhà ngoại cảm lừa ra tận Huế để tìm mộ ông anh.
Tư Quảng:
- Tên hắn là gì?
Tôi nói:
- Đó là một phụ nữ. Nhưng chuyện qua rồi, xin không nói tên, vì sau khi tìm được ông anh, tôi đã bỏ ý định tố cáo.
- Tôi muốn biết, để giúp người khác tránh, nếu như cô ta cũng đến nghĩa trang này. Hơn chục năm nay, từ khi có phong trào tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm, tháng nào ở đây cũng tiếp thân nhân liệt sĩ cùng các nhà ngoại cảm, đa số từ ngoài Bắc vào.
Tôi đắn đo giây lát, rồi nói:
- Cô ta xưng tên Tư Bông.
Tư Quảng thốt lên:
- Trời! Tưởng ai. Con nhỏ này cỡ ba mươi lăm tuổi, tóc râu ngô, nói giọng dân Phú Yên?
Vợ tôi nói:
- Cô ta có nói nhà ở ngoài Phú Yên.
- Hồi đầu giải phóng, nhà nó đúng là ở ngoài Phú Yên, nhưng cả làng đi kinh tế mới vào đây lâu rồi… Nhà nó ngay ngã ba, cách đây hơn cây số, rẽ vào.
Trăm phần trăm gặp lại “cố nhân”, vợ tôi vẫn nghi ngờ, ghé tai tôi:
- Liệu có chuyện trùng tên?
Đúng là chúng tôi đang đứng trước một chuyện gần như hoang đường. Bắt đầu từ việc nghe mấy người bà con bên vợ ở Nam Định, Thanh Hóa, mách bằng điện thoại về việc nhờ một nhà ngoại cảm tên Tư Bông làm lễ gọi hồn, tìm được mộ thất lạc của bác Lãng trưởng họ chôn ở Lương Sơn, Hòa Bình từ năm 1959. Tin ở sự kiện này, cũng qua điện thoại, chúng tôi mời bằng được Tư Bông vào Sài Gòn gọi hồn tìm mộ anh Khôi… Kết quả nhận được là một vụ gọi hồn giả, lừa cả nhà mất công ra tận Huế, kèm theo sự biến mất của thủ phạm. Vậy từ ma lực vô hình nào đã sắp xếp chúng tôi gặp lại Tư Bông ở tận Phước Long, Bình Phước. Và nơi an táng hài cốt anh Khôi cũng chính là nơi cư ngụ của ả.
Thấy hai vợ chồng tôi cùng sững sờ, Tư Quảng nói:
- Mấy năm nay, tôi có nghe người này, người khác nói nó lừa nhiều người trong các vụ tìm mộ, nhưng chỉ là tin đồn, giờ rõ ra sự thật… Nó lừa anh chị nhiều không?
Không muốn sự việc đi xa hơn, tôi nói nhẹ đi:
- Chúng tôi bị lừa do cô ta chỉ sai anh tôi hy sinh ở Huế, chứ tiền nong, không đáng kể. Chú biết rõ về cô ta?
- Tôi còn thuộc lòng đằng khác. Nó là thứ tư, con ông bà Mười Tiềm nuôi bò, do tính “man man” nên học hành dở dang, không làm việc gì đến nơi đến chốn. Năm mười chín, hai mươi tuổi, ông bà ấy vẫn chỉ giao nó đi cắt cỏ cho bò. Lúc nó mười ba, mười bốn tuổi, tôi về quản trang ở đây, đã thấy nó hằng ngày vẫn vào nghĩa trang cắt cỏ. Con này còn có cái tật dễ dãi chuyện trai gái. Ngủ với ai thì nó giấu, nhưng nạo thai lần nào là khoe cả xóm đều biết. Cách đây tám năm, ở chính nghĩa trang này, có một gia đình ở Thanh Hóa, đưa ông thầy Giá từ ngoài Bắc vào làm lễ gọi hồn, tìm mộ người thân. Hồn hẹn hai tuần mới gặp, nên gia đình phải ở khu nhà tiếp khách của nghĩa trang chờ. Thời gian trống này, nhiều người trong vùng, nghe tin, đến nhờ, thầy Giá đều giúp và đều tìm trúng mộ. Mỗi lần có gọi hồn, con Tư đều mê mẩn, bỏ cả cắt cỏ bò đứng coi suốt buổi. Hóa ra thầy Giá nhận diện ra thần tướng nó từ ngày đầu. Thầy hỏi nó có thích học nghề không? Vậy là nó theo thầy từ đó và dần dần cũng chỉ đâu trúng đó, tiếng nổi như cồn. Rồi nó theo luôn ông thầy ra Bắc, đi chỉ mộ khắp nơi… Chỉ một, hai năm gần đây mới nghe đồn nó lừa đảo, chỉ bậy. Nay có anh chị là nạn nhân, tôi đưa luôn vào nhà nó, ba mặt một lời, rồi kêu cả công an… Lừa tiền bạc tội một thì lừa chuyện thân thế liệt sĩ là tội mười, nhất định phải để luật pháp xử nó.
Không muốn dây thêm vào sự rắc rối, nhất là khi đã chấp nhận cho qua vụ bị lừa, tôi nói với Tư Quảng:
- Rất cảm ơn sự quan tâm của chú. Do việc biết Tư Bông ở ngay đây quá bất ngờ, nên cần cân nhắc kỹ khi quyết định gặp lại cô ta, vì vậy, để lần lên sau, sẽ nhờ chú đưa đến nhà. Hôm nay, chúng tôi lên, chỉ trình bày về vụ đi tìm hôm trước, cùng những yêu cầu tiếp theo. Giờ nghe chú nói, kết quả tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm, không được ở đây thừa nhận, chúng tôi đành phải đi tiếp lên phòng Thương binh Xã hội tỉnh, hy vọng các anh trên đó linh động.
- Anh chị muốn lên, cứ lên. Nhưng do nhiều người trường hợp như anh chị đã lên rồi, không được giải quyết, nên tôi nói chỉ để anh chị khỏi mất công thôi.
- Chúng tôi vẫn quyết đi vì vong linh anh tôi, còn nước còn tát, chứ không trách gì chú.
Tôi mở cặp, đặt lên bàn tấm đá hoa cương đen cùng loại đá và kích thước với những tấm bia gắn trên các mộ chí, đã được khắc lõm, sơn chữ vàng: “Nguyễn Duy Khôi. Sinh năm 1942. Quê quán: Bắc Hồng, Đông Anh, Hà Nội. Nhập ngũ 1967. Đơn vị: C3. D4. E2. F9. Chức vụ B trưởng. Hy sinh: 23-5-1970”.
Tôi trình bày:
- Đây là nội dung chúng tôi ghi nhận chính xác từ hồ sơ liệt sĩ được lưu trữ ở Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 ngày gần nhất. Tuy mộ anh tôi chưa phải chính xác trăm phần trăm về mặt pháp lý, nhưng hôm trước lên đây, chúng tôi đã chính thức thực hiện lễ gọi hồn và anh tôi đã hiện về. Như vậy từ tâm linh đến pháp lý chỉ còn khoảng ngắn ngủi, nên mong chú linh động, cho chúng tôi làm lễ đặt tấm bia này lên mộ anh tôi. Sau này, nếu không đúng, hoặc dứt khoát không được thừa nhận, chúng tôi sẽ xin lỗi vong hồn trong mộ, bỏ tấm bia đi.
Tư Quảng lặng đi một lúc, rồi nói:
- Tôi hiểu tấm lòng của anh chị với liệt sĩ Khôi, nhưng tôi cam đoan trên phòng Thương binh Xã hội tỉnh sẽ không giải quyết.
Tôi nói:
- Nếu tôi lên các cấp cao hơn xin được mở nắp mộ đem vụn xương hài cốt đi thử ADN thì sao?
Tư Quảng nói:
- Ở đây đã có mấy trường hợp nhận mộ, rồi mới đem thử ADN, đều trúng, chưa trường hợp nào còn nghi ngờ lại được nhận mộ để đưa đi thử… Nhưng thôi, tôi có ý kiến thế này. Anh chị cứ để tấm bia này ở đây. Sáng mai, tôi lên hỏi ý kiến phòng Thương binh Xã hội trước, rồi thông báo bằng điện thoại cho anh chị. Vì anh chị có lên cũng phải để hôm khác. Tấm bia này tôi tạm cất đi, chứ đặt sớm lên mộ, nếu đúng trong mộ có hài cốt bác Khôi thì mọi sự tốt đẹp, nhưng nhỡ là người khác, dù đặt tạm, cả hai liệt sĩ sẽ cùng tủi thân. Rất không nên.
Chúng tôi đành chấp nhận phương án của Tư Quảng. Tuy nhiên, vẫn ra ngôi mộ thầy Lư chỉ, đặt lễ, thắp nhang. Hai vợ chồng cùng quỳ trước mộ, vừa vái, vừa nói lời xin lỗi anh Khôi.
Trong khói nhang nghi ngút, vợ tôi bỗng rùng mình, ngẩng đầu, ngơ ngác nhìn quanh. Tôi hỏi:
- Chuyện gì thế?
Vợ tôi nói:
- Hình như em nhìn thấy con Tư Bông?
Theo hướng nhìn của vợ tôi, tôi chỉ thấy cách xa nơi chúng tôi làm lễ khoảng ba mươi mét, phía bãi đất trống hướng tường rào bên trái nghĩa trang, có hai người phụ nữ cắt cỏ, một người ngồi, còn người kia đang đứng sửa lại nón, chiếc áo mặc ngoài để chống nắng của cô ta có vẻ quen quen… Nhìn kỹ hơn, trong nắng gắt chói chang, hình ảnh họ có vẻ như nhòa đi… Tôi nói:
- Chỉ có hai người cắt cỏ.
Vợ tôi:
- Có lẽ do nắng lóa nên em tưởng tượng ra cô ta.
Lúc về, xe ra khỏi cổng, đã rẽ trái hướng thị trấn Phước Bình, để bắt vào Quốc lộ 13 về Sài Gòn, việc vợ tôi nhìn thấy bóng Tư Bông khi làm lễ ở mộ, chợt trở lại trong đầu, khiến tôi chột dạ. Tôi đổi ý định, bảo cậu Thuận lái xe:
- Cháu quay xe lại đi, - rồi nói với vợ, - chúng ta sẽ đến nhà Tư Bông.
Vợ tôi ngạc nhiên:
- Mình đã nói cho qua rồi mà.
- Cho qua, không có nghĩa mình không đi đến cùng để biết hết chân tướng cô ta.
- Ông Tư Quảng cũng chưa chỉ rõ nhà… Theo em, nên rẽ vào nghĩa trang, rủ ông ta cùng đi cho an toàn.
Tôi nói:
- Không cần. Trên này thưa dân, cứ đến ngã ba, hỏi là biết.
Xe chúng tôi chạy lên dốc, quá nghĩa trang Phước Long chừng hơn một cây số, đến ngã ba nằm chơ vơ giữa vùng đồi hoang không một bóng cây cối, có lối rẽ theo con đường đất đỏ chạy vào chân dãy núi đất khá xa ở bên trong. Góc ngã ba, ngay cạnh đường, có một cái lán tranh nhỏ chừng sáu mét vuông, không vách. Một ông chạy xe ôm ngồi ở chiếc ghế cóc, bên chiếc xe gắn máy chờ khách và một ông già, thợ sửa xe, đang lúi húi vá ruột xe, bên thùng đồ. Chúng tôi dừng xe, hỏi:
- Hai bác cho hỏi thăm nhà cô Tư Bông?
Ông bác chạy xe ôm liếc vào biển số xe để biết chúng tôi từ đâu tới:
- Chắc các bác từ Sài Gòn lên nhờ nó tìm mộ, nhưng nó hết hơi rồi.
Vợ tôi nói:
- Chúng tôi chỉ ghé chơi thôi.
- Thế thì chạy thẳng đến khi đụng ba nhà vườn. Nhòm thấy nhà nào nuôi nhiều bò, của Mười Thiềm, thì có nó.
Chúng tôi cảm ơn, cho xe theo đường đất đỏ chạy cỡ hai cây số vào tận chân núi, thấy ba ngôi nhà tôn nằm ẩn trong vườn cà phê, nhưng dễ nhận ra nhà ở giữa nuôi bò, vì chuồng bò chừng chục con nằm ngay sát lề đường.
Xe vừa dừng trước hai trụ cổng đặt đầy những bát nhang đang cháy, chúng tôi thấy ngay một phụ nữ bụng bầu khá lớn đang bốc rơm thả vào máng cho mấy con bò trong chuồng. Không khó nhận ra người phụ nữ đó chính là Tư Bông, bởi mái tóc râu ngô không lẫn đi đâu được. Rồi nhìn cái bụng bầu sắp đến tháng đẻ của cô ta, từ hôm đi Huế vào tháng Chín năm ngoái, đến nay đã bảy, tám tháng, thì việc vợ tôi nhìn thấy gã Năm Được và cô ta làm tình trên chiếc Innova ở Ninh Bình mà tôi cố không tin, là có thật.
Lúc chúng tôi xuống xe, đi vào cổng, Tư Bông mới nhận ra. Sự sợ hãi khiến cô ta nhợt nhạt, run rẩy, buông rơi mớ cỏ rơm trên tay, vịn tay vào cột chuồng để khỏi khuỵu bệt xuống thềm, nước tiểu tuôn đầy chân, ướt đẫm chiếc váy bầu, khiến vợ tôi phải bước lại đỡ:
- Đừng sợ. Chúng tôi chỉ ghé thăm cô thôi.
Tư Bông vẫn không hết sợ hãi, lắp bắp:
- Làm... làm sao cô chú biết con ở đây?
Tôi nói:
- Chúng tôi đi công chuyện trên này, tình cờ nghe có người nói về cô nên mới biết.
- Con xin cô chú đừng báo công an bắt con.
Khi trấn tĩnh được phần nào, Tư Bông xin phép đi thay đồ, rồi tiếp chúng tôi ở bàn nước mộc mạc ngăn với bên ngoài ngôi nhà tôn nền đất sơ sài, chật chội. Khắp nhà, từ chiếc bàn thờ nhỏ tự đóng, áp tường, phía trong bàn nước, đến các cửa sổ, cửa ra vào và thềm nhà đều đặt bát nhang đang cháy, khiến trong nhà âm u và ngàn ngạt mùi khói.
- Xin lỗi cô chú. Con ở đây với vợ chồng thằng em. Vợ chồng nó cùng đang ở trong rẫy, tối mới về, ở đây chỉ có nước giếng khoan. Để con kêu ngoài quán mang cà phê mời cô chú. Quán ở trong xóm gần đây, chỉ vài phút là nó mang ra liền.
Tôi xua tay:
- Không cần đâu. Chúng tôi chỉ ghé vào một lúc rồi đi ngay.
Vợ tôi hỏi:
- Tháng mấy thì cô sinh?
Cô ta bỗng bật khóc:
- Thưa! Theo bệnh viện thì tháng sau… Nhưng mà con sợ lắm… Hu hu… Con bỏ nghề rồi mà sao các vong nó vẫn theo… Vụ lừa cô chú ra Huế, con có tội lớn, nhưng thực ra không phải từ con… Từ khi vào nghề, con theo thầy Giá bốn năm, rồi thầy cho tách ra làm riêng năm năm. Nhờ có bề trên thường xuyên phù hộ, lấy việc giúp đời làm gốc, nên con hành nghề thuận lợi. Về sau, hình như bề trên có chuyện buồn về con, không thương như trước. Rồi có khi có cả chuyện các vong thù giận, nên việc gọi hồn, chỉ mộ không còn linh như trước. Con đang hoang mang chưa rõ tại sao thì gặp anh Năm Được.
Tôi hỏi:
- Anh ta là người ở đâu?
- Thưa! Con cũng không biết. Con và anh ấy chỉ liên lạc với nhau bằng điện thoại khi nào cần… Trong dịp một gia đình từ dưới miền Tây lên nhờ con gọi hồn tìm mộ liệt sĩ hy sinh ở Củ Chi, thời chống Mỹ, cần thuê xe để di chuyển, con gặp được anh Năm, thành quen nhau. Anh ấy nhiệt tình và cũng hiểu biết chuyện tâm linh, nên đôi khi con gặp khó khăn, anh ấy có những góp ý con thấy hợp, từ đó, mỗi lần có việc cần, con đều kêu anh ấy.
Vợ tôi nói:
- Nghĩa là từ anh ta, cô bắt đầu con đường tội lỗi?
- Thưa! Không hẳn như vậy. Từ khi hành nghề, con luôn ghi nhớ lời thầy Giá: “Đây là việc làm thiện, phúc, Trời Phật đã chọn ban cho mình chức phận, thì phải lấy thiện, phúc làm gốc, xa rời cái đạo ấy, để vô đạo, trục lợi thì nghề hết thiêng”. Nhưng từ ngày gặp anh Năm, nghe anh tư vấn, con kiếm được nhiều tiền hơn, nhiều người nhờ vả hơn, thế là con xa rời lời thầy Giá lúc nào không biết. Vụ bác Khôi, khi nhận từ cô chú, con gọi hồn mấy lần mà không thấy bác ấy hiện. Con có gọi điện ra Hà Nội hỏi thầy Giá. Thầy nói: “Tên người, quê quán, ngày mất sai, nên hồn không hiện”. Con lại hỏi: “Vậy có cách nào?”. Thầy lại nói: “Phải hỏi lại thân chủ cho rõ thêm và phải là thầy cao tay”. Con đem chuyện này hỏi anh Năm. Anh ấy mới bày ra cách đưa cô chú ra Huế khai quật mộ giả… Vụ này, con chỉ xin cô chú có mười triệu, nhưng anh ấy nói con ngu, vì cô chú là đại gia, nên bảo con phải đòi năm nghìn đô-la.
Tôi hỏi:
- Có phải vì chuyện này, cô bỏ nghề?
- Thưa, không. Sau vụ này, con còn nhận hàng chục vụ khác, trong đó có vụ lên tận Sơn La. Hôm đó, trời mưa, đường trơn vắng, phải bật đèn và chạy chậm mới đi được. Đang xuống dốc, vào cua, anh Năm bỗng giật mình. Con hỏi: “Sao thế?”. Anh ấy nói: “Hình như có vong theo suốt từ lúc rời thị xã”. Con vừa ngoảnh lại chưa kịp thấy gì thì chiếc xe lao xuống vực. Khi tỉnh dậy, con thấy mình ở trong bệnh viện tỉnh. Không biết có phải do Trời Phật còn thương nên con chỉ bị xây xát mặt mũi và gãy hai xương sườn, còn anh Năm không qua khỏi. Lúc hấp hối, thấy con đến bên, anh ấy mấp máy miệng: “Em nhớ khấn xin các vong tha cho anh”. Kể từ vụ đó, con sợ quá, nên quyết định bỏ nghề. Nhưng không biết các vong có buông tha mình không? Con sợ nhất là vong nó ám vào đứa con trong bụng, nên tuy ẩn dật ở đây, con vẫn đêm ngày thắp nhang sám hối và xin Trời, Phật, vong linh tha thứ.
Chúng tôi rời nhà Tư Bông trong tâm trạng nặng nề. Lúc rẽ từ đường đất đỏ ra đường nhựa lớn, trên đường qua thị trấn Phước Bình, cậu Thuận lái xe nói:
- Con mẹ này lẽ ra phải báo công an tống đi trại cải tạo, vậy mà khi chúc nó mẹ tròn con vuông, cô còn cho nó năm triệu là quá lãng phí.
Vợ tôi nói với tôi, đương nhiên với cả cậu Thuận:
- Không phải chỉ vì cô ta sắp sinh đẻ, mà còn vì nếu không bắt đầu từ vụ lừa của cô ta, sẽ không có vụ anh với em bay ra Hà Nội tìm đến Bộ Công an tố cáo, từ đó mới dẫn đến gặp Tiến sĩ Bùi Tiến Quý và cậu Lư để lên nghĩa trang Phước Long gặp anh Khôi.
Tôi nói:
- Có thể đã có sự dẫn dắt kỳ lạ. Nhưng vẫn phải thử ADN mới biết chính xác trăm phần trăm.
Vợ tôi nói:
- Nếu đúng trăm phần trăm thì ai là người đã sắp xếp cho Tư Bông đến với mình? Thầy Lư hay anh Khôi?