QUÝ NHÂN PHÙ TRỢ
Năm 2010.
Từ nghĩa trang liệt sĩ Phước Long về Sài Gòn được hai tuần, tôi nhận được điện thoại của ông Tư Quảng, quản trang:
- Tôi đã làm việc với mấy chú trên phòng Thương binh Xã hội tỉnh, đưa cả đơn và tường trình của bác. Tôi cũng nói rất kỹ về việc tìm thấy mộ liệt sĩ Khôi do nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư, thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Tiềm năng Con người ngoài Hà Nội và Viện Khoa học Hình sự, Bộ Công an giới thiệu. Các chú ấy vẫn nói: “Về pháp lý, việc tìm mộ bằng ngoại cảm chưa được thừa nhận, thì mọi trường hợp đều không thể giải quyết”. Như vậy, vụ mở mộ, lấy vụn xương đi thử ADN và cả vụ gắn tạm tấm bia tên liệt sĩ Nguyễn Duy Khôi lên mộ cũng không được.
Sự việc đến đây, có cầu cứu Tiến sĩ Bùi Tiến Quý hay nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư cũng không giải quyết được gì, vì luật là luật. Tuy thất vọng, chúng tôi cũng không thể trách phán quyết khô khan của phòng Thương binh Xã hội Tỉnh Bình Phước. Những nhìn nhận của thầy Lư về anh Khôi có nhiều điều chính xác đến kỳ lạ, nhưng cơ sở chứng minh không đủ, chưa kể vẫn có những khoảng trống sai số. Tóm lại, trọng lượng của năng lực ngoại cảm chưa thể thuyết phục được cơ quan pháp luật. Giữa lúc đó, một số báo chí và truyền hình lại có các phóng sự tường trình và lên án việc tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm thực chất là lừa đảo.
Vợ chồng tôi rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Tuy nhiên, khi bình tĩnh phân tích mọi chuyện thật kỹ, mười phần, chúng tôi tin tới bảy, tám, mộ anh Khôi đã được chỉ đúng. Bảy, tám không thể là mười, nhưng so với việc suốt bốn mươi năm từ lúc anh hy sinh vào năm 1970, chúng tôi tìm khắp nơi, không biết mộ ở đâu, hài cốt được đưa về quê an táng lại là hài cốt giả, thì việc được nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư xác định mộ anh ở nghĩa trang liệt sĩ Phước Long, vẫn còn hơn tình cảnh “vô gia cư” trước đây. Trên thực tế, chính quyền chưa ghi nhận ngôi mộ có hài cốt anh Khôi, nhưng cũng không ngăn cản chúng tôi thực hiện việc thờ cúng. Vì nghĩ có cũng còn hơn không, nếu có sự sai số, vong linh anh Khôi và đồng đội cũng sẽ thông cảm, lượng thứ, nên chúng tôi quyết định vẫn coi ngôi mộ này là nhà của anh. Mấy ngày đầu, nhìn nhận này có phần gượng ép về tâm lý, nhưng lâu dần, cảm giác đó mất đi, những nghi ngại về những nhận định còn sai của thầy Nguyễn Văn Lư cũng nhỏ dần…
Thấm thoắt, đã đến ngày hai mươi ba tháng Năm, ngày mất của anh Khôi theo ghi nhận ở phòng lưu trữ Sư đoàn 9 ở căn cứ Đồng Dù, mà chúng tôi chọn làm ngày giỗ, thay vì những năm trước đây, giỗ anh vào ngày mười hai tháng Ba, theo giấy báo tử của Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh Vĩnh Phú. Đây là giỗ đầu tính theo ngày hai mươi ba tháng Năm, nên chúng tôi quyết định sẽ làm giỗ ngay tại mộ anh, trên nghĩa trang liệt sĩ Phước Long.
Cần nói lại, vợ chồng tôi và đa số lứa tuổi cùng thế hệ, trưởng thành dưới mái trường miền Bắc xã hội chủ nghĩa, sự tôn trọng, hòa nhập vào các phong tục, tập quán, lễ giáo thuộc truyền thống tâm linh như giỗ chạp, hội hè, lễ nghi, tết nhất… trong gia đình, gia tộc, họ hàng, xã hội, tôn giáo… khác với thế hệ trước ở chỗ, một đằng là tin, còn một đằng là theo. Các cụ tin mà theo, còn mình theo nhưng không tin. Chỉ bắt đầu từ việc tìm kiếm hài cốt anh Khôi, sự quan tâm của chúng tôi đến thế giới tâm linh mới nâng cấp dần. Một trong những hệ quả đó là lần giỗ anh Khôi này, chúng tôi quyết định mời thầy. Nhưng thầy nào? Thầy lạ thì sợ gặp thêm một Tư Bông, không cẩn thận, còn mang tiếng nhà văn, nhà báo mà mê tín dị đoan. Còn thầy quen, vẫn dịch giả uyên bác Lê Khánh Trường, nhà văn Nguyễn Nguyên Bảy, nhà thơ Đinh Trần Toán, sau cùng là cô em Thanh Vân (đàn em của họa sĩ Nguyễn Thị Hiền). Ai thiêng hơn ai? Đã vậy toàn loại cá tính mạnh, nhờ người này, không nhờ người kia, có khi lại có người giận, mất tình bạn bè…
Vợ tôi bàn:
- Chuyện tâm linh, anh với em đều ú ớ nên mình làm bốn phiếu kín đặt lên bàn thờ, rồi cùng thắp nhang cầu khấn. Các cụ và anh Khôi chọn ai, sẽ khiến mình nhặt đúng lá phiếu ghi tên người đó. Như vậy, đối với cả cõi âm lẫn cõi dương đều rất dân chủ.
Tôi đồng ý. Để đỡ phải đấu tranh bình đẳng giới, dẫn đến mất đoàn kết giữa hai vợ chồng, sau khi thắp nhang và cầu khấn linh hồn các cụ tổ tiên, bố mẹ và anh Khôi, tôi nhường cho vợ nhặt một trong bốn lá phiếu gập tư đặt trên chiếc đĩa sứ cổ mang từ bàn thờ tổ tận Vĩnh Phúc vào.
Lá phiếu được mở ra ghi tên: Thanh Vân. Một cái tên chúng tôi đưa vào để cân bằng âm dương, chứ cùng không mong đợi. Thâm tâm tôi muốn các cụ chọn Lê Khánh Trường hoặc Đinh Trần Toán, còn vợ tôi do yêu thơ Lý Phương Liên từ thời sinh viên, lại thích ứng cử viên chồng chị là Nguyễn Nguyên Bảy. Tôi buột miệng:
- Chứng tỏ người cõi âm cũng thích gái đẹp.
Vợ tôi sợ đến tái mặt:
- Anh phải thắp nhang xin lỗi các cụ ngay. Nói đùa không đúng lúc gì cả.
Tôi cầm điện thoại di động, nhấn số của Thanh Vân.
- Em chào anh. - Tiếng cựu diễn viên múa đoàn Văn công Giải phóng thời chiến tranh chống Mỹ, thánh thót.
- Anh chị định nhờ em chọn ngày, để hai vợ chồng đi du lịch?
- Để em xem nào…
Vân im vài giây, rồi nói:
- Không đúng. Anh chị đang có việc dính đến bàn thờ.
Vợ chồng tôi đưa mắt cho nhau. Rồi tôi nói rõ việc nhờ vả.
Vân vui vẻ nói luôn:
- Em đang có công chuyện ở Hà Nội. Nhưng sẽ về trước ngày giỗ anh Khôi một ngày. Vì anh Khôi cũng là đồng đội của em mà.
Sáng hai mươi hai tháng Năm, theo đúng hẹn, Vân có mặt ở nhà tôi, làm lễ cầu khấn sự phù hộ của tổ tiên, ông bà, cha mẹ tôi và anh Khôi. Thời gian hành lễ kéo dài chưa đầy một giờ. Sau đó, cô nói:
- Sáng mai, anh chị xuất phát từ nhà đúng tám giờ. Buổi chiều, không được rời nghĩa trang trước ba giờ.
Tôi nói:
- Từ nhà lên nghĩa trang liệt sĩ Phước Long một trăm bảy mươi hai kilômét, hai lần trước đều phải xuất phát từ sáu giờ, để tránh tắc xe ở các ngã tư đường cao tốc, mà hơn chín giờ mới lên đến nơi. Xong việc, phải quá trưa. Chiều về, đường tắc, tối mịt mới về đến nhà, nên thời gian em đưa ra, chắc chắn anh chị sẽ rất bị động.
Vân nói:
- Em không có khái niệm về những việc sẽ diễn ra trên đường cũng như ở nghĩa trang, mà chỉ xác định thời gian anh chị làm giỗ anh Khôi ở nghĩa trang, sẽ có hai quý nhân phù trợ. Anh chị đến và đi sai giờ sẽ lỡ cơ hội này.
Dính dáng đến tâm linh, đã mời thầy mà không theo, đã theo mà không tin, việc không thành, lỗi luôn luôn tại mình. Vụ Tư Bông, rồi đến vụ Nguyễn Văn Lư đã cho chúng tôi quá nhiều kinh nghiệm.
Sáng hôm sau, mãi tám giờ, chiếc Mercedes mười sáu chỗ chúng tôi thuê của công ty du lịch Sao Mai quen thuộc, mới bắt đầu xuất phát từ nhà ở Gò Vấp. Mọi khi vào giờ này, đoạn xa lộ Đại Hàn bắt vào Quốc lộ 13 là giờ cao điểm của các loại xe container và xe tải nặng, thường xuyên bị tắc, tự nhiên hôm nay thông thoáng hẳn, nhưng vẫn phải đến mười giờ rưỡi chúng tôi mới đến nghĩa trang liệt sĩ Phước Long.
Giữa tháng Năm dương lịch, vùng trung du đất đỏ ba-dan đang ở cuối mùa khô nhưng chưa bắt đầu mùa mưa, nắng nóng hơn bốn mươi độ C, khiến bầu không khí nổi vân như hun lửa. Khu vực ngoài cổng nghĩa trang vẫn còn nguyên dãy cờ, hoa và tấm băng rôn lớn nền đỏ với dòng chữ “Nhiệt liệt chào mừng 35 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước 1975 – 2010” được trang hoàng từ tháng Tư. Toàn bộ bên trong nghĩa trang, từ đài tưởng niệm ở trung tâm, tỏa ra các đường bê tông nhựa ngang dọc, các hàng cây hai bên đường đều rực rỡ cờ hoa, băng rôn khẩu hiệu nhớ ơn các liệt sĩ hy sinh vì nước. Các bình sứ cắm hoa ngày thường vẫn đặt ở khoảng giữa các ngôi mộ, đều được thay hoa tươi, đặt lên mặt mộ, khiến hàng ngàn ngôi mộ ở hai mảng chính nghĩa trang mênh mông một rừng hoa, nhiều bát nhang được thắp trong buổi sáng, vẫn nghi ngút khói.
Đoàn chúng tôi gồm vợ chồng tôi, vợ chồng Vân, Dương Trọng Dật, cháu Trang (cháu ruột Dật, công tác ở báo Sài Gòn Giải phóng), cậu Hùng, chị Chín Nguyện, đầy đủ mặt ba con trai, gái và hai con rể của vợ chồng tôi. Lúc chúng tôi xuống xe bên trong cổng, ông Tư Quảng nhận ra người quen, niềm nở từ trong phòng tiếp khách của nghĩa trang ra đón.
- Sao các anh chị lên trễ vậy?
Tôi thanh minh rằng bị kẹt xe cho qua chuyện, rồi nói tiếp với Tư Quảng:
- Như đã gọi điện trước với chú, tuy còn vướng mấy thủ tục pháp lý, khiến mộ anh tôi chưa được chính danh, nhưng vẫn tin ở nhà ngoại cảm, nên hôm nay, chúng tôi sẽ làm giỗ anh tôi tại đây.
Tư Quảng nói:
- Nếu chỉ làm giỗ thì không chỉ tôi mà mấy chú bên Thương binh Xã hội tỉnh cũng đều thông cảm. Các anh chị cứ đặt lễ lên ngôi mộ nhà ngoại cảm chỉ. Người cõi âm khác người cõi dương mình. Bác Khôi nếu không ở đấy cũng vẫn đón nhận được tấm lòng của anh chị.
Tôi nói:
- Rất cảm ơn sự thông cảm của chú. Còn việc ăn uống, chúng tôi đã chuẩn bị đủ từ Sài Gòn mang lên, sau khi làm lễ xong, chúng tôi sẽ trải bạt bên dưới bóng mát hàng cây sao dọc tường rào… mời chú dự bữa cơm gia đình với chúng tôi cho vui.
Tư Quảng nói:
- Đất trên này là đất hút nóng, còn cây thì cao, nhìn tán vậy, tưởng mát, thực ra cũng nóng không khác ngoài trời, các anh chị dân thành phố, chịu không nổi đâu. Theo tôi, làm lễ xong, mọi người cứ dọn cơm vào dãy nhà tiếp tân. Trong đó cũng rộng thoáng, lại có nhiều quạt, muốn ngồi bao lâu cũng được.
Mấy người già có ý xuôi xuôi nhưng đám trẻ không tán thành:
- Đã mất công rời thành phố lên với núi rừng thiên nhiên, lại vào trong nhà ngồi ăn thì mất giá trị.
- Nóng mấy, mình vẫn phải ngồi ngay cạnh mộ cùng ăn với bác Khôi và đồng đội, nếu không, các bác ấy sẽ buồn.
- Chúng con thấy ăn ngoài trời nóng một chút nhưng vui hơn.
Cô Vân nói:
- Có khi thắp nhang, bày lễ lên mộ, làm lễ xong, Trời Phật thương cho râm mát lại, thì đỡ phải tranh cãi trong nhà hay ngoài trời.
Tôi bảo đám trẻ:
- Nhất trí. Bây giờ điều không phải tranh cãi là các con ra xe, chia đồ lễ, hoa và nhang làm hai phần, một phần bày lên đài tưởng niệm, phần còn lại sẽ bày lên mộ bác Khôi và những mộ lân cận.
Đám trẻ cùng ra mở cửa xe. Đúng lúc đó, từ khu mộ phía sau dãy nhà tiếp tân dội ra tiếng phụ nữ gào khóc: “Ối con ơi là con ơi! Con giận gì bố mẹ, giận gì vợ con, mà đến hôm nay, sau mấy chục năm, con mới cho bố mẹ gặp con. Ới con ơi là con ơi!”. “Anh ơi là anh ơi! Đến hôm nay, em và hai con mới vào được với anh đây này”.
Chúng tôi cùng đứng lặng trong ngơ ngác, hướng về phía tiếng khóc, do khuất dãy nhà tiếp tân nên không thấy người. Ông Tư Quảng giải thích:
- Đó là gia đình từ Thái Bình, nhờ được nhà ngoại cảm vào tìm mộ con, đưa về quê an táng.
Dương Trọng Dật nói:
- Nếu vậy, mình mang nhang, lễ sang chia sẻ với họ. Mình làm giỗ trễ một chút cũng không sao.
Đoàn chúng tôi đi vòng qua dãy nhà tiếp tân, sang khu mộ kế cận. Khu này cũng có hơn sáu trăm ngôi mộ. Mộ của liệt sĩ người Thái Bình vừa được khai quật nằm ở gần cuối hàng sau cùng, nên chúng tôi phải đi gần trăm mét dưới trời nắng gắt và giữa các hàng mộ tràn ngập các bình hoa tươi. Trên đường đi, vợ tôi kín đáo níu tay tôi, nói nhỏ:
- Nhân cơ hội có nhà ngoại cảm ở đây, mình thử nhờ ông ta chỉ mộ anh Khôi để kiểm tra chéo chỉ định của cậu Lư.
- Nhỡ ông ta ngoại cảm dỏm như Tư Bông thì sao?
Cảnh giác cùng mình vậy, nhưng tôi vẫn đến cạnh Tư Quảng hỏi:
- Xin lỗi! Chú có biết nhà ngoại cảm giúp gia đình tìm mộ bên kia tên gì?
Tư Quảng nói:
- Trong đơn của gia đình xin bốc và đưa hài cốt liệt sĩ về quê nói nhà ngoại cảm này tên Lê Văn Hòa.
Mấy năm qua, đọc trên các báo, rồi nghe truyền miệng, tôi biết và nhớ tên nhiều nhà ngoại cảm, nhưng chưa bao giờ nghe đến Lê Văn Hòa. Tôi hỏi Tư Quảng:
- Chú đã nghe tên ông này bao giờ chưa?
- Chưa. Nhưng nhiều năm ở đây, do được gặp nhiều nhà ngoại cảm, nên nhìn tướng, tôi thấy ông thầy này tin cậy được.
Chỉ nhìn tướng mà đoán thì cũng rất mù mờ. Tôi không hỏi thêm, mà định bấm máy hỏi Tiến sĩ Bùi Tiến Quý để biết hơn về nhân vật Lê Văn Hòa, nhưng lại bỏ ý định, vì chúng tôi đã đến quá gần gia đình liệt sĩ người Thái Bình.
Toán của họ có chừng hơn chục người đang đứng dưới trời nắng như thiêu đốt, quây quanh chiếc tiểu sành màu nâu bám đầy đất đỏ, được đặt giữa lá quốc kỳ lớn trải trên nền bê tông của nghĩa trang. Phía trước ngôi mộ được khai quật, gạch ống, gạch men vỡ lẫn với đất được đào lên chất thành đống quanh miệng huyệt. Bên trên là tấm bia đá đen hình chữ nhật cùng khổ 18 x 24 centimét như các tấm bia gắn trên các mộ. Những chữ vàng trên mặt bia còn mới tinh, có lẽ vừa sơn lại nhân kỷ niệm ba mươi lăm năm ngày miền Nam giải phóng: “Đỗ Văn Trường, sinh năm 1948, quê quán Thái Thụy, Thái Bình, hy sinh: 1974…”. Không khó để nhận ra ai là thân nhân liệt sĩ, vì những người này đều chít khăn trắng trên đầu. Một bà già tóc bạc phơ, khoảng ngoài bảy mươi tuổi, hai phụ nữ ít tuổi hơn: một người ngoài năm mươi tuổi, người kia khoảng hơn ba mươi tuổi, một trung tá mặc quân phục đeo quân hàm hải quân trạc tuổi bốn mươi, một trung úy khoảng dưới ba mươi tuổi, quân hàm xanh lá cây của bộ đội biên phòng. Năm người còn lại không chít khăn tang, đều mặc quân phục và còn trẻ. Một người khác khoảng ngoài năm mươi tuổi, mặc thường phục, đang dùng tay phân loại những thứ trong lòng tiểu, đứng cách vài mét nhìn vào chỉ thấy toàn đất đen.
Thấy ông Tư Quảng đưa chúng tôi đến, mấy người phụ nữ đều ngừng khóc, còn viên trung tá chủ động đón trước:
- Chào các bác. Hôm nay, các bác cũng đến thăm liệt sĩ?
Ông Tư Quảng giới thiệu chúng tôi:
- Các bác này từ Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cũng đều dân Bắc. - Ông chỉ vào những người đang chuyển mộ. - Còn mấy bác này mới từ Thái Bình vào.
Viên trung tá:
- Chúng tôi vào được đây và tìm đúng mộ anh tôi đều nhờ vào nhà ngoại cảm Lê Văn Hòa.
Lúc đó, ông Hòa mới chậm rãi đứng dậy, bắt tay chúng tôi:
- Chào các bác.
Viên trung tá nhiệt tình thái quá:
- Xin lỗi! Tôi quên chưa hỏi thăm các bác đã tìm thấy mộ liệt sĩ chưa? Nếu chưa, tiện có thầy Hòa đây, nhờ thầy chỉ luôn.
Tôi nói:
- Chúng tôi chỉ biết chắc anh tôi được quy tập ở nghĩa trang này, nhưng là mộ nào, vẫn còn chờ kết quả kiểm tra ở đội quy tập.
- Ồ! Nếu vậy, nhờ thầy Hòa giúp luôn đi. Đúng ra, thầy không cần phải vào, vì mộ nằm ở đâu, trong tiểu có những gì, khi gọi hồn thầy đã nói đủ ở Hà Nội. Hôm nay, mở ra thấy tất cả đều đúng, nhưng chúng tôi vẫn cố mời thầy cùng đi, vì chúng tôi lần đầu kéo nhau vào miền Nam, vừa bỡ ngỡ lại cũng vừa chưa thật tin lắm. Nay thay mặt cả nhà, tôi thành thật xin lỗi thầy.
Ông Hòa cười chất phác:
- Thực ra những thứ trong tiểu, tôi nhìn nhận được đều do liệt sĩ giúp thấy, chứ tôi cũng người trần, mắt thịt, chẳng tài cán gì.
Người phụ nữ khoảng ngoài năm mươi tuổi nói:
- Lúc thầy nhặt chiếc lược và chiếc nhẫn từ trong tiểu ra, em rụng rời chân tay. Đúng là anh nhà em rồi. Vì hôm cưới, anh Tráng bạn anh ấy bên pháo cao xạ tặng đôi lược và đôi nhẫn do chính tay anh ấy làm từ mảnh vụn máy bay Mỹ bị bắn rơi. Hôm lên đường vào Nam, anh nhà em chia đôi, mỗi đứa một chiếc, rồi nói rằng nếu hai đứa cùng giữ được thì nhất định anh sẽ còn sống trở về. - Chị lại bật khóc. - Anh ơi là anh. Đến hôm nay, anh và em vẫn giữ được, sao em vẫn mất anh? Hu hu hu...
Nhìn chiếc lược chị cài trên búi tóc đen dày và chiếc nhẫn đeo ở ngón áp út, rồi cũng chiếc lược và chiếc nhẫn cùng loại đen xỉn, đặt ở chiếc khăn tay, cùng mấy thứ đầu đạn, mấy chiếc răng đen xỉn, khóa thắt lưng đã rỉ mục, chúng tôi không cầm được nước mắt.
Viên trung tá lần lượt giới thiệu người thân của mình:
- Đây là chị Thoa, vợ của anh tôi. Anh hy sinh năm 1974 khi giải phóng Phước Long. Đây là mẹ tôi. Còn bố tôi là liệt sĩ thời chống Pháp, hy sinh năm 1954 ở Điện Biên Phủ. - Rồi anh cầm tay người phụ nữ ít tuổi nhất. - Đây là cháu Mỵ, con dâu của anh chị tôi, chồng cháu hy sinh năm 1979 khi đánh quân Tàu xâm lược ở biên giới phía Bắc. Cả nhà tôi, ba đời là lính. Thằng này…, - anh chỉ vào cậu trung úy trẻ măng, - con trai tôi, lính biên phòng ở Hà Giang, còn tôi lính hải quân… Chiến tranh biên giới và biển Đông xảy ra, chắc chắn cha con tôi cùng có mặt… Còn năm em này là quân của tỉnh đội Bình Phước cử đi cùng giúp chúng tôi.
Dương Trọng Dật nói với viên trung tá:
- Gia đình chúng tôi, trừ mấy cháu sinh ra sau chiến tranh, còn lại đều là lính. Các liệt sĩ ở nghĩa trang này đều là đồng đội, nên chúng tôi muốn được cùng làm lễ với gia đình và tiễn anh Đỗ Văn Trường về quê.
Trong lúc thành viên hai nhà thân mật, tôi đến bên thầy Hòa:
- Xin lỗi thầy, vừa rồi tôi đã không nói thật về anh tôi. Thực ra, hôm trước, chúng tôi đã nhờ một nhà ngoại cảm khác chỉ được mộ ông anh rồi. Hôm nay, chúng tôi lên làm giỗ. Trong vụ này, nếu không tin hẳn, chúng tôi đã không lên làm giỗ… Chẳng qua là vẫn còn một số điều lăn tăn…
Thầy Hòa cười nhẹ:
- Tóm lại, các bác muốn nhờ tôi để kiểm tra chéo chứ gì?
Bị điểm trúng tim đen, tôi không nói lại được lời nào.
- Không sao đâu. Nghề ngoại cảm của chúng tôi, ngoài việc liên lạc với thế giới tâm linh, còn có việc hệ trọng không kém là làm cho những người đến với thế giới tâm linh tin mình. Nghề của chúng tôi có cái khó là dù kết quả hiển nhiên đến đâu, nhưng không chứng minh được bằng suy luận thông thường thì chưa xây dựng được niềm tin, nên việc các vị muốn kiểm tra chéo, tôi cũng cho là bình thường.
- Nếu thầy thông cảm được như vậy thì quá tốt. Ngày nào thầy có thể giúp chúng tôi?
- Giúp xong gia đình này, tôi cũng cùng họ đưa hài cốt bay ra Hà Nội trong chiều nay, nên tôi chỉ có thể giúp các bác ngay sau khi làm lễ cho liệt sĩ Đỗ Văn Trường xong.
- Vậy thầy có cần cung cấp thông tin về anh tôi ngay bây giờ?
- Bác đọc đi.
Thời điểm đó, anh Khôi có hai dòng thông tin. Một là theo giấy báo tử của Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh Vĩnh Phúc: “Nguyễn Minh Khôi, sinh năm 1942. Quê quán: Lập Chí, Minh Trí, Kim Anh, Vĩnh Phúc. Hy sinh ngày 12/3/1970, tại Mặt trận miền Đông Nam Bộ”. Hai là theo hồ sơ lưu trữ ở phòng Chính sách Sư đoàn 9, căn cứ Đồng Dù, Củ Chi: “Nguyễn Duy Khôi, sinh năm 1942. Quê quán: Thụy Hà, Bắc Hồng, Đông Anh, Hà Nội. Hy sinh ngày 23/5/1970 tại Svay Rieng, Campuchia”. Xét về mặt văn bản, trừ năm sinh trùng nhau, tất cả phần còn lại như của hai người khác nhau hoàn toàn. Nhưng từ nguồn thông tin thứ nhất, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư lại tìm ra anh Nguyễn Minh Khôi, trùng với Nguyễn Duy Khôi của nguồn thông tin thứ hai, ở nghĩa trang Phước Long. Trong đầu bỗng nảy ra sự tính toán rất nhanh, tất nhiên cũng từ động cơ muốn kiểm tra chéo, tôi đã cung cấp cho thầy Hòa thông tin thứ hai.
- Thầy có cần tôi ghi ra giấy?
- Không cần. Tôi nhớ được. Khi đến đây, các bác đã đặt lễ và thắp nhang ở đài tưởng niệm chưa?
- Chúng tôi vừa mới đến, nên chưa kịp làm gì.
- Vậy các bác lên đài tưởng niệm làm việc đó đi. Khi khấn nhớ xin các liệt sĩ và bác Khôi phù hộ.
Rồi ông khoát tay bao quát cả vùng nghĩa trang rộng mênh mông đang rừng rực dưới nắng trưa:
- Thắp nhang ở đài xong, các bác tìm bất cứ chỗ nào trong nghĩa trang, ngồi quây quần như nghỉ uống nước, xong việc bên này, tôi sẽ sang giúp các bác tìm bác Khôi.
Thầy Hòa trở lại với gia đình quê Thái Bình, chúng tôi cũng không đi tìm chỗ ngồi nghỉ theo ý ông, mà ở lại cùng gia đình này làm lễ đưa chiếc tiểu có bọc lá cờ đỏ sao vàng từ huyệt mộ cũ ra dưới chân đài tưởng niệm, để đúng giờ thầy đã chọn, đưa lên xe chờ chở ra Bắc. Xong việc này, chúng tôi mới chọn cụm những cây sao cao vút, có bóng mát ít ỏi bên trái cổng nghĩa trang, vừa tiện ngay cạnh đường, vừa vì đó là bãi đất trơn duy nhất có thể trải tấm bạt để nhiều người ngồi chung, còn đất ở những nơi khác, bao quanh khu mộ đều lởm chởm những gốc cỏ tranh. Loại cỏ này, không rõ do hoang dại tự nhiên hay người quản trang cho những nhà nuôi bò vào trồng để cắt nuôi bò, rồi do phải dọn dẹp làm đẹp nghĩa trang để chào mừng ba mươi lăm năm Giải phóng miền Nam, người ta đã cắt và đốt trụi từ mấy tháng trước, giờ các gốc cỏ cứng đâm lên tua tủa như chông nhọn.
Chúng tôi ngồi nghỉ uống nước được một lúc thì thầy Hòa đến. Tôi hỏi:
- Ngồi vòng tròn thế này được chưa, thầy?
Ông đưa mắt nhìn từng người:
- Cảm ơn. Được rồi. Giờ các vị cùng nhắm mắt lại, miệng hay bụng nhớ khấn liên tục mấy tiếng Nam Mô A Di Đà Phật. Tôi sẽ đi vòng quanh, đưa tay trên đầu từng vị và gọi hồn bác Khôi. Nếu bác ấy không về, là tại tôi không hợp. Bác ấy về mà không nhập vào ai, tức là bác ấy không nằm ở nghĩa trang này. Còn bác ấy nhập vào ai, người đó sẽ không còn là mình, mà là bác Khôi. Bác ấy đứng dậy, đi đến chỉ mộ nào, đó đích thị là nhà bác ấy.
Hưng, con rể lớn, nói thầm cho riêng tôi nghe thấy:
- Cứ như chuyện hoang đường.
Thầy Hòa chắc chắn không thể nghe được câu này, nhưng bất ngờ thầy nhìn thẳng vào Hưng:
- Anh đứng dậy đi. Anh không tin mà ngồi đây, bác Khôi về biết, bác ấy giận là hỏng hết việc.
Hưng ngượng nghịu chưa muốn đứng dậy, khiến tôi phải giục:
- Con ra đi.
Ông Tư Quảng lúc đó cũng vừa đi đến, biết chuyện, nói thêm vào:
- Vong về mà giận là bỏ đi luôn đấy.
Chờ Hưng ra ngoài vòng, thầy Hòa nói tiếp:
- Tất cả nhớ nhắm mắt lại. Tôi bắt đầu rồi đó.
Tôi nhắm mắt nhưng thực ra vẫn ti hí để theo dõi nhất cử nhất động của ông thầy, thấy ông cùng nhắm mắt, có vẻ là nhắm thật, miệng lẩm nhẩm thành tiếng như đọc kinh, nhưng không rõ tiếng gì… Nhưng nếu là nhắm mắt thật, sao ông ta lại di chuyển chính xác từ người này sang người khác và giơ bàn tay đúng trên đỉnh đầu từng người? Với đám trẻ, ông gần như chỉ lướt qua vài giây. Cậu Hùng, Dương Trọng Dật thì lâu hơn một chút. Đến tôi, ông nói:
- Bác mở mắt ra đi. Bác tuy là em ruột, nhưng vong không chọn bác đâu.
- Tại sao?
- Tôi cũng không biết. Bác Khôi đã về rồi và không chọn bác.
Tôi đành mở mắt nhưng rất ngượng, đành tự giải thích, có lẽ do mình thiếu trung thực khi vẫn ti hí mắt.
Thầy Hòa giữ tay phía trên đầu vợ tôi lâu nhất. Nhìn gương mặt thành khẩn đến có phần mê muội của vợ, tôi có niềm tin, anh tôi sẽ nhập vào. Nhưng rồi, thầy Hòa lại chuyển sang cô Vân, vợ Dương Trọng Dật.
Lúc này, cả thầy Hòa, ông Tư Quảng và cả đoàn chúng tôi, ai nấy đều mồ hôi mồ kê nhễ nhại, lưng áo, ngực áo ướt đầm, nhưng do cùng bị thu hút tâm trí vào vụ gọi hồn, nên không thấy bức bối bởi cái nắng nóng hầm hập muốn cháy cả da mặt.
Mặt, mắt cô Vân bỗng tự nhiên dại đi. Thoạt tiên là đầu, sau thì cả người cùng lắc lư. Bàn tay thầy Hòa đưa dần lên cao. Cô Vân đang ở tuổi ngót bảy mươi nhưng đứng bật dậy như thanh niên, loạng choạng rời khỏi tấm bạt trải trên đất.
Thầy Hòa rút tay lại và mở mắt:
- Bác Khôi đi chỉ mộ rồi đấy.
Sợ Vân bị ngã, tôi vội đứng dậy đỡ lưng cô:
- Để tôi đi theo.
Nhưng vừa bước ra ngoài tấm bạt, chân tôi đau tóe máu, khi giẫm phải những gốc cỏ tranh nhọn sắc như dao, đành phải buông Vân ra. Do trước khi vào ngồi tấm bạt, mọi người đều bỏ giày, dép bên ngoài, việc theo Vân đột ngột nên tôi không kịp xỏ giày. Riêng cháu Trang đi dép lê, tiện xỏ vào nên kịp bước theo, đỡ một bên tay Vân.
Còn tất cả đều hồi hộp đến cứng người từ lúc cô Vân rời tấm bạt vì không rõ cô sẽ đi tới đâu. Bước chân của cô chệnh choạng, lờ quờ, như người mù mất phương hướng, dường như phải nhờ Trang đỡ mới khỏi ngã.
Thầy Hòa bình tĩnh nói:
- Bác ấy đi loạng choạng vậy, nhưng không ai đỡ thì cũng không ngã đâu.
Cô Vân không đi thẳng từ bãi đất vào đầu khu vực các dãy mộ, mà theo đường đất đỏ đầy gốc cỏ tranh, chạy giữa hàng cây sao và khu các dãy mộ.
Tôi thốt lên:
- Sao đi lạc đường rồi?
Thầy Hòa nói:
- Mộ bác Khôi ở đây là chắc chắn rồi. Vong không đi sai đâu.
Cô Vân đi đến cuối khu vực các ngôi mộ, mới rẽ ngang vào nền bê tông cao hơn mặt đất chừng hai mươi centimét. Đây là góc giao nhau giữa hai con đường thuộc lề bên trong và cuối khu mộ. Vân cứ thế đi theo lề dọc, qua một hàng, hai hàng, hết hàng thứ ba, cô rẽ vào khoảng giữa hàng ba và hàng tư, đến ngôi thứ năm - chính ngôi mộ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư chỉ - thì ngồi sụp, ngã sấp, hai tay dang ra ôm lấy ngôi mộ, rồi bất tỉnh. Cháu Trang sợ hãi nhìn về hướng chúng tôi đang ngồi tít ngoài cổng, la lối:
- Bác Vân bị ngất. - Trang bật khóc. - Các bác ơi! Bác Vân bị ngất rồi.
Lúc ấy chúng tôi mới như bừng tỉnh, cùng nhau xỏ giày, xỏ dép chạy đến chỗ mộ anh Khôi, thì Vân đã nhỏm dậy, ngơ ngác nhìn mọi người và hỏi chồng:
- Sao em lại ở đây?
Dương Trọng Dật hỏi:
- Em có cảm giác gì khi đi từ bãi đất tận ngoài cổng vào đây?
- Em không biết. Em chỉ thấy tai mình ù ù và hình như có ai đó bảo đi theo. - Bỗng cô nhìn xuống chân. - Ối trời! Sao chân em đầy máu thế này?
Đúng là hai bàn chân trần của Vân đầy những vết máu do các gốc cỏ tranh đâm nát.
Vợ tôi ngồi xuống, lấy một xấp khăn giấy lau vết thương cho Vân:
- Tại sao đi suốt từ ngoài cổng và toàn giẫm lên gốc cỏ tranh sắc nhọn, Vân không có cảm giác gì?
Vân vẫn ngơ ngác:
- Em không biết. Nếu đau, em làm sao đi nổi.
Chúng tôi cũng cùng kinh ngạc, khi với khoảng cách gần trăm mét nền đất đỏ, không chỉ toàn gốc cỏ tranh mà còn nóng bỏng bởi nắng hun suốt từ sáng, làm sao bàn chân của người cả đời giày dép ở thành phố lại có thể đi liền một mạch?
Trời lúc đó bỗng nhiên râm mát lại, bởi những đám mây xám ùn ùn kéo che khuất mặt trời.
Mọi người được thoát khỏi nắng nóng, cùng reo:
- Chắc do bác Khôi và hương hồn các liệt sĩ phù hộ.
Tôi nói:
- Do có chuyện thầy Hòa chỉ đúng mộ bác Khôi mà cậu Nguyễn Văn Lư đã chỉ, một chuyện lạ kỳ, nhưng không tin không được, nên lát nữa, nếu nắng lên trở lại gay gắt hơn, chúng ta cũng làm lễ và ăn luôn tại mộ, coi như ăn chung với bác Khôi và các đồng đội của bác.
Mọi người đều vui vẻ tán thành. Tôi quay ra, nói với ông Tư Quảng:
- Chú cũng dự luôn với chúng tôi cho vui.
Vừa lúc đó, những người trong gia đình liệt sĩ Đỗ Văn Trường, đứng đầu là viên trung tá, cũng từ khu mộ đối diện kéo sang. Bằng giọng chân thành, tôi nói với thầy Hòa và họ:
- Thành thật cảm ơn thầy Hòa đã giúp chúng tôi, cũng cảm ơn gia đình, nhờ các vị mời thầy Hòa vào đây, mà chúng tôi được thầy giúp tìm đúng mộ của anh tôi. Nói thật chính xác là thầy đã giúp chúng tôi xác nhận trăm phần trăm nhà anh tôi đang ở đây. Gia đình chúng tôi đã chuẩn bị cơm cúng từ Sài Gòn, và bây giờ hơn một giờ, chắc tất cả cùng đói, xin mời thầy Hòa và gia đình cùng sang cả bên này ăn bữa, trước lạ sau quen, vì liệt sĩ của hai nhà đã là anh em, từng ở chung với nhau mấy chục năm.
Viên trung tá bước lại nắm tay tôi:
- Em vô cùng cảm ơn bác và tất cả các bác, các anh chị và các cháu. Thật là tiếc khi bữa cơm giỗ bác Khôi này cũng là bữa cơm kết nghĩa nhưng chúng em sang đây, trước hết là mừng cho các bác đã tìm đúng anh mình, sau nữa cũng chào các bác, để đón thầy Hòa về, vì chính thầy đã chọn đúng một giờ xe chở hài cốt anh em phải chuyển bánh về Bắc. Người dương mình, giờ cao su thế nào cũng xuề xòa cho qua, nhưng người âm, như thầy Hòa đã nói, thì một phút cũng không được sai.
Cuối cùng bữa cơm giỗ ngoài trời chỉ có người của gia đình chúng tôi và ông Tư Quảng. Và cái nắng nóng khắc nghiệt của miền trung du đất đỏ không hiểu sao không quay trở lại.
Tôi hỏi ông Tư Quảng:
- Liệu có thể do tâm linh các liệt sĩ phù hộ?
Ông Tư Quảng nói:
- Tôi ở nghĩa trang này hơn hai chục năm, nhiều đêm nghe tiếng chân bộ đội hành quân, có đêm nghe tiếng hát, tiếng cười, cả tiếng khóc, tiếng đám nhậu. Tôi thức giấc và mang đèn pin đi soi, chẳng thấy gì. Lúc đầu nghĩ là mình ngủ mê. Sau quyết thức suốt đêm, từ cửa sổ nhìn ra, thấy toàn lính trẻ anh em mình. Tôi báo cáo lên trên. Mấy ảnh nói, tôi thương binh nên có dấu hiệu tâm thần, liền thay người khác về. Người này ở lâu, rồi cũng thấy như tôi, nhất định xin nghỉ. Lại thay. Thay tới ba người, không ai trụ nổi, lại phải đưa tôi về. Còn mưa nắng thất thường ở đây, không theo quy luật thông thường đã ngấm vào máu dân đất đỏ trung du vùng này, thì ai quanh đây cũng biết. Suốt mấy chục năm nay, vào ba ngày Thương binh Liệt sĩ, Quốc khánh và ba mươi tháng Tư thống nhất Bắc Nam, luôn luôn là những ngày nắng đẹp. Còn những ngày ở nghĩa trang có cuộc giao lưu giữa thân nhân và các vong linh liệt sĩ thật xúc động, tôi phải nói rõ là thật và xúc động, thì thế nào trời đang mưa cũng tạnh, mà đang nắng cũng đổ mưa. Như hôm nay, rõ ràng đang nắng nóng muốn chết, vậy mà bỗng nhiên có mây đen và mát đến tận bây giờ. Tôi kể lại, có người bảo từ tâm linh liệt sĩ, nhưng nhiều người lại nói thằng Tư Quảng ở lâu với người chết nên mê tín dị đoan.
Tôi hỏi:
- Tại sao chúng tôi xin mở mộ lấy vụn xương đi thử ADN không được, trong khi mộ liệt sĩ Đỗ Văn Trường cũng nhờ nhà ngoại cảm tìm, lại được thừa nhận và cho chuyển hài cốt về quê?
- À… Hai trường hợp khác nhau. Bác Trường là bộ đội chủ lực bổ sung cho địa phương, đánh giải phóng Phước Long năm 1974. Sau trận đánh, bác ấy và những đồng đội hy sinh được chôn tạm trong rừng cao su, đến năm 1978, khi quy tập về mảng bên đó, thì số hài cốt vì lý do nào đấy bị nhầm, lộn hoặc thành vô danh, rất ít. Còn mảng bên này, các liệt sĩ, trong đó có bác Khôi, hy sinh từ năm 1970 ở Campuchia, nhưng mãi đến năm 1982, khi bên bạn ổn định và tích cực hợp tác, mình mới tổ chức các đội quy tập lớn, rước các liệt sĩ về. Hài cốt mười mấy, hai mươi năm trong lòng đất, hầu hết chỉ còn xương vụn. Rồi hồ sơ, giấy tờ thất lạc, địa hình thay đổi, người trong cuộc phần lớn hy sinh hoặc giải ngũ, nên số bị nhầm lộn và vô danh rất nhiều, được an táng ở mảng bên này. Bác Trường được Thương binh Xã hội tỉnh đồng ý cho nhà ngoại cảm tham dự, không phải do được ưu tiên gì, mà do đây là ngôi mộ vô danh nhưng hai nhà đều nhận của mình. Nhà kia ở Nam Định, do hai người là đồng đội của liệt sĩ chỉ. Hai bên gặp nhau tranh cãi mất mấy năm, đến mức gả cả con cho nhau vẫn chưa ngã ngũ, cuối cùng nhà ngoại cảm Lê Văn Hòa tham gia, khiến cán cân nghiêng về một phía, nhà bên Nam Định mới chịu. Cái thằng thiếu úy bộ đội biên phòng, là cháu ruột bác Trường, chính là con rể nhà bên Nam Định.
Nghe Tư Quảng kể mà miếng cơm nghẹn trong họng, chúng tôi chỉ muốn khóc.
Vợ tôi hỏi:
- Trường hợp anh tôi vừa được thầy Hòa gọi hồn, chỉ đúng mộ mà thầy Nguyễn Văn Lư đã chỉ, chú cũng chứng kiến thì sao?
- Tôi sẽ báo cáo toàn bộ sự việc lên Thương binh Xã hội tỉnh, hy vọng mấy chú trên ấy sẽ linh động.
Im một lúc, ông Tư Quảng nói tiếp:
- Nói thật là ở nghĩa trang này, tận mắt thấy bao nhiêu là chuyện không thể nào tin trong các quan hệ giữa hương hồn các liệt sĩ với thân nhân, nhưng rồi không tin không được… Như cô Vân đây, bây giờ đưa cô ấy mười triệu đồng, bảo đi chân đất từ đây ra cổng, tôi đố cô ấy đi được.
Bữa cơm giỗ thân mật giữa gia đình tôi với anh Khôi và đồng đội của anh kết thúc lúc gần hai giờ thì nắng nóng bắt đầu trở lại. Cơm no, rượu say, cái mệt bởi đường xa bây giờ mới ngấm, chưa kể ai nấy đều mất giấc ngủ trưa, bắt đầu nhớ nhà với máy lạnh, phòng kín. Tôi bảo:
- Mình đốt vàng mã, dọn dẹp “chiến trường”, tạm biệt anh Khôi và đồng đội, rồi lên xe được rồi.
Vợ tôi nói:
- Thanh Vân nó nói, không được về trước ba giờ, vì mình sẽ có hai quý nhân phù trợ.
Tôi bảo:
- Ông thầy Hòa là một, còn ông Tư Quảng hứa sẽ thuyết phục được Thương binh Xã hội tỉnh ủng hộ mình, không là hai à?
Dương Trọng Dật:
- Việc làm của Tư Quảng đúng là hai, nhưng nếu chặt chẽ về chữ nghĩa, đó là trách nhiệm của ông ấy, chứ không đúng nghĩa quý nhân phù trợ như ông Hòa.
Tranh cãi sôi nổi một hồi, dẫn đến kết luận, sau khi hóa vàng và dọn dẹp xong, tất cả giải tán, tự do tìm chỗ nghỉ, ngủ trong nghĩa trang, đúng ba giờ, nếu không có quý nhân xuất hiện thì coi như ông Tư Quảng chính là người thứ hai, còn nếu có quý nhân xuất hiện, tội gì mình không thụ hưởng sự sắp xếp của thần linh qua miệng “Vân Bói”.
Đúng ba giờ chiều, trời đang nắng gay gắt bỗng râm lại. Hai chiếc xe, một chiếc Toyota bảy chỗ mang biển số đỏ quân đội và chiếc Mercedes loại xe cấp cứu của bệnh viện, màu trắng, in logo chữ thập đỏ bên cánh cửa, nối đuôi nhau chạy vào cổng nghĩa trang. Hơn chục người cả đàn ông, đàn bà mặc thường phục, quân phục, trên hai xe ùa xuống. Từ cửa hậu xe cấp cứu, mấy người mặc quân phục lần lượt đỡ ra khỏi xe hai chiếc xe lăn. Ngồi trên chiếc thứ nhất là một bà lão, còn trên chiếc thứ hai là một ông lão, râu tóc bạc trắng, mặc bộ quân phục mới, lon trung úy, trên ngực trái đeo đầy huân chương các loại, cùng trong khoảng tám mươi tuổi. Mấy người phụ nữ từ hai xe, vừa đặt chân xuống đất, đã lập tức khóc òa.
Ông Tư Quảng từ trong dãy nhà tiếp tân tất tả chạy ra. Một số người trên xe và ông đã biết nhau. Họ tay bắt mặt mừng. Tư Quảng có vẻ muốn mời tất cả vào phòng tiếp tân. Nhưng ông già ngồi trên xe lăn la lối bằng tiếng Nam Bộ rặt:
- Không nước nôi gì hết. Tất cả theo tôi ra mộ.
Tư Quảng vội đến trước ông già:
- Con chào chú Mười. Chú còn nhận ra con?
- Mày là Tư Quảng? Tao ở Phú Quốc nhưng cũng biết tin mày chết vì đạn Tàu ở biên giới phía Bắc. Sao giờ còn ở đây?
- Số con còn sống lâu mà chú. Mời chú và mọi người vào phòng tiếp tân nghỉ ngơi uống miếng nước đã.
- Bao nhiêu năm, mới trở lại đây, tao chưa kịp chào đồng đội, mày đã bắt tao uống nước là cái thứ gì? Ra mộ trước đã.
Chiếc xe lăn được đẩy rẽ ra hướng các ngôi mộ. Ông già hào hứng, nói tiếp:
- So với hồi năm 1982, đưa đợt hài cốt đầu tiên về đây, giờ quá nhiều thay đổi, nhưng ai nằm đâu, tôi vẫn nhớ như in. - Rồi ông bật khóc như đứa trẻ. - Xin anh em tha lỗi cho thằng Mười Cao bất trung. Chỉ vì tôi tàn tật, bệnh yếu mà mấy chục năm nay, tôi không một lần trở lại.
Một số người chịu xúc cảm lan truyền, bật khóc theo. Chiếc xe lăn được hai người lính trẻ đẩy lên phía trước theo tay chỉ của người lính già. Vì đường hẹp, cả đoàn xếp thành hàng theo chiếc xe đi dọc lề bê tông dãy mộ cuối cùng, vuông góc với mộ anh Khôi.
Sự ồn ào của những người khách mới khiến đám gia đình chúng tôi, đang nghỉ, ngủ ở những chỗ khuất và có bóng mát khắp nghĩa trang, đều tụ về dãy nhà tiếp tân.
Tư Quảng nói với tôi:
- Ông già đó là Mười Cao, từng trong đội quy tập hài cốt liệt sĩ đầu tiên hồi đầu giải phóng, của tỉnh đội Phước Long, chuyên đưa hài cốt anh em mình hy sinh ở Campuchia về nước. Trong đoàn có cả người của tỉnh đội, quân khu và Thương binh Xã hội tỉnh.
Ông Mười Cao đưa mọi người đi hết dãy mộ cuối cùng:
- Dãy này có mười chín ngôi vô danh đều đưa từ Campuchia về.
Khi cả đoàn theo ông rẽ phải, ngược lên đến hàng thứ ba, ông nói:
- Dừng lại, rẽ vào ngôi thứ tư. Chính là nhà của Phan Văn Dự.
Mọi người cùng đi đến ngôi mộ ông Mười nói.
Viên đại úy đi cùng, đọc tấm bia bằng đá đen gắn trên đầu mộ, rồi nói:
- Chú ơi! Như chúng tôi đã nói ở quân khu, trong hồ sơ lưu trữ, đây là mộ của liệt sĩ Phan Văn Cừ, sinh năm 1943, quê quán Thanh Hóa chứ không phải Hà Tĩnh.
Ông Mười lớn tiếng:
- Tại sao Dự thành Cừ, Hà Tĩnh thành Thanh Hóa, tôi không cần biết. Chỉ biết chính tay tôi chôn, với giấy tờ kèm theo ghi rõ ràng Phan Văn Dự, sinh năm 1943, quê quán Hà Tĩnh, mất ngày hai mươi ba tháng Năm năm 1970. Toàn bộ cụm này, liệt sĩ là quân địa phương, họ tên gì, quê quán ở đâu, mất ngày nào, thậm chí, trong mộ chôn theo những vật gì, tôi thuộc hết. - Ông chỉ vào ngôi mộ có tấm bia Phan Văn Cừ. - Trong tiểu đựng hài cốt đồng chí Dự, do chôn ở chỗ khô nên các xương ống chân, xương đùi, một ít xương sống, xương hàm thì mủn, nhưng răng vẫn chưa xỉn. Đặc biệt, tôi còn chôn theo cả cái bình toong Trung Quốc, khẩu K54 và hai lọ Penicillin không nắp. Tại sao các mộ khác có một, mộ này có hai thì không biết. Giờ các đồng chí đào lên, mở nắp tiểu, không thấy những thứ tôi vừa kể, tôi xin các vong liệt sĩ quật chết tôi ngay tại đây vì tôi nhớ sai, nói xạo.
Bà mẹ liệt sĩ Dự vẫn ngồi trên xe lăn, năn nỉ:
- Bác ấy đã thề độc như thế rồi, xin các chú cứ thực hiện như đã bàn ở nhà. Nếu bác ấy nhớ sai thì cả nhà tôi cũng xin chịu lỗi cùng bác ấy.
Mấy sĩ quan quân đội đi cùng đoàn tách ra hội ý với nhau vì rõ ràng họ gặp phải trường hợp khó xử.
Ông Tư Quảng kể với tôi:
- Mộ này vào ngày Thương binh Liệt sĩ hai mươi bảy tháng Bảy và ba mươi Tết Nguyên Đán vẫn có mấy người đồng đội và một cặp vợ chồng ở Đồng Nai, nói là cháu của liệt sĩ Phan Văn Cừ lên thắp nhang.
Tranh thủ lúc mấy sĩ quan quân đội và người của Thương binh Xã hội tỉnh hội ý, tôi đến bên chiếc xe lăn, bắt tay ông Mười Cao:
- Chào bác! Tôi là em trai liệt sĩ hy sinh ở Svay Rieng. Hôm nay là ngày mất của anh ấy, chúng tôi lên làm giỗ, rất may được gặp bác là người đã tham gia đưa hài cốt anh tôi từ Campuchia về. Cả gia đình chúng tôi xin vô cùng cảm ơn bác và đơn vị đã làm được một việc vô giá.
Ông Mười nắm chặt hai tay tôi:
- Trước hết tôi mừng cho liệt sĩ và cả gia đình, nhưng chú nói cảm ơn tôi là tôi giận đấy. Các đồng đội từng cùng vào sinh ra tử với tôi ở chiến trường hy sinh, tôi may mắn còn sống mà không đưa được bạn về quê thì tôi là cái loại gì?
- Vậy, thành thật xin lỗi bác. Bác không cho nói cảm ơn, thì chúng tôi vẫn là người chịu ơn. Tiện đây cũng xin bác nói kỹ hơn một chút về việc quy tập hài cốt các liệt sĩ từ Svay Rieng về Việt Nam được không?
- Nhưng anh chú tên gì?
- Anh tôi tên Nguyễn Minh Khôi.
Ông Mười Cao reo:
- Đồng chí Khôi thương binh ở bệnh xá thì tôi biết. Nguyễn Minh Khôi, dân Hà Nội, lính Sư đoàn 9, bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, trên đường ra Bắc học tập thì bị thương phải ghé vào bệnh xá điều trị.
- Bác cũng là người của bệnh xá?
- Không. Tôi thuộc lính tỉnh đội. Khi Mỹ tấn công, tỉnh đội cử đại đội tôi xuống bảo vệ bệnh xá và giúp di tản thương binh vào địa điểm an toàn. Khi cùng chiến đấu, tôi mới quen người của bệnh xá, trong đó có đồng chí Khôi. Đồng chí ấy đang điều trị vết thương dập chân, nhưng chiến đấu rất sung. Biết nhau mới được ba ngày thì đồng chí ấy hy sinh.
- Vậy tại sao về đây anh ấy lại nằm trong số những mộ vô danh? Chúng tôi biết được anh ấy là nhờ nhà ngoại cảm.
Ông Mười Cao không có vẻ gì là ngạc nhiên:
- À! Vụ này vướng ngay từ khi chúng tôi sang bốc hài cốt. Lúc khai quật từng ngôi mộ, người nào cũng được chôn theo một lọ Penicillin ghi tên tuổi, đơn vị, nhưng một số chỉ ghi số thứ tự và chữ viết tắt. Thì ra những người được ghi tên tuổi rõ ràng là những người thuộc biên chế bệnh xá hoặc lính địa phương, biết thông tin chính xác, còn thương binh thuộc bộ đội chủ lực như đồng chí Khôi, hoặc những cá nhân, đơn vị hành quân qua, thấy địch đến là đánh rồi hy sinh, chỉ có cách đánh số, để tìm hiểu sau. Nhưng rồi có thể đồng chí làm việc này cũng hy sinh, rồi chiến tranh xáo trộn, rồi thời gian quá lâu, hồ sơ mai một, thế là đành phải ghi các liệt sĩ này là “chưa biết tên”. Nhưng trường hợp đồng chí Khôi, nhà ngoại cảm chỉ vậy là đúng đấy.
Vợ tôi lúc đó cũng đi đến:
- Theo bác, việc quy tập hài cốt liệt sĩ từ Campuchia về, liệu có bị bỏ sót?
- Ở trong nước mới có vụ bỏ sót, vì giai đoạn những năm đầu là chiến tranh du kích và các trận đánh nhỏ ở khắp nơi, liệt sĩ cũng chôn khắp nơi, nên nhiều và phức tạp khi tìm kiếm. Còn liệt sĩ ở Campuchia, chủ yếu trong chiến dịch Mỹ - Việt Nam Cộng hòa tổng tấn công mấy tháng mùa khô năm 1970, suốt dọc các tỉnh biên giới miền Đông Nam Bộ, lan sang cả Svay Rieng, Campuchia. Nhưng sau khi thua, chúng cũng rút sạch, nên việc chôn cất liệt sĩ tương đối tập trung. Việc tìm kiếm chỉ khó khăn vì thời gian trôi qua, nhiều dấu tích bị mất, rồi địa hình, địa vật thay đổi, cùng với thời bọn diệt chủng Pôn Pốt gây hấn, chứ không có vụ bỏ sót. Thậm chí, lính Việt Nam Cộng hòa chết, chúng nó rút vội, bỏ xác lại, chúng tôi cũng hốt về nước an táng hết.
Vợ tôi hỏi với phản xạ của dân làm báo:
- An táng ở đâu?
- Tất nhiên không thể để chung trong nghĩa trang liệt sĩ mình rồi. Đưa họ đi chôn là mấy anh em tiểu đội khác, nhưng ở rừng cao su gần đây thôi. Chuyến tôi đi, đưa về năm hài cốt lính máy bay trực thăng Việt Nam Cộng hòa. Chính tôi cùng đồng chí Khôi và mấy đồng chí đội bảo vệ bệnh xá bắn cháy mấy chiếc khi chúng nó rà sát bắn rocket xuống bệnh xá hồi tháng Năm năm 1970. Nhưng khi biết năm lính trực thăng này được chôn ở đấy, trung tá Đảnh, đội trưởng đội quy tập của chúng tôi nói: “Lúc đánh nhau là kẻ thù, nhưng khi chết, họ cũng là đồng hương với mình…”. Chúng tôi đều đồng tình. Bây giờ, hơn bốn mươi năm, tất cả có lẽ đều thành đất, lính ta còn được quy tập vào nghĩa trang liệt sĩ, người vô danh cũng được thăm viếng, còn những người như họ dù được đưa về nước thì nơi chôn cũng vô danh…
Các sĩ quan thuộc Quân khu 7, tỉnh đội Bình Phước và cán bộ Thương binh Xã hội tỉnh hội ý xong trong nhà tiếp tân của nghĩa trang, cùng nhau trở lại ngôi mộ liệt sĩ gắn tấm bia tên Phan Văn Cừ.
Viên trung tá nói với ông Mười Cao và gia đình liệt sĩ:
- Sau khi hội ý với nhau, rồi xin ý kiến của lãnh đạo quân khu, lãnh đạo tỉnh đội và Thương binh Xã hội tỉnh, chúng tôi đồng ý thực hiện yêu cầu của gia đình và chú Mười Cao là sẽ mở ngôi mộ này. Vụ này, xin gia đình và chú Mười thông cảm, không phải vì chúng tôi làm khó, mà vì trí nhớ của đồng chí chưa phải là bằng chứng vững chắc, trong khi mộ này, theo ghi nhận của quản trang, hàng năm vẫn có người thân của đồng chí Phan Văn Cừ đến thăm viếng.
Ông Mười Cao nói:
- Rồi rồi. Thông cảm rồi… Lẽ ra các đồng chí phải sớm hiểu, tôi đi xe lăn từ Phú Quốc đến đây, cứ cho là trí nhớ tồi, còn mẹ già của đồng chí Dự, nếu không có tâm linh của con trai chỉ dẫn, thì không việc gì đi xe lăn từ Hà Tĩnh vào đây gặp con… Nhưng đã nói thông cảm rồi, các đồng chí đừng lăn tăn nữa… Lát nữa mở mộ lên, không có bình toong Trung Quốc, hai lọ Penicillin và khẩu K54, tôi sẽ xin các liệt sĩ nghĩa trang Phước Long này mở phiên tòa tử hình Mười Cao ngay tại đây vì tội nói xạo.
Phần cảm xúc của ông Mười ở mấy lời cuối đúng là của người già, nhưng các đại diện quân khu, tỉnh đội, Thương binh Liệt sĩ tỉnh cũng thông cảm ngược, cùng mỉm cười đưa mắt cho nhau.
Ông Tư Quảng thông thạo với việc làm lễ mở nắp mộ, phát nhang cho mọi người, cùng tất cả làm lễ xin phép các vong linh liệt sĩ, hai liệt sĩ Phan Văn Dự và Phan Văn Cừ để mở nắp mộ.
Đoàn gia đình nhà tôi cũng xúm quanh ngôi mộ.
Khi nắp tiểu được mở ra. Chỉ thấy nửa phần tiểu phía dưới toàn một loại đất mùn chỗ nâu, chỗ đen.
Tư Quảng giải thích:
- Do đất trên này khô nóng nên hài cốt đều như vậy.
Ai đó trong đám đông nói:
- Sao không thấy xương như một số mộ khác?
Một người khác nói:
- Hơn bốn chục năm làm gì còn.
Ông Mười Cao vẫn ngồi trên xe lăn, lặng thinh và chăm chú nhìn vào lòng tiểu suốt từ lúc nắp tiểu được mở ra, rồi chỉ vào chỗ đất hơi lồi lên ở phần cuối miệng tiểu:
- Bới chỗ đất lồi lên coi nào.
Người lính trẻ trực tiếp mở nắp tiểu, vục tay vào chỗ đất lồi. Mọi người còn đang nín thở hồi hộp, thì anh giơ lên chiếc bình toong han rỉ, bám đầy đất.
Ông Mười Cao hào hứng quả quyết:
- Dưới bình toong còn khẩu K54 và hai lọ penicillin nữa.
Giữa lúc mọi người cùng reo vừa mừng vừa kinh ngạc thì bà mẹ già của liệt sĩ Phan Văn Dự ngất xỉu.
- Cấp cứu! Đưa mẹ đi cấp cứu.
Chính bà mẹ gần chín chục tuổi này, suốt từ giữa năm 1975, khi đất nước vừa hòa bình, đã cùng con dâu không biết bao nhiêu lần vào Nam, ra Bắc, đi gõ cửa khắp nơi, cuối cùng người ta bảo chỉ còn một cách cố gắng tìm được đồng đội hay người từng tham gia quy tập hài cốt những liệt sĩ ở trạm giao liên PL12 hoặc bệnh xá căn cứ của tỉnh, may ra bắt được manh mối. Người con dâu dần luống tuổi phát bệnh không đi nổi, một mình bà với thằng cháu vẫn đi. Lại đi khắp nơi tìm bằng được những đồng đội của con. Đa số đã qua đời, nhiều người không còn nhớ, nhiều người hoàn toàn không biết, nhưng rồi người nọ mách người kia, bà tìm ra được Mười Cao đang ở tận đảo Phú Quốc. Ông Mười Cao đã ở tuổi gần đất, xa trời, phải ngồi xe lăn, không lý gì từ chối giúp đỡ bà mẹ Hà Tĩnh cũng phải ngồi xe lăn đến nhờ vả mình, để cùng đi đến một kết thúc có hậu nhưng đẫm nước mắt bên hài cốt đứa con liệt sĩ.
Cuối cùng, xe chúng tôi rời nghĩa trang Phước Long lúc ba giờ ba mươi lăm phút. Khi về đến Đồng Xoài, thì điện thoại reo. Tôi nhận ra số máy của ông Tư Quảng:
- A lô!
- Vì bận vào vụ gia đình liệt sĩ Phan Văn Dự, nên phải chờ ổn rồi, tôi mới làm việc với chú An phòng Thương binh Xã hội tỉnh về vụ của bác Khôi. Báo cho hai bác và gia đình tin mừng, chú An nói: “Việc này vẫn phải có ý kiến và quyết định của cấp trên, nhưng để thân nhân các liệt sĩ phải chờ đợi một ngày, mình có lỗi một năm”, nên đồng chí ấy đồng ý cho hai bác gắn bia tên bác Nguyễn Duy Khôi lên mộ. Bước tiếp theo là nạp tên bác ấy vào hồ sơ lưu, chú ấy sẽ lo. Như vậy, sau khi xong thủ tục pháp lý, các bác có thể mở nắp mộ lấy vụn xương đi thử ADN, rồi đưa bác Khôi về quê, nếu muốn.
Tôi nói lời cảm ơn ông Tư Quảng. Rồi lặng đi. Không vui cũng không buồn, vì cả hai cảm xúc đó đều bị nghẹn nơi cổ. Cần gì phải mở nắp mộ, cần gì phải thử AND, khi mọi chuyện đã rõ ràng và tất cả đều chỉ còn là đất.
Vợ tôi nói:
- Ngày giỗ anh Khôi như vậy là có một kết thúc đẹp. Không biết có phải do các cụ tổ tiên và anh Khôi phù hộ? Ít nhất thì Thanh Vân nó nói đúng về hai quý nhân phù trợ, khi ngoài nhà ngoại cảm Lê Văn Hòa, có thêm người thứ hai là ông An nào đó ở phòng Thương binh Xã hội tỉnh Bình Phước.
Dương Trọng Dật ngồi cạnh, nói thêm vào:
- Nếu thế phải nói là ba quý nhân, vì bây giờ, tôi thêm ông Tư Quảng.
Bọn trẻ ngồi trong xe cười phá. Tuấn Phúc, thằng út của tôi hóm hỉnh:
- Thánh cũng có lúc nói sai nữa là cô Thanh Vân.
Do rời Phước Long trễ, trên đường lại bị tắc xe suốt dọc xa lộ Đại Hàn, nên hơn tám giờ tối chúng tôi mới về đến nhà ở Gò Vấp, Sài Gòn. Dù cùng mệt nhừ, chúng tôi cũng lên bàn thờ thắp nhang cảm ơn các cụ tổ tiên, bố mẹ và anh Khôi đã phù hộ nên ngày giỗ của anh được trọn vẹn với nhiều may mắn. Rồi tôi gọi điện cảm ơn Thanh Vân.
Vân “bói” cười:
- Em đã nói anh Khôi là đồng đội, anh không nhờ, em cũng làm, nên anh nói cảm ơn, em không nhận đâu. Nhưng vụ em nói hai quý nhân phù trợ thì thế nào?
Tôi kể sơ sơ lại chuyện xảy ở nghĩa trang, rồi nói vui:
- Anh chị thừa nhận em nói đúng, nhưng anh Dương Trọng Dật nói là ba chứ không phải hai.
Vân nói trong tiếng cười nhẹ:
- Anh chị nói hai, anh Dật nói ba, nhưng vẫn cùng không trúng một người. Mà thôi, em là thầy bói nói sai cũng là chuyện thường. Điều quan trọng, anh chị và gia đình có một ngày giỗ anh Khôi tốt đẹp là em mừng rồi.
Câu nói và tiếng cười nhẹ như gió thoảng của Thanh Vân, tôi nghe rồi cũng quên đi.
Đêm hôm đó, sau suốt một ngày vừa đi vừa về gần bốn trăm kilômét kèm theo bữa ăn giỗ ngoài trời tiêu hao khá nhiều sinh lực tuổi già, nên chúng tôi ngủ không còn biết trời đất.
Quá nửa đêm, dường như có người đứng đầu giường đánh thức tôi dậy. Thật khó khăn tôi mới mở được mắt, và giật mình nhổm dậy, ngơ ngác nhìn quanh. Người đứng ở đầu giường biến mất. Vợ tôi nằm bên vẫn đang ngủ ngon lành. Tôi nghĩ mình đã ngủ mơ.
Nhưng từ lúc đó, tôi không sao ngủ tiếp được. Từng chi tiết diễn ra ở nghĩa trang liệt sĩ Phước Long được phục hiện như cuốn phim quay chậm. Những diễn biến liên quan đến hài cốt anh Khôi lẽ ra phải được ghi nhận nhiều cảm xúc khó quên, thì hình ảnh bà mẹ hơn chín mươi tuổi từ Hà Tĩnh và ông Mười Cao, cựu chiến binh râu tóc bạc phơ, từ Phú Quốc, cùng ngồi xe lăn, lúc ở bên ngôi mộ liệt sĩ còn trong tranh cãi, ai nằm trong đó, lại ám ảnh sâu nặng hơn trong đầu tôi… Sau đó, từng lời sôi sục của ông Mười về những liên quan đến anh Khôi, vẫn rành rọt: “... Đồng chí Khôi thương binh ở bệnh xá thì tôi biết. Nguyễn Minh Khôi, dân Hà Nội, lính Sư đoàn 9, bộ đội chủ lực, miền Đông Nam Bộ, trên đường ra Bắc học tập thì bị thương phải ghé vào bệnh xá điều trị... Khi cùng chiến đấu, tôi mới quen người của bệnh xá, trong đó có đồng chí Khôi. Đồng chí ấy đang điều trị vết thương dập chân, nhưng chiến đấu rất sung. Chúng tôi biết nhau được ba ngày thì đồng chí ấy hy sinh... Thậm chí, lính Việt Nam Cộng hòa chết, chúng nó rút vội, bỏ xác lại, chúng tôi cũng hốt về nước an táng hết.... Tất nhiên không thể để chung trong nghĩa trang liệt sĩ mình rồi. Đưa họ đi chôn là mấy anh em tiểu đội khác, nhưng ở rừng cao su gần đây thôi. Chuyến tôi đi, đưa về năm hài cốt lính máy bay trực thăng Việt Nam Cộng hòa. Chính tôi cùng đồng chí Khôi và mấy đồng chí đ?