← Quay lại trang sách

DUYÊN KỲ NGỘ

Năm 1976 ngược về 1966.

Tôi vào Sài Gòn làm việc ở Cục Báo chí và Xuất bản miền Nam tháng Mười Một năm 1975, trụ sở ở 96 Đồng Khởi (đường Tự Do cũ), quận Nhất. Tại sao từ một thành viên Thanh niên Xung phong, nghề nghiệp thợ bậc Năm sửa chữa ô tô vận tải lâm nghiệp, đang lưu động ở rừng núi khắp các tỉnh miền Bắc, bỗng nhiên nhảy tót vào một cơ quan không dính gì với nghề ở tận Sài Gòn? Nguyên nhân, tôi bắt đầu viết văn vào tháng Năm năm 1970 (sau này, tôi mới biết là cùng tháng và năm anh Khôi hy sinh ở chiến trường miền Nam), với những truyện ngắn xuất hiện trên tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam và Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Hồi đó, cả miền Bắc chỉ có hai tờ này ở cấp trung ương, in các sáng tác văn học của các nhà văn, nhà thơ. Văn tôi hay dở với người đọc thế nào, tôi không biết, nhưng được in ở nơi trang trọng, rồi lại được vinh danh là cây bút trẻ của giai cấp công nhân, cùng lứa với hàng loạt các cây bút xuất thân hoặc gần gũi thợ thuyền đang nổi tiếng hơn mình như: Tô Ngọc Hiến, Lý Biên Cương, Nguyễn Sơn Hà, Hoàng Văn Lương, Trần Nhuận Minh, Lê Hường, Chử Văn Long… ở Quảng Ninh; Trần Tự, Nguyên Bình, Chu Văn Mười, Hoàng Hưng ở Hải Phòng; Đoàn Trúc Quỳnh, Lưu Nghiệp Quỳnh, Trần Dũng, Đỗ Bảo Châu, Tùng Điển, Phạm Ngọc Chiểu… ở Hà Nội, là sướng rồi. Có lẽ nhờ vậy, vào tháng Bảy năm 1975, tôi được nhà xuất bản Lao động mời đi trại viết tổ chức cho các cộng tác viên ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Tôi và Trần Dũng, cùng chỉ là cây bút trẻ, được đi cùng xe với hai nhà văn đàn anh là Lê Phương và Ma Văn Kháng. Trần Dũng cậy mình kiêm lái xe, đưa cả vợ là Lễ đi cùng. Năm người ngồi trên chiếc “Com-măng-ca” GAT 67 dã chiến cổ lỗ, màu rêu, do Liên Xô sản xuất từ Thế chiến thứ hai. Chạy theo đường Quốc lộ 5 từ Hà Nội đi Hải Phòng có hơn trăm cây số, nhưng đường vừa chật vừa xấu. Các cầu Phú Lương, Lai Vu trên đường bị Mỹ đánh bom sập, phải đi bằng cầu phao, còn các cầu khác chỉ đi được một chiều, muốn qua phải xếp hàng chờ xe ngược chiều đi hết mới đến lượt mình, nên chạy chậm như rùa.

Trần Dũng bảo anh Lê Phương xem tử vi, phán quá khứ, hiện tại tương lai của từng người để giết thời gian. Mấy năm đó, tử vi, kinh dịch, bói toán đang bị coi là mê tín dị đoan. Những người từng làm nghề này từ chế độ cũ, nếu không vào trại cải tạo, cũng bị coi là “phó thường dân”, do chính quyền địa phương quản thúc, nhưng trong giới văn nghệ sĩ, người có khả năng này vẫn túm năm tụm ba tán ở xa lông phòng khách cơ quan hay quán nước chè vỉa hè. Như Lê Phương, Hồng Đăng, Nguyễn Nguyên Bảy, Lê Khánh Trường, Lê Dưỡng Hạo… thì “tiếng thầm vang xa”, được coi như thánh. Anh Lê Phương, tên tuổi đang nổi như cồn, thuộc loại này. Khi xem cho tôi, anh phán: “Cậu sắp bỏ nghề. Đi chuyến trại viết này về, sẽ có người từ phương xa đến gặp… Người này sẽ đưa cậu đi hướng Nam, bằng tàu thủy. Có thể là Sài Gòn”. Năm đó, miền Nam vừa giải phóng được hai tháng, Sài Gòn đang là điểm đến đầy cám dỗ của nhiều người miền Bắc, nhưng muốn vào phải được chọn lọc qua rất nhiều cửa, nên anh Ma Văn Kháng, vợ chồng Trần Dũng và tôi cùng cười phá, coi đó là chuyện Lê Phương tán cho vui. Đến Đồ Sơn, tôi cũng quên ngay lời “tiên tri” này.

Sau trại viết, tôi trở về đoàn xe, đang đóng tại lâm trường Hương Sơn, Hà Tĩnh, thì được phòng tổ chức Công ty Ô tô Lâm sản báo phải về công ty gấp. Về đến Hà Nội, vào phòng tổ chức, tôi gặp anh Thanh Bình mặc quân phục Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, đầu đội mũ tai bèo, cổ quấn khăn rằn. Thanh Bình quê Cà Mau, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, tốt nghiệp Khoa Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, là biên tập viên nhà xuất bản Thanh niên, đang biên tập tập truyện ngắn đầu tay Tôi vẫn về nhà máy cũ của tôi, thì nhận lệnh vào Nam. Anh mới đi cuối năm 1973 nên chúng tôi là chỗ quen biết. Anh bảo:

- Ngay tức khắc, cậu phải theo tôi đến gặp người này.

Tôi hỏi:

- Để làm gì?

Anh nói:

- Cứ đến gặp sẽ biết.

Tôi với anh cùng ngồi trên chiếc xe Jeep Mỹ, cắm cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng chạy từ công ty tôi ở Văn Điển về đến số 10 Nguyễn Cảnh Chân, gần quảng trường Ba Đình, gặp ông Nguyễn Linh, Cục trưởng Cục Báo chí và Xuất bản miền Nam, trực thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, đang ra Hà Nội họp. Cuộc trò chuyện diễn ra rất ngắn gọn. Đại để, theo ông Nguyễn Linh, văn học miền Nam sau giải phóng sẽ có các lực lượng viết ở sẵn đô thị, địa phương từ trước, lực lượng từ chiến khu về, và lực lượng từ văn nghệ quân đội. Mỗi lực lượng đều có những đặc điểm, ưu thế cảm xúc và cách nhìn của mình về xã hội thời bình, nên ông muốn đưa một số nhà văn miền Bắc, chưa từng viết tác phẩm về chiến tranh, thâm nhập vào miền Nam, để thêm một cách nhìn và cảm xúc khác, hy vọng sẽ góp phần làm phong phú không khí văn học ở vùng đất mới. Ông đã đưa được hai nhà văn Lưu Nghiệp Quỳnh và Phạm Gia Thanh vào rồi. Tiếp theo, ông sẽ chọn và đưa vào một số nữa. Còn tôi nghĩ sao? Đương nhiên, tôi chẳng có lý do gì để mất cơ hội ngàn năm có một. Nhưng tôi thật sự bàng hoàng nhớ đến lời anh Lê Phương, tôi vốn tưởng anh chỉ tán cho vui, nào ngờ lại thành sự thật, và chính xác đến từng milimét. Mọi thủ tục để tôi chuyển công tác vào Sài Gòn chỉ diễn ra chưa đầy ba tháng và tôi cũng vào Sài Gòn bằng chuyến tàu thủy Thống Nhất, xuất phát từ cảng Hải Phòng, như anh Lê Phương nói.

Nghe tôi kể chuyện gặp anh Thanh Bình và ông Nguyễn Linh, Trần Dũng cười sằng sặc:

- Sao mày dễ tin thế? “Bói” chính xác đến tận chân tơ kẽ tóc như thế thì chắc chắn hai cha Lê Phương và Thanh Bình đã gặp nhau trước khi gặp mày.

Vào thời điểm hai thằng siêu vô thần gặp nhau lúc đó, tôi tin ngay Trần Dũng nói đúng. Nhưng dù anh Lê Phương có biết trước rồi tán cho vui đi nữa, thì điều quan trọng nhất với tôi là mình đã đột nhiên được đặt chân lên vùng đất mới, điều mà bất cứ ai chọn nghề cầm bút cũng đều mong muốn.

Tôi làm việc ở Cục Báo chí và Xuất bản miền Nam đến cuối năm 1976 thì vào một buổi sáng, khoảng chín giờ, cô nhân viên trực văn phòng lên báo có người tên Danh Quỳnh xin gặp, đang chờ dưới phòng khách.

Sau một thoáng sững sờ, tôi bật vội khỏi ghế, đi như chạy xuống phòng khách. Người đang ngồi chờ tôi ở xa lông chính là bác Danh Quỳnh. Bác mặc bộ com lê màu ghi sáng bằng loại vải mềm đắt tiền mang nét sang ngầm, mắt đeo kính râm nhạt, gương mặt không già đi, nhưng trầm lặng rất nhiều so với hồi hai mươi năm trước ở ngõ Tư Đường, Trần Nhật Duật, Hà Nội.

Thấy tôi vào, bác chậm rãi đứng dậy, và cười một cách chừng mực.

Tôi xúc động bước lại, ôm chặt bác:

- Cháu nghĩ bác không còn trong nước.

Bác Quỳnh nói:

- Bác ở trại cải tạo ra cách đây một tuần. Sau khi tĩnh tâm và hồi phục, việc đầu tiên là bác đến gặp cháu.

- Làm sao bác biết cháu làm việc ở đây?

- Danh Huyền cho bác biết. Trước hết, bác chúc mừng cháu đã tiến lên chứ không phải lùi lại như định mệnh.

Tôi hiểu hàm ý sâu xa của lời chúc, nhưng cảm xúc được gặp lại bác như một người thân quý sau gần hai chục năm xa cách mười phần hạ xuống chỉ còn lại năm khi nghe bác nhắc tới Danh Huyền. Có lẽ bác nghĩ tôi và Huyền vẫn là chỗ thân thiết.

Thực ra, từ năm 1966 đến nay, đúng mười năm, chúng tôi không còn liên hệ với nhau, bởi cơn giận vô bờ bến khi Huyền đột ngột phản bội anh Khôi, cưới họa sĩ Bá Vân...

Thời gian đó, tôi đang làm thợ ở xưởng sửa chữa ô tô thuộc Ty Lâm nghiệp sơ tán trong rừng Thác Cát, Hoành Bồ, Quảng Ninh, thì chị Tâm viết thư ra bảo chuẩn bị thu xếp thời gian, để cuối năm về quê dự đám cưới anh Khôi. Bốn chị em tôi lúc đó ở bốn nơi. Chị Tâm và chồng là anh Nghiệp theo trường Đại học Nông nghiệp 2 sơ tán ở Việt Yên, Hà Bắc. Anh Khôi theo đội Khảo sát Thủy lợi 2, đóng ở Khoái Châu, Hưng Yên. Thằng Vinh đi Thanh niên Xung phong đóng quân ở Quảng Bình. Còn tôi ở Quảng Ninh. Về tình cảm ruột thịt, mấy chị em đương nhiên rất gắn bó, chữ nghĩa cũng có đủ, nhưng không bao giờ viết thư cho nhau và cũng chẳng bao giờ để tâm về chuyện đó. Giờ đây bỗng nhiên có thư, lại là lá thư không đầu không đuôi. Tết năm rồi, tôi còn gặp anh Khôi ở Hưng Yên và vẫn nóng hổi vụ anh lấy xe của tôi chở Danh Huyền, cùng họa sĩ Bá Vân đạp xe về tận Hà Nội. Nếu lấy vợ, chắc chắn là lấy Huyền. Tôi mừng cho cả hai, nhưng sao lại đột ngột? Sao hai nhà cùng ở Hà Nội, lại tổ chức cưới ở nhà quê? Hồi đó, liên lạc bằng điện thoại đều phải qua bưu điện nhà nước, rất nhiêu khê, và trai gái cưới nhau là sự kiện cực kỳ trang trọng, rung chuyển cả trật tự gia giáo chứ không nhẹ tênh như thời nay, chưa kể đó còn là một đám cưới ông anh thần tượng lớn của mình. Thế là nhân Quốc khánh, được nghỉ liền với Chủ nhật, tôi đạp xe từ Hoành Bồ, Quảng Ninh về quê ở Lập Chí, Minh Trí, Kim Anh, Vĩnh Phú.

Thời gian này, bố tôi và mẹ kế cũng về quê ở. Hồi đó đất đai ở quê chưa phải tấc đất tấc vàng. Ủy ban xã, toàn bà con họ hàng xa gần, thương cho một ông già tha hương từng từ Đông Anh dẫn dân lên Phúc Yên khai phá lập nên làng Lập Chí, giờ trở về không tấc đất cắm dùi, nên cấp cho bố tôi hai sào đất cạnh đường làng, rồi cũng nhờ anh em, con cháu dựng nên ngôi nhà nhỏ ba gian, mái tranh, vách đất. Bố tôi còn được kết nạp vào tổ phụ lão trồng cây gây rừng của xã, còn mẹ kế mở một quán nước chè, kèm bán chuối và kẹo lạc ngay đầu đường. Thấy tôi về, bố tôi hỏi:

- Về lâu không?

- Con chỉ về hai ngày.

- Hai ngày thì về làm gì.

- Con về vì nghe chị Tâm nói anh Khôi sắp cưới vợ. Có phải cưới Danh Huyền, con bác Danh Quỳnh?

Bố tôi trừng mắt:

- Thế con không biết nó lấy chồng rồi à?

Tôi choáng váng, tưởng tai mình nghe nhầm:

- Làm sao có chuyện ấy?

- Bố còn thấy như thế là phúc cho nhà ta. Việc bác Danh Quỳnh bất mãn chế độ, đưa Danh Hùng vượt biên vào Nam, bố không đánh giá xấu, thậm chí, còn thông cảm. Vì sự lựa chọn của bác ấy không khác gì hồi kháng chiến bố đưa cả nhà bỏ chiến khu về Hà Nội. Nhưng việc vợ bác ấy khác văn hóa nhà ta, thì con Huyền không ảnh hưởng nhiều cũng ảnh hưởng ít. Những nhà gia phong, văn hóa đang đi xuống, mình dính vào, sớm muộn cũng xuống theo.

- Bố có biết Huyền lấy ai?

- Bố biết nó lấy chồng từ chị Tâm. Còn nó lấy ai, bố không biết và cũng không quan tâm.

Tôi hỏi:

- Thế anh Khôi lấy ai?

Bố tôi đáp gọn lỏn:

- Lấy đứa cháu gọi u Khướu là dì ruột, ở ngay trong xã này.

Tôi ù cả tai bởi đủ thứ bất ngờ:

- Sao nhanh thế ạ?

- Các anh, các chị bây giờ theo nền giáo dục và tuyên truyền của chế độ mới, đả phá hôn nhân mai mối, lấy nhau thì phải xuất phát từ tình yêu. Vậy cứ ngồi một chỗ gõ mõ tụng kinh ở hai đầu trái đất, tình yêu nó tự đến à? Đã phản đối mai mối lại quảng bá “Ba khoan”. Khoan nhiều như thế mà không cho mai mối là khuyến khích sống độc thân, vài chục năm nữa, đất nước sẽ toàn người già.

Tôi ngơ ngác, không hiểu tại sao tự nhiên bố tôi lại hào hứng với đề tài này, nên chỉ ngồi im.

- Bố phải nói dài dòng như thế, để con khỏi ngạc nhiên khi anh Khôi quyết định lấy cháu u Khướu, hoàn toàn do mai mối, chứ không có tình yêu, tình ái gì hết. Mà đã thông qua mai mối thì vừa mắt là cưới luôn. Bố, cô và chị Tâm tán thành rồi. Họ hàng nhà mình ở quê, ai cũng mừng cho anh Khôi.

Tôi hỏi:

- Thằng Vinh biết chuyện này chưa?

- Biết rồi. Nó viết thư cho anh Khôi phản đối kịch liệt, thậm chí còn nói xấc, mặc dù nó biết bố đã đồng ý. Anh Khôi có đưa bố lá thư này. Bố đọc, nhưng vứt vào ngăn kéo. Quan điểm của bố, con cái lớn rồi, có quan điểm khác với bố mẹ là chuyện thường, nhưng nếu không đồng hành được thì đứng ra bên lề, không được có thái độ quyết liệt, xấc láo. Con cái mà quyết liệt với bố mẹ là vô đạo. Lẽ đúng mà đạo sai, thì cái được cũng không bằng cái mất. Chưa kể lẽ mà sai thì đạo sẽ mất nhiều vô kể.

Chắc thư của Vinh động chạm điều gì nhạy cảm về “đạo”, bố tôi mới bỗng nhiên chia cả sự bức xúc sang tôi. Hóa ra trong thư Vinh có câu xác định ranh giới đẳng cấp: “Con trai ông bà chủ lấy con cháu người vú em là sự sỉ nhục”. Vinh không ngờ điều chỉ nói riêng với anh Khôi lại đụng vào tôn chỉ thiêng liêng của ông nội, khi ông di dân từ Bắc Hồng, Đông Anh lên Phúc Yên lập ấp dân sinh Lập Chí, nhằm mục đích xây dựng một cộng đồng bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, một phong trào đầu những năm 1930 thế kỷ trước, được nhiều địa chủ, quan lại trong nước hưởng ứng. Và khi bố tôi đồng ý cho anh Khôi lấy cháu u Khướu là trong ông không hề phân biệt đẳng cấp, hay cũng có thể là “không còn phân biệt” vì gia đình tôi đang hoàn toàn vô sản. Tuyên ngôn của bố tôi không hẳn là cấm tôi phản đối, nhưng đủ cho tôi biết mình phản đối là dại, dù máu phản đối trong tôi về vụ hôn nhân này cũng bốc ngùn ngụt không kém thằng Vinh. Tình yêu giữa anh Khôi và Danh Huyền đang đẹp, thậm chí, vô cùng đẹp, bỗng nhiên vì lý do gì, cô ta quay ngoắt 180 độ, lấy người khác, thì anh Khôi cũng không thể vì thất tình mà tiện ai cũng lấy như một kẻ chán đời. Cô gái đó lại là cháu ruột u Khướu, người vú nuôi của tôi, thì tôi khác Vinh ở chỗ, tôi chỉ hơi lo vì một đằng dân Hà Nội, một đằng dân nhà quê, khó hòa hợp, chứ không kỳ thị đẳng cấp. Mấy anh em tôi đang được xã hội tôn vinh giá trị, nhưng Thanh niên Xung phong kỳ thực vẫn đang là những người lao động chân tay, mọi vinh quang nếu có thật thì có thể thuộc về tương lai. Tôi cũng khác Vinh ở chỗ, nó nghĩ gì thì nói huỵch toẹt, còn tôi có nghĩ đúng như nó, vẫn chỉ để trong đầu.

Nhà tôi, hồi ở quê Phúc Yên, kể từ năm 1934, do mẹ tôi thường xuyên cùng bố tôi tham gia điều hành kinh doanh ở nhiều nơi, trong đó có việc giúp các ông bên ngoại duy trì và phát triển nhà xuất bản Mai Lĩnh của gia tộc ở Hà Nội và Sài Gòn, nên chỉ về ở quê mỗi dịp sinh con. Sinh ra đứa nào, đều phải thuê một vú em nuôi nấng, để bà tiện nay đây, mai đó. Trong anh chị em chúng tôi, có một người trên và một người dưới chị Tâm mất sớm vì bệnh, các thầy tử vi, phong thủy được mời đến coi người và đất đai, đều phán: “Phải lên lễ chùa, xin đổi tên tất cả các con thành tên con vật, để đạo ôn vốn đang thù con người, không bắt tiếp”. Bố mẹ tôi nghe thầy, đổi hết tên các con thành loài chim để đánh lừa đạo ôn: Chị Tâm là Vẹt, anh Khôi là Sáo, tôi là Khướu, thằng Vinh là Yểng. Chẳng biết các thầy dựa vào đâu mà phán, nhưng giữa thời buổi mùa màng cả nước kiệt quệ trong khủng hoảng bởi lũ lụt rồi hạn hán, với hơn hai triệu người chết đói năm 1945, mấy chị em tôi, từ lúc lọt lòng, toàn bú sữa người dưng, mà không đứa nào phải đi theo đạo ôn. Sang năm đứa em con mẹ kế, các thầy lại nói: “Hạn xấu đã hết”. Nhờ vậy, các em sau này không bị dùng tên loài vật thay tên người. Nếu không, chắc chắn với chín anh chị em, nhà tôi sẽ thành một sở thú thu nhỏ. Vì chúng tôi tên chim, nên các vú nuôi cũng được gọi theo là các tên u Vẹt, u Sáo, u Khướu, u Yểng.

U Khướu, người nuôi tôi, ở cùng xã nhưng khác thôn. Bà là vợ lẽ một quan huyện người Phù Lỗ từ năm mười bảy tuổi, đến khi ngoài hai mươi tuổi thì sinh cho ông này hai con. Người con trai tên Lộc, còn con gái tên Hằng, sinh cùng năm, cùng tháng với tôi. Do không chịu nổi đòn vũ phu thường xuyên của ông chồng già và máu Hoạn Thư của bà vợ cả, u ôm con về nhà mình, rồi được bố mẹ tôi đón về làm vú em cho tôi. Khác với những nhà khác, các vú em khi được thuê đều phải bỏ con ở nhà mình sang ở và dành hết sữa cho con chủ, bố mẹ tôi đều cho các vú mang con sang ở cùng, nên mấy anh chị em tôi đều cùng uống chung dòng sữa với con của các vú. Năm 1946, khi kháng chiến chống Pháp toàn quốc bùng nổ, bố tôi đưa cả nhà lên chiến khu Việt Bắc, vừa tản cư vừa tham gia kháng chiến, cũng đưa cả mẹ con u Khướu và u Yểng theo. Có lẽ nhờ tử tế với người làm, mà hồi cải cách ruộng đất, được các cán bộ Đội vận động hết cỡ, các vú cũng không ai đấu tố gì bố mẹ tôi.

Khi gia đình tôi ở Hà Nội, những dịp giỗ, Tết hoặc chúng tôi nghỉ hè, bố hay đưa chúng tôi về quê ít ngày. Có khi với họ hàng, chúng tôi không đi chào hết, nhưng riêng với các vú, bố không đưa chúng tôi đi thăm được thì đều nói các anh chị họ đưa đi. Khi chúng tôi lớn lên cũng là thời điểm cả nước khó khăn, kinh tế gia đình tôi eo hẹp, giỗ chạp ít đi, việc về quê thưa dần. Hào hứng với quê hương ở tôi và các em mờ nhạt, nhưng riêng anh Khôi lại không hề bớt gắn bó. Những ngày giỗ ở quê, nhiều khi chính bố tôi vì bận không về, anh cũng đạp xe chở chị Tâm hay chở bạn như Danh Hùng, Huy Lạc về dự. Đã về, thế nào anh cũng đi thăm tất cả các u. Có u như u Khướu kinh tế khá giả, còn các u khác như u Sáo, u Yểng sống trong nghèo khổ, anh vẫn thân thiết như nhau. Những lần về quê cùng anh, hai anh em đi đâu, gặp ai, tôi thấy hình như anh đều quen cả, anh quen cả làng và thuộc tên tất cả những ông bà, cô, chú, bác, anh chị em, xuống đến lứa các em, cháu trong họ. Trong khi tôi và thằng Vinh rất khó chịu khi mình từ thành phố về, phải gọi những lứa bằng hoặc ít tuổi hơn là cô, chú, bác, thậm chí, là ông bà, còn anh thì “thưa ông, bà”, xưng “cháu” ngọt xớt cả với đứa nhóc con, như anh với quê là cá với nước. Chính vì thế, khi nghe anh được u Khướu làm mối cho cô cháu, tôi chỉ bận tâm về việc, tại sao anh quá dễ dãi chứ không ngạc nhiên khi trong xã có ai đó giới thiệu cho anh một cô gái làng.

Ăn cơm trưa với bố và mẹ kế xong, tôi lẳng lặng đạp xe sang nhà u Khướu. Tuy cùng xã, nhưng nhà u đi ngược về hướng sân bay Nội Bài và giáp Quốc lộ đoạn Phúc Yên - Phù Lỗ nên cách nhà tôi tới năm, sáu kilômét, với đường làng quanh co. Nhà u là ngôi nhà ngói ba gian, áp lưng vào rặng tre dày kế bên con sông nhỏ, phía trước là sân gạch Tàu và vườn nhãn. Hồi bé, từ Hà Nội về, tôi chỉ được đến thăm u do bố hoặc anh Khôi đưa đến. Từ khi đi Thanh niên Xung phong ra Quảng Ninh, mỗi lần đi phép về Hà Nội, tôi ghé thăm u một lần. Tài sản của u, với ngôi nhà ngói và diện tích vườn vài sào ở vùng quê nghèo trung du, thời hợp tác xã, như thế thuộc loại đủ ăn. Anh Lộc, con trai lớn của u đi bộ đội từ hồi kháng Pháp, giờ là trung tá pháo binh, đóng ở tận Quảng Bình, còn chị Hằng người cùng tôi bú chung bầu sữa của u đã lấy chồng và ở bên nhà chồng tận Đa Phúc. U hiện ở cùng con dâu, vợ anh Lộc, là chị Quý và một đứa cháu nội. Nhà ở quê, muốn vào chẳng cần gọi cổng. Tôi dựng xe, đẩy cánh cổng tre nhỏ, vừa bước vào, một con chó mẹ và một lũ chó con từ trong hiên nhà đã chồm ra sủa inh ỏi.

Một cô gái trẻ, tóc đen dài và mượt, mặc chiếc áo thun cổ tròn cộc tay, quần the đen, lẳn hết hình vóc thon lẳn tràn đầy sinh lực, từ trong nhà bước ra. Đương nhiên không phải chị Quý.

- Anh hỏi ai ạ?

Tôi thận trọng:

- Hình như bà Lộc (tôi gọi u theo tên người con trai, như người làng vẫn gọi) không còn ở đây?

Cô gái nhã nhặn:

- Thưa, dì em vẫn ở. Hôm nay, em ở nhà trông nhà cho dì và chị dâu đi ăn giỗ ở làng bên. Anh là…

Tôi lúng túng:

- Ngày trước bà Lộc là u… tôi.

- À! Em biết rồi. Anh là anh Khướu, nhưng bây giờ tên là Tuấn. Anh vào nhà uống nước đi… Chiều tối, dì và chị em mới về.

Tôi hỏi dè dặt khi bước vào nhà:

- Làm sao chị biết tên tôi?

- Em nghe anh Khôi kể. Em còn biết anh đang là Thanh niên Xung phong ở vùng mỏ Quảng Ninh. Nhưng anh đừng gọi em là chị, vì em với anh sinh 1945, nhưng anh sinh ngày ba mốt tháng Năm, còn em sinh hai lăm tháng Mười Hai, kém anh những bảy tháng.

Dẫu đầu có toàn đất sét thì tôi cũng biết ngay cô gái này là ai. Cô ta lại biết rõ tên gọi ở nhà lẫn tên khai sinh cùng ngày, tháng, năm sinh của tôi, chứng tỏ phải thân thiết đến mức nào, ông anh tôi, một người vốn rất nhạy cảm từng chi tiết về lý lịch gia đình, lại dễ dãi khai báo như một kẻ dại gái với cô gái này.

Tôi nói với cô:

- Có phải bạn là Sính, vợ sắp cưới của anh tôi?

Sính rất hồn nhiên:

- Vâng. Bố anh đã sang bên này gặp dì em. Sang tháng sau, mẹ em mới từ Lai Châu về, còn anh Khôi sẽ xin nghỉ phép ở Khoái Châu, Hưng Yên, hai nhà tổ chức ăn hỏi, rồi cuối năm tổ chức cưới.

Sính ý tứ vào buồng trong, mặc thêm chiếc áo đồng phục Thanh niên Xung phong bạc cũ, rồi trở ra lăng xăng xuống bếp rót bát nước vối nóng lên mời tôi:

- Anh uống nước vối đi. Dưới bếp có cả khoai luộc, hay em mang lên cho anh ăn nhé.

Chúng tôi thân thiện rất nhanh. Nhưng vẫn phải nói, trước khi đến mức thân thiện, tức là khi vừa bước chân vào sân, thoạt thấy Sính ở thềm cửa, tôi đã bỏ phiếu ủng hộ anh Khôi, vì cả sự sinh động lẫn sinh lực ở cô đều nằm ra ngoài những so sánh để kỳ thị về ranh giới thành thị, nông thôn hay giàu nghèo, xấu đẹp, mặc dù gương mặt cô chỉ ở mức khỏe khoắn, dễ nhìn, chứ không đẹp như Danh Huyền. Tôi hỏi:

- Bạn biết nhiều về anh Khôi chưa?

- Anh Khôi ở tận Hưng Yên, nên em mới gặp vài lần, nhưng ông bà bên nhà thì em nghe dì Lộc kể nhiều. Dì Lộc dạy em, lấy chồng thì phải chọn bố mẹ trước khi chọn chồng, vì bố mẹ ăn ở phúc đức thì con cái tử tế theo, mình về làm dâu sẽ không khổ. Đầu tiên, dì Lộc định dấm em cho anh. Dì nói dì thương anh hơn anh Khôi, vì anh bú dì từ lúc lọt lòng, nhưng anh lại “to đầu mà dại”. Anh và chị Hằng bú chung vú dì, nhưng khi bị chị ấy tranh giành, chỉ biết ngồi khóc, nên em lấy anh, lúc khó khăn, sợ anh chẳng biết làm gì, nên dì mới chọn anh Khôi. Chỉ gặp anh Khôi lần đầu, em đã chấp nhận ngay.

- Còn tình yêu?

- Em đồng ý, anh ấy cũng đồng ý thế là yêu nhau rồi còn gì.

- Bạn quên bây giờ đang phong trào “Ba khoan” à?

- Hồi ở đơn vị Thanh niên Xung phong, trăm phần trăm là con gái mới lớn, đứa nào cũng rừng rực, vậy mà quanh năm suốt tháng, hết đại đội trưởng, đến chính trị viên tuyên truyền “Ba khoan”, cứ như đang đói lại bị cấm ăn, giờ về quê như chim sổ lồng. Ở quê mình, hai mươi tuổi mà chưa chồng bị coi là gái ế, nên vừa có anh Khôi, em chộp luôn.

- Còn việc thi đại học?

- Anh tưởng em không thích học đại học à? Nhưng học là chuyện suốt đời. Sau này, chồng con rồi học cũng được, không học ở nhà nuôi con, cùng lắm bắt con học thay mình để nó có tương lai, cũng chẳng sao, nhưng lấy chồng là chuyện ngàn năm có một. Tất nhiên không có anh Khôi sẽ có người khác, nhưng nhỡ người sau không bằng người trước, lại vớ phải thằng vũ phu hay vô tích sự, thì khổ cả đời.

Do chiều tối u Khướu và chị Quý mới về, nên tôi và Sính có thừa thời gian trò chuyện, mà người khai thác tất nhiên là tôi. Bố Sính là bộ đội hồi chống Pháp, hy sinh trong chiến dịch Biên giới 1950. Năm 1953, mẹ cô đi bước nữa, lấy một đồng đội cũ của chồng, đang hoạt động tiễu phỉ 9* tận Lai Châu. Do tình hình trên đó phức tạp, không an toàn, bà để con ở quê cho chị ruột là u Khướu nuôi. Sính học hết lớp mười ở Phúc Yên năm 1963, tức cùng lứa tốt nghiệp phổ thông với tôi, thì đi Thanh niên Xung phong, trở thành y tá của đơn vị, đóng quân tại tuyến lửa Vĩnh Linh. Thay vì đi bốn năm theo chế độ mới rồi được chuyển ngành, nhưng nhờ thành tích xuất sắc trong công tác, lại là con liệt sĩ, Sính được về sớm một năm để thi vào đại học. Thời gian cô nghỉ ở nhà, chính là nhà u Khướu, để học thi, u Khướu và chị Quý nảy ra ý làm mối cho anh Khôi, khi biết anh Khôi bị người yêu chia tay, đang đau khổ thất tình. Vì lý do gì họ đến với nhau thì biết rồi, còn vì sao họ cùng quyết định lấy nhau nhanh như chảo chớp, thì suy nghĩ ban đầu của tôi, rằng vì thất tình mà khiến anh Khôi quyết định lấy Sính ngay, có vẻ đã bị lung lay. Vì với một cô gái như Sính, thì ông anh tôi, người luôn rất tỉnh táo trước các em, dẫu không thất tình chắc chắn cũng bị đổ.

9* Tiễu phỉ: đánh dẹp giặc cướp ở vùng rừng, núi.

Buổi tối, sau khi u Khướu và chị Quý về, tôi ở lại ăn cơm, rồi đạp xe về nhà ở Lập Chí. Bố tôi có lẽ chờ ở tôi sự phản đối quyết liệt như thằng Vinh, nên hỏi lạnh nhạt:

- Thế nào?

Do đồng tình chấp nhận ngay cô gái sắp là chị dâu mình thì có khi không phải đạo, nên tôi đáp ngắn gọn:

- Con thấy cũng được.

Thực tình, trong chuyện này, tôi chỉ càng thấy thương anh Khôi. Gặp Sính rồi, tôi biết anh lấy cô cũng là có tình cảm, chứ không chỉ cốt lấy cho xong một phần đời, như một sự phẫn chí khi biết Danh Huyền lấy Bá Vân.

Tôi trở ra Quảng Ninh với quyết tâm cao độ sẽ viết thư chửi cho cả Danh Huyền lẫn Bá Vân một trận… Tôi đã viết rồi lại bỏ, xé bỏ rồi lại viết, hàng chục lần… Đầu tiên là sự phẫn nộ, sự thóa mạ, sự sỉ nhục, rồi mức độ cay độc mỗi lúc một tăng dần với cả hai người, nhưng chưa lá thư nào được gửi đi thì tôi nhận được thư anh Khôi.

“Gửi Tuấn!

Bố nói em về quê, gặp cả Sính và tỏ ra ủng hộ anh. Anh rất mừng. Nhưng anh cũng biết em đang bị bất ngờ. Bất ngờ về Danh Huyền và Bá Vân. Rồi bất ngờ về anh với Sính. Đây là hai câu chuyện dài, viết thì không sao nói đủ, nên anh chỉ cần em hiểu và tin anh đã có lựa chọn đúng trên đường đi của mình. Khi nào gặp nhau như hồi em đến thăm anh ở Hưng Yên, có nhiều thời gian tâm sự, anh sẽ nói kỹ hơn.

Anh yêu Danh Huyền tha thiết, nhưng đường đi của anh còn đầy chông gai, nên không được phép làm cho Huyền khổ hơn, khi mà Huyền đã đang quá khổ rồi. Anh tin Huyền sẽ hạnh phúc bên anh Bá Vân, vì anh Vân còn yêu Huyền hơn cả anh. Anh muốn em cũng nghĩ về hai người như anh nghĩ.

Còn anh với Sính lại giống như duyên số. Anh quyết định lấy vợ chỉ để anh và Huyền cùng dứt tình. Phải dứt tình, Huyền mới có thể an tâm trong tổ ấm mới. Nhưng u Khướu lại bất ngờ đưa đến cho anh một người bạn đồng hành, nên anh tự an ủi: Có lẽ mình ở hiền nên gặp lành… Hôm hai anh em ở Hưng Yên, em nói chưa quan tâm đến tình yêu, nếu đến hôm nay vẫn vậy thì thật là đáng tiếc. Phải yêu đi, em sẽ hiểu anh hơn. Đám cưới anh và Sính, nhất định em phải về dự.

Anh của em, Nguyễn Minh Khôi.”

Nhận được thư anh Khôi, tôi xé hết những lá thư đầy những lời cay nghiệt dành cho Danh Huyền và Bá Vân.

Nhưng cuộc đời, nhất là trong chuyện tình duyên và hôn nhân, không ai học được chữ ngờ, dù mọi chuyện tưởng đã tốt đẹp tới 99,9 phần trăm.

Ở Quảng Ninh, tôi nhẹ nhõm chỉ chờ có tin báo về ngày giờ đám cưới anh Khôi và Sính là lập tức lao về quê. Nhưng rồi ngày tháng cứ trôi qua, sự háo hức nguội dần, chuyển sang sốt ruột, và tôi linh tính có sự không hay xảy ra, khi đến Tết Nguyên Đán vẫn không thấy tin tức gì. Song tôi chỉ đoán có thể vì lý do nào đấy, như do Mỹ ném bom miền Bắc, nên đám cưới bị hoãn lại đến sang năm.

Ngày hai mươi chín Tết, tôi đạp xe từ Quảng Ninh về Việt Yên, Hà Bắc, ăn Tết với gia đình chị Tâm đang ở sơ tán theo trường đại học. Năm đó, trời cũng rét đậm như năm tôi về Hưng Yên định ăn Tết với anh Khôi, nhưng rồi sự cố dạy võ Judo cho đội tuyển điền kinh học sinh tỉnh, đã khiến anh ăn Tết trong tù, còn tôi lủi thủi trên đường trở lại Quảng Ninh. Nhớ lại Tết năm trước, khiến trong tôi linh tính mung lung về một cái Tết nhiều lo âu đang chờ mình ở phía trước, mặc dù, trong mấy năm đó, gia đình nhỏ của chị Tâm là nơi ổn định nhất trong gia đình chúng tôi.

Vợ chồng chị Tâm và hai cháu Cương, Nga, cũng như nhiều gia đình giáo viên của trường đều ở phân tán trong nhà dân, phải vừa đi vừa hỏi thăm cả buổi, tôi mới tìm đúng nhà. Hai chị em vừa tay bắt mặt mừng, tôi đã hỏi ngay:

- Chuyện đám cưới anh Khôi với Sính thế nào?

Chị Tâm ngạc nhiên:

- Em chưa biết cái Sính lấy người khác rồi à?

Tôi bàng hoàng đến bủn rủn cả người:

- Làm sao có chuyện đó được. Hôm em về quê, đến nhà u Khướu, gặp ngay Sính, thấy mọi chuyện vẫn tốt đẹp mà?

Đến nhà chị Tâm, tưởng sẽ lập tức tu hết ngay một chai nước rồi thoải mái nằm thẳng cẳng ra giường, sau hành trình hai trăm kilômét đạp xe rã rời từ Hoành Bồ, Quảng Ninh về Việt Yên, Hà Bắc, không ngờ tin động trời từ chị, khiến tôi quên cả mệt nhọc, ngồi thừ bên bàn nước. Chị Tâm kể:

- Bố với cô đã lập một đoàn họ nhà trai gồm vợ chồng chú Lương, vợ chồng chú Nhọ, các cô Lãm, cô Xuyến, vợ chồng chú Sửu, cô Nhụ, vợ chồng chú Nghiêm từ Hà Nội, rồi anh chị cũng từ Hà Bắc về, vợ chồng chú Hân từ Thụy Hà, Đông Anh sang, gần hai chục người, kéo nhau sang nhà u Khướu làm lễ ăn hỏi. Bên đó hơn hai chục người, mẹ cái Sính và chồng cũng từ Lai Châu về. Mọi chuyện diễn ra vui vẻ ấm cúng, vì hai nhà cùng xã, quen biết nhau cả. Ngày cưới tính là ba mươi tháng Mười Hai dương lịch, đúng ngày Chủ nhật, cách Tết Tây hai ngày… Không ai ngờ tay Phó Chủ tịch huyện Kim Anh có đứa cháu tên là Tre, thương binh hỏng một mắt và muốn ghép cái Sính cho cháu mình, hắn biết chuyện Sính sẽ lấy Khôi nên tìm cách phá. Điều đáng buồn là nhiều người trong xã, kể cả mẹ cái Sính cũng ủng hộ.

Tôi hỏi:

- Sính thì sao?

- Làm sao chị biết được. Khi quyết định, họ không cho cái Sính ở nhà u Khướu nữa. U Khướu chỉ biết khóc, sang xin lỗi bố và cô.

- Còn anh Khôi?

- Khôi nó đi bộ đội rồi, em cũng không biết à?

Tôi ngơ ngẩn:

- Trời ơi là trời. Trong nhà xảy ra bao nhiêu chuyện động trời, sao em không hề hay biết?

- Còn thằng Vinh thì sao?

- Thằng Vinh từ đầu đã phản đối chuyện này, lại đang ở tận tuyến lửa Vĩnh Linh, còn em ở Quảng Ninh, nên bố bảo khi nào cưới hãy báo về.

Anh rể Phạm Thế Nghiệp nghe tin tôi về, sốt sắng bắt ngay con gà trống thiến của nhà, cắt tiết để đãi em vợ, coi như ăn Tết sớm. Hai cháu Cương, Nga thấy có chú cùng mừng rối rít. Nhưng tôi không lòng dạ nào vui. Chị Tâm đưa cả xấp gần chục lá thư anh Khôi viết từ khi nhập ngũ cho tôi xem. Hóa ra đơn vị anh đóng ở vùng rừng núi Mai Siu, ngay trong tỉnh Hà Bắc.

Sáng hôm sau, ba mươi Tết, thay vì ở lại ăn Tết với nhà chị Tâm, tôi đạp xe thẳng đến Mai Siu. Trời lạnh, gió buốt. Đoạn Quốc lộ trải nhựa hơn bốn chục cây số không là gì với sức trẻ, nhưng bắt đầu rẽ vào đường lâm nghiệp xuyên rừng trải cấp phối 10* đỏ, lên dốc, xuống đèo quanh co, mặt đường nhiều đoạn bị xe chở gỗ cày nát, những khúc qua suối, đi bằng đường ngầm phải xuống vác xe, nước ngập đến hông. Ngày Tết, mọi hoạt động trong rừng đều nghỉ. Đường không bóng xe, bóng người, cứ hun hút, hun hút như trong rừng có ma. Có lúc, tôi đã tính quay về. Nhưng ngồi nghỉ một lúc, thôi thúc gặp bằng được anh Khôi lại khiến tôi tiếp tục nhẫn nại vào sâu trong rừng. Thật kỳ lạ, nơi đóng quân của bộ đội, mà đi mãi không thấy một bóng lính như thường thấy ở những nơi khác.

10* Cấp phối: loại vật liệu dùng để trải đường, với các thành phần gồm đất, cát, sỏi, đá... được trộn theo tỉ lệ nhất định.

Phải quá trưa, khi vừa đói vừa mệt, tôi mới tới một trạm gác nhỏ, mái tranh thô sơ. Một anh lính đeo bên vai khẩu AK, đứng bên trong. Tôi lên tiếng chào:

- Xin lỗi đồng chí.

Tôi đưa cho anh lính trẻ tấm chứng minh thư của tôi và chiếc phong bì, chỗ người gửi có ghi tên Nguyễn Minh Khôi và số hòm thư, còn người nhận là Nguyễn Thị Minh Tâm, nói rõ:

- Tôi là em anh Khôi, muốn vào thăm anh ấy.

Anh lính xem kỹ mấy thứ tôi đưa, nhìn tôi chăm chăm, chừng như tạm an tâm, rồi mới nói:

- Hôm nay Tết mới cho người lạ vào… Nhưng hiện giờ doanh trại chỉ có bộ phận hậu cần, còn tất cả đang đi tập hành quân dã ngoại.

- Tết cũng phải tập?

- Trừ mùng Một, còn lại tập hết. Giờ đồng chí đi vào hai cây số nữa mới đến doanh trại. Nếu đói thì báo trực ban để các đồng chí ấy đưa xuống nhà bếp ăn cơm, rồi qua phòng tiếp tân nghỉ ngơi. Chiều đồng chí Khôi về sẽ gặp.

Tôi đạp xe không phải hai mà đến năm cây số mới đến chỗ người lính gác gọi là doanh trại, gồm rất nhiều những nhà lán ẩn kín trong rừng lim mà nếu đi trên đường không để ý, chỉ tưởng là loại nhà lá của những người sơn tràng 11* dựng tạm để ở trong thời gian khai thác gỗ.

11* Sơn tràng: nghề khai thác rừng thủ công.

Tôi còn đang ngơ ngác nhìn quanh để tìm người hỏi thăm thì một đoàn bộ đội, vai vác súng AK hoặc CKC, lưng đeo ba lô nặng trĩu, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nối nhau theo hàng dài mấy trăm con người, từ con đường mòn trên núi đổ xuống, đến đường lớn chạy qua doanh trại, được nghỉ, nên dồn lại thành bốn hàng dọc. Tôi nhận ngay ra người đứng giữa trong bốn người hàng đầu chính là anh Khôi, và anh cũng nhận ra tôi.

Người chỉ huy hô:

- Giải tán.

Đoàn quân mấy trăm người đồng thanh vang dội núi rừng:

- Giải phóng miền Nam.

Tiếng hô vừa dứt, anh Khôi chạy ngay đến gặp tôi, hơi thở vẫn còn hổn hển:

- Làm sao em biết anh ở đây?

Tôi nhìn anh, ứa nước mắt. Tôi cao một mét bảy mươi, còn anh cao một mét sáu mươi bảy, năm ngoái ở Hưng Yên, anh còn vạm vỡ, có da có thịt, nên hai anh em đứng cạnh nhau, tôi chỉ nhỉnh hơn anh chút đỉnh, giờ anh gầy xọp, đen đúa, bộ quân phục màu rêu mới tinh lại rộng thùng thình, khiến anh nhỏ thó trước tôi.

- Em đến chỗ chị Tâm, mới biết anh đi bộ đội. - Tôi trút hết bức xúc. - Anh bị gọi đi nghĩa vụ quân sự, hay xung phong?

- Anh xung phong.

- Có phải vì thất tình với Danh Huyền và cái Sính?

- Chuyện dài lắm. Hiện tại anh đang là trung đội phó, còn trung đội trưởng đang bị ốm, nên bây giờ anh phải vào với anh em, phổ biến việc chỉ nghỉ ăn Tết ngày mùng Một và kế hoạch luyện tập tiếp theo, rồi báo cáo đại đội có em đến, tiện báo cơm luôn. Xong việc, anh em mình sẽ có suốt một đêm ở phòng tiếp tân.

Dứt lời, anh tất bật đi như chạy theo đơn vị về khu lán trại trong rừng.

Tối hôm đó, anh Khôi và tôi thức suốt đêm trong bóng tối. Vì lý do bảo mật doanh trại, không chỉ anh em tôi, mà cả sư đoàn tổ chức đón giao thừa cũng không đèn đuốc. Anh kể:

- Ai biết chuyện cũng đều nói như em. Vì thất tình với Danh Huyền nên mới lấy vội Sính, một cô gái quê. Rồi chuyện với Sính không thành, lại thất tình, mới xung phong đi bộ đội. Tất nhiên chuyện với Danh Huyền là chuyện buồn, không chỉ buồn mà còn đau. Rất, rất đau. Nhưng cơn đau buồn qua rồi, lòng anh lại yên bình. Anh nói vậy, em có tin không?

Tôi đáp xẵng:

- Không.

- Một người có sắc, có tài như Huyền, người vốn đã phải chịu khổ rất nhiều từ khi bác Danh Quỳnh và anh Danh Hùng vượt biên vào Nam, xứng đáng được hưởng những điều tốt đẹp. Nếu lấy anh, Huyền sẽ chỉ khổ thêm, vì tương lai của anh chưa xác định, nhưng biết chắc là đường đi sẽ còn nhiều chông gai. Anh khổ bao nhiêu cũng được, vì mình sẵn sàng chịu trách nhiệm về con đường đã chọn, còn Huyền thì sao? Huyền vẫn nói: “Khổ mấy em cũng chịu đựng cùng anh”. Nhưng anh không thể để người khác, nhất là người yêu, người vợ phải chịu khổ thay mình, chưa kể hai vợ chồng cùng khổ, thì con cái sẽ khổ theo.

Tôi ngắt lời anh:

- Lúc thành công, thành đạt thì sao?

- Nếu biết chắc ngày mai hay sang năm thành đạt thì chẳng có gì phải bàn, nhưng đường anh chọn là con đường đồng hành với hoàn cảnh đất nước. Sự nghèo nàn lạc hậu chắc chắn sẽ còn kéo dài. Bây giờ lại bắt đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ và thống nhất đất nước… Bác Hồ nói: Năm năm, mười năm, hoặc lâu hơn nữa… Trong khi anh Bá Vân cùng nghề với Huyền, cùng nổi tiếng và đặc biệt cũng rất yêu Danh Huyền.

Tôi lại cắt ngang:

- Và Danh Huyền cũng yêu Bá Vân? Yêu nhanh và cưới cũng rất nhanh?

Anh Khôi thoáng lúng túng:

- Điều này, anh không bình luận. Nếu không tuyệt đối hóa những quan niệm về đạo đức và tình cảm, mọi chuyện đều dễ giải thích. Huyền từng yêu anh, sau đó lại yêu và cưới anh Bá Vân cũng có sao đâu. Chính anh đã thông cảm và chúc mừng cả hai một cách rất thật lòng khi thấy trước Huyền sẽ có một gia đình đầm ấm với Bá Vân hơn là sống với anh.

Tôi cười nhạt:

- Nếu thật lòng như vậy, sao anh chọn và cưới Sính nhanh thế?

- Điều này, anh viết trong thư cho em rồi. Lúc đầu, khi chưa biết Sính, anh đã quyết định lấy ai đó thật nhanh, để Danh Huyền sớm quên anh đi. Còn dính vào Sính là sau này. Từ ngày bố về quê sống, anh vẫn về quê thăm bố và cô mỗi khi tiện dịp. Ở quê không chỉ các u, mà các cô, bác thấy anh chưa vợ, đều có ý làm mối cho con nhà này, nhà khác. Trong những người nhiệt tình như vậy có u Khướu. U còn đưa cả Sính sang nhà chơi cả ngày, nấu cơm cho bố và cô. Khi bố và cô đồng tình, anh vẫn không biết chuyện và không biết mặt Sính. Phần vì cả năm anh mới rẽ về nhà vài lần, phần vì anh coi vụ mai mối cho trai gái ở quê lấy nhau là chuyện lỗi thời, lạc hậu mà các bà, các chị cố duy trì cho vui xóm làng là chính. Nhưng vào một đêm, đang ngủ dưới thuyền ở Khoái Châu, anh mơ thấy mẹ mình… Em có bao giờ nằm mơ thấy mẹ?

Tôi thanh minh:

- Có lẽ do mẹ mất lúc em mới ba tuổi, chưa kịp biết gì, nên em chưa bao giờ mơ thấy mẹ.

- Còn anh, rất là lạ. Mỗi năm có một ngày giỗ mẹ, bố tính theo ngày âm lịch, trong khi đời sống hằng ngày, anh chỉ quan tâm đến ngày dương lịch, nên không để ý giỗ mẹ vào ngày âm. Vậy mà năm nào cũng vậy, đêm trước ngày giỗ, mẹ luôn hiện về trong giấc ngủ của anh. Lần này, mẹ đặt tay lên trán anh, và nói: “Ngày mai, về quê, con nhớ đến nhà u Khướu. Ở đó có đứa con gái tuổi Dậu, do u làm mối cho con, cậu và mợ cũng đồng ý, bởi nó là đứa sẽ ăn đời ở kiếp với con…”. Anh giật mình thức giấc, nghĩ có lẽ do ngày nghĩ đêm mơ, vì đúng là mình đang có ý định lấy vợ. Hôm sau là ngày giỗ, anh xin nghỉ việc sớm ở đội khảo sát để đạp xe về quê. Trên đường về, sực nhớ tới giấc mơ đêm trước, thay vì về thẳng nhà, anh lại rẽ vào nhà u Khướu. Khi dừng xe ở cổng, anh thấy một cô gái đang quét sân. Mấy con chó trong nhà u thấy người lạ, nhâu nhâu chồm ra sủa inh ỏi. U Khướu từ trong nhà nói vọng ra: “Sính ơi! Ra cổng xem có ai đến kìa”. Đó là lần đầu tiên anh biết Sính, người con gái đúng là tuổi Dậu như mẹ nói trong giấc mơ. Thật kỳ lạ, chỉ thoạt nhìn là anh chịu ngay. Từ đó, thứ Bảy nào, anh cũng về nhà u Khướu. Càng tiếp xúc với Sính, anh càng thấy Sính sẽ chính là người đồng hành, người sẽ đồng cam cộng khổ với mình suốt cuộc đời như mẹ nói. Từ đó anh cũng nhận ra, anh với Danh Huyền chỉ có yêu thương, yêu thương và yêu thương, nhưng có thể sẽ khó đồng hành. Người đồng hành với Danh Huyền hợp hơn chính là Bá Vân. Anh Bá Vân rất yêu thương Huyền. Chỉ cần Huyền yêu thương lại là họ sẽ có hạnh phúc.

- Như vậy, anh lấy vợ theo sự sắp xếp của bố mẹ và u Khướu, chứ không có tình yêu?

- Bề ngoài có vẻ đúng như thế, nhưng dù anh vô thần trăm phần trăm thì khi nằm ngẫm nghĩ thật kỹ những tình tiết khiến hai đứa gặp nhau, anh cho là duyên số thì đúng hơn.

- Nếu là duyên số, sao cuộc hôn nhân lại không thành?

Anh Khôi thở dài:

- Đã tin vào duyên số, thì phải suy luận bằng kiến thức tâm linh với biết bao điều bí ẩn ngoài hiểu biết của mình. Cuộc hôn nhân tưởng quá thuận lợi này rút cục lại thất bại thảm hại hơn cuộc tình với Danh Huyền. Nhưng bình tĩnh lại, anh nghĩ người chồng của Sính, là Nguyễn Vũ Tùng mà báo chí và đài phát thanh đang ca ngợi là một anh hùng từ chiến trường miền Nam ra, anh ấy xứng đáng có người vợ như Sính hơn anh, mặc dù sự tan vỡ của anh với Sính có một sự can thiệp tàn bạo, khiến hai đứa ban đầu đều đau khổ.

Tôi nói:

- Em thấy anh không quá đau khổ và tuyệt vọng vì sự đổ vỡ cả hai cuộc tình rất gần nhau thì em cũng mừng, nhưng liệu có phải vì quá mải mê với lý tưởng, thành ra quá tỉnh táo trong tình cảm, dẫn đến chuyện anh thiếu quyết tâm trong tình yêu?

- Nếu lý tưởng lớn hơn tình yêu tức chuyện chung lớn hơn chuyện riêng, là đạo lớn hơn đời. Còn ngược lại là đời lớn hơn đạo. Em chọn vế nào?

Tôi rất muốn nói: “Em sẽ chọn sự hài hòa giữa đạo và đời. Đời thiếu đạo sẽ thành hoang dại, mà đạo thiếu đời cũng như cây thiếu đất”, nhưng tôi ngồi im, vì nhận thức đó tôi cũng copy trong sách, thấy có lý thì nhớ, chứ sách tôi cũng đọc ít hơn anh ngàn lần. Còn yêu, anh có những hai cuộc tình, trong khi tôi đang hăm hở trung thành tuyệt đối với phong trào “Ba khoan”, đến tưởng tượng về một em sẽ sinh cho mình mười một đứa con trai cũng chưa dám, mà tranh luận để chứng tỏ học trò đúng hơn thầy, có khi thành trái đạo, là điều tôi không muốn. Thấy tôi ngoan ngoãn khuất phục, anh có vẻ không hài lòng vì mất đà hiếu thắng:

- Anh biết thừa, em và thằng Vinh cũng sẽ nghĩ như nhiều người rằng anh Khôi vì hai quả thất tình sấm sét, lẽ ra phải chán đời tự tử hay rượu chè bê tha để giải khuây, phá đời, sao lại xung phong nhập ngũ để vào chiến trường… Nghĩ như vậy, hóa ra đội quân chống Mỹ cứu nước là bước đường cùng của những kẻ bế tắc, trong đó có thất tình?

- Anh quên cả em và thằng Vinh cùng có đơn xin nhập ngũ từ khi Mỹ bắt đầu ném bom Vịnh Hạ Long?

- Nhưng nói anh nhập ngũ sau hai vụ thất tình là chuyện hoàn toàn khác… Thực tế, sau khi rời trại giam ở Hưng Yên, anh đã nộp đơn xin nhập ngũ, và tỉnh đội Hưng Yên đã đồng ý nhận anh với điều kiện bên Khảo sát Thủy lợi cho đi. Lúc đó, Danh Huyền chưa cưới anh Bá Vân, còn khi quyết định lấy Sính, anh có kể Sính nghe mình sẽ nhập ngũ. Sính nói: “Nếu vậy, cưới xong, em cũng xin nhập ngũ. Bao giờ đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất đất nước, hai đứa mới về sinh con”. Trong “Ba khoan”, mình đã vi phạm “khoan yêu, khoan cưới”, thì cùng đi đánh Mỹ để thực hiện “khoan đẻ”, chứ hai đứa ở gần nhau khó giữ, mà vi phạm cả “khoan đẻ” thì đừng hòng được kết nạp vào Đảng. Sự thật như thế. Tức là không hề có chuyện thất tình rồi mới đi lính.

- Tại sao anh không thanh minh?

- Chuyện thất tình, chuyện đi lính, chưa là gì so với chuyện anh với Sính, hai họ đã làm lễ ăn hỏi, hai đứa đã ra Ủy ban xã đăng ký kết hôn rồi, nhưng thằng cha chủ tịch xã họp Ủy ban, đưa ra bằng chứng, nói anh là tội phạm hình sự vừa ngồi tù ở Hưng Yên, rồi bố là Nguyễn Hữu Lược, em ruột Nguyễn Hữu Đang, trùm Nhân văn Giai phẩm phản động, nên tuyên bố hủy đăng ký kết hôn, để Sính lấy cháu ruột hắn. Anh mà viết vụ này lên báo hay nộp đơn kiện về tội vu cáo, lẽ phải nhất định sẽ thuộc về mình, nhưng anh quyết định nghiến răng cho qua, để yên ổn trong quân đội, yên ổn vào chiến trường, rồi thời gian sẽ xác định chân lý thuộc về ai. Oan này rõ ràng đau hơn oan Thị Kính, mà anh còn không thanh minh, thì oan “thất tình phải đi lính” chẳng nghĩa lý gì.

Nghe đến đây, tôi càng thấy thương anh và càng thấy mãi mãi mình không hiểu hết về anh mình. Ngay cả việc vừa gặp, anh đã nhận ngay ra Sính là người đồng hành, rồi so sánh với Danh Huyền, tôi cũng kinh ngạc đến sững sờ. Trong khi tôi chỉ đơn giản với nhận xét Sính khỏe mạnh, hồn nhiên nhưng không đẹp bằng Danh Huyền, thì anh nghĩ rằng “Huyền chỉ có yêu thương, yêu thương và yêu thương”… còn Sính thì vô cùng đơn giản: “Nếu anh nhập ngũ, cưới xong, em cũng xin nhập ngũ. Bao giờ đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất đất nước, hai đứa mới về sinh con”. Một cô gái thực sự hồn nhiên trong bất kỳ hoàn cảnh của chồng, có thể vào nơi gian khổ, thậm chí, vào chỗ chết cũng như đi chơi, sẽ là người suốt đời đồng hành với anh tôi, một người chỉ chọn nơi gian khổ, lấy việc hy sinh vì người khác làm lẽ sống.

Đêm hôm đó, hai anh em vừa trò chuyện vừa nướng sắn. Một đồng đội của anh ghé vào đưa một cây mía, khoe một cô gái người Dao vào đơn vị chơi giao thừa, tặng anh hai cây. Một người nữa nghe anh Khôi có thằng em đến thăm, liền tặng một con chuột to bằng bắp tay vừa bẫy được, đã mổ ruột làm lông sẵn. Tôi nhìn ghê cả người, còn anh nói:

- Thịt chuột nướng ngon hơn cả thịt gà, thịt lợn.

Nướng xong, anh chặt đôi con chuột, đưa tôi nửa dưới:

- Thịt chuột ngon nhất hai cái đùi. Em ăn đi.

Tuy rất nể anh, tôi cũng không dám cắn lấy một miếng:

- Nói thật là em không dám ăn.

Anh liền cho hai nửa con chuột vào cái cà-mèn Trung Quốc:

- Em không ăn, anh cũng không ăn, để lát nữa, mang về bệnh xá cho cậu bạn cùng trung đội đang sốt rét. Sốt rét, ăn thịt chuột rừng khỏi nhanh hơn uống thuốc ký-ninh.

Thì ra anh thuộc sư đoàn đặc nhiệm Mai Siu, sẽ cùng nhiều sư đoàn và trung đoàn khác thâm nhập vào miền Nam chuẩn bị cho chiến dịch Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Đó là một đại chiến dịch được chuẩn bị hết sức bí mật, nên nơi đóng quân phải kín đáo tuyệt đối. Các anh không được ăn Tết, vì mọi sự ồn ào đều gây sự chú ý. Thay vì ăn Tết thì đơn vị tổ chức ăn tươi 12* làm nhiều bữa, bắt đầu từ hai mươi ba tháng Chạp, ngày Ông Táo chầu trời. Ba mươi Tết thì liên hoan tập thể trong âm thầm. Mùng Một trở ra vẫn luyện tập. Trước ngày G lên đường vào Nam, toàn sư đoàn sẽ ăn Tết muộn…

12* Bữa ăn tươi (khẩu ngữ): Chỉ bữa ăn ngon hơn ngày thường một chút.

Tôi hỏi:

- Vừa nhập ngũ anh đã là trung đội phó, có phải là sự tín nhiệm?

Anh nói:

- Không bàn chuyện đó nữa. Vào chiến trường, trước hết hãy làm người lính dũng cảm và mưu trí để chiến thắng kẻ địch. Thực tế, sự ác liệt của chiến trường sẽ sắp đặt mỗi người lính vào đúng chỗ của mình. Ở sư đoàn, số có trình độ kỹ thuật trung cấp như anh trở lên rất ít. Anh cũng ở trong ban huấn luyện võ thuật sư đoàn, nhưng trong lý lịch có một tháng ngồi tù ở trại giam Hưng Yên, với nhận xét: Cải tạo tốt. Anh bảo với trung tá Đoán, trưởng trại giam, một người rất hiểu biết: “Sao anh không ghi: Bị bắt oan?”. Ông ta nói: “Bị bắt oan mà giam tới một tháng, để tôi đi tù à?”. Hóa ra lỗi tại mình, và cũng vì cái lỗi này, anh mất luôn cả Sính. Anh kể như thế, để em hiểu từ nay anh không quan tâm mình sẽ giữ chức vụ gì, thậm chí, việc quyết tâm rèn luyện và phấn đấu trở thành một Đảng viên Cộng sản, trước đây là điều bức xúc, bây giờ anh cũng cho là lúc nào đến thì mình nhận, còn chưa đến hay không đến, mình vẫn cứ sống hết mình vì lý tưởng thì chẳng có gì phải luyến tiếc hay hối hận cả.

- Và “một xanh cỏ, hai đỏ ngực”?

- Mỗi người lính chiến đấu vì Tổ quốc để rồi hoặc hy sinh hoặc quang vinh, đều đáng được trân trọng, nhưng anh chọn chiến đấu vì Tổ quốc, rồi dù chết hay sống cũng chỉ xin làm một người lính vô danh.

- Điều này có mâu thuẫn, khi anh đang quyết tâm phấn đấu thành nhà văn, một nghề không vô danh?

- Chẳng có gì mâu thuẫn, anh chọn nghề viết văn không phải vì danh mà vì một xã hội tốt đẹp. Trước sau, anh vẫn luôn khao khát trở thành một Nguyễn Minh Khôi thật hữu ích trong thời bình. Chiến tranh dù chính nghĩa đến đâu cũng không thể đưa đến nước mạnh, dân giàu.

Do năm giờ sáng mùng Một Tết đơn vị đã phải tập trung để hành quân dã ngoại, nên từ bốn giờ, trời vẫn còn tối bưng, anh em tôi đã phải nói lời chia tay.

- Hôm nào sư đoàn chính thức lên đường vào Nam còn chưa ai biết cả, nên cơ hội anh và em gặp thêm lần nữa chắc chắn không có. Và cũng rất có thể đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau... Trước khi đi, anh chỉ dặn em mấy điều: Thứ nhất, con đường của chúng ta chắc chắn sẽ còn nhiều chông gai, nên em phải giữ vững niềm tin. Thứ hai, khi có điều kiện, em phải quan tâm đến cậu và cô. Cậu đang chịu quá nhiều nỗi oan… Còn thứ ba, anh nhắc lại điều đã nói rồi, là em không được oán giận gì Danh Huyền cũng như anh Bá Vân cả.

Rồi anh ôm chặt tôi hồi lâu. Lúc rời ra, anh nói:

- Em biết vào chiến trường miền Nam, anh sợ nhất điều gì không?

- Nói thật, em chỉ sợ…

Anh cười:

- Sợ anh chết chứ gì? Yên tâm đi. Anh khó chết lắm. Nhưng anh luôn nhớ câu của Ostrovsky: “Người ta chỉ sống có một lần, phải biết sống sao ra sống, để không phải hối hận…”. Nên anh không bao giờ sợ chết mà chỉ sợ... Họ hàng nhà Mai Lĩnh bên ngoại mình ở trong Nam rất nhiều. Cùng lứa với anh em mình có anh Căn con bác Thụ, anh Cận, anh Viễn con bác Tiếp, anh Cừ con bác Năm Đần, thằng Đức con dì Diệu, rồi thằng Hưng con dì Doanh… Trên chiến trường, mình bắn Mỹ, rồi Mỹ bắn mình, là chuyện thường, nhưng nhỡ anh em ruột thịt bắn giết lẫn nhau thì thật là kinh hoàng. Chưa kể anh và anh Danh Hùng cũng có thể bắn nhau.

Tôi hỏi:

- Nếu hai anh gặp nhau ở chiến trường thì sao?

Anh Khôi bùi ngùi nói:

- Anh không tin có thần thánh, nhưng anh vẫn cầu Trời, điều anh sợ nhất đó không bao giờ xảy ra.

Lúc tiễn anh đến tận đội hình hành quân, tôi mới sực nhớ đến điều rất thiết yếu là trong quân đội chỉ có phụ cấp hàng tháng chứ không có lương, nên lúc anh ôm tôi lần cuối trước khi trở vào hàng, tôi vội hỏi:

- Trong túi anh còn tiền không?

Anh thoáng lúng túng:

- Cũng còn một ít.

Sự lúng túng đó đủ cho tôi hiểu anh cũng đang thiếu tiền hoặc đang cần tiền. Tôi móc túi áo ngực. Biết chắc mình đang có ba mươi lăm đồng, vì trước khi đi, tôi đã lĩnh tháng lương ở xưởng, tôi đưa anh ba mươi đồng, còn giữ lại năm đồng. Lúc đó tôi chỉ nghĩ, anh đi rồi, tôi còn về chỗ chị Tâm ở Việt Yên ăn Tết đến mùng Bốn rồi đạp xe về Quảng Ninh thì năm đồng sẽ đủ chi tiêu mấy ngày Tết và dùng vào việc uống nước, đề phòng xe hư dọc đường phải ghé vào hàng sửa xe, nên không lăn tăn gì.

Đoàn quân rùng rùng chuyển động trong bóng tối và không khí giá lạnh, ướt đẫm sương đêm. Đứng ngay lề đường nhìn theo đoàn quân, tôi không còn nhận ra anh mình lọt thỏm trong hàng lính đầu đội mũ tai bèo, quân phục quân giải phóng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, súng AK ngang ngực và ba lô nặng trĩu trên lưng. Bài hát Giải phóng miền Nam trầm hùng của Lưu Hữu Phước bất ngờ được cất lên từ lồng ngực cả sư đoàn hàng ngàn người lính: “Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước. Ôi xương tan máu rơi. Lòng hận thù ngút trời. Sông núi bao nhiêu năm cắt rời…”.

Cũng chỉ là chuyến luyện tập hành quân dã ngoại (anh nói địa hình Mai Siu rất giống địa hình rừng núi Trường Sơn và Tây Nguyên nên được chọn để luyện tập), vẫn chỉ là luyện tập, nhưng lại là lần cuối cù