- 22 - -
Chiều thứ tư, khi ông về nhà vào lúc sáu giờ, thì Hilda đang chuẩn bị ra về. Khuôn mặt lạnh lùng và vô cảm của bà ta lộ một vẻ gì đó không thoải mái. Ông không hỏi han bởi ông luôn tỏ ra cách biệt với Hilda. Ông biết Hilda yêu thích công việc nầy và bà không muốn phải thôi việc.
Tuy vậy, ngôi nhà luôn ngăn nắp, sạch sẽ, không có một bà chủ để phải nghe ra lệnh, không cỏ trẻ nít để quậy phá.
Chẳng có đứa trẻ nào. Ông bước vào thư phòng, uống một ly scotch và đứng bên cửa sổ để nhìn cái bóng Hilda khuất dần trên đường, theo hướng trạm xe buýt cách đó hai phố.
Sở dĩ ông đã chọn ngành y khoa là vì mẹ ông đã phải hy sinh tính mạng khi cho ông chào đời. Cha ông, một người có tính nhút nhát và sống khép kín, ròng rã theo năm tháng đã kể cho ông nghe chuyện đó. Cha thường nói: "Mẹ con rất mong có được đứa con. Mẹ biết rằng tính mạng mình sẽ lâm nguy khi sanh nở, nhưng bà vẫn xem thường".
Thuở đó, ngồi trong hiệu thuốc tây ở Brighton, ông thường quan sát cha bào chế các loại thuốc. Ông luôn nêu lên những câu hỏi "thứ này là thứ gì?", "Thuốc này trị bệnh gì?", "Tại sao cha dán nhãn 'Cẩn Thận Khi Dùng Thuốc' lên những cái lọ đó?" Dạo đó, như bị mê hoặc, ông lắng nghe từng lời nói của cha - người chỉ biết nói về chuyện thuốc men, cái thế giới duy nhất mà cha biết.
Rồi ông vào ngành y và sau những năm chuyên cần, ông là một trong mười sinh viên tốt nghiệp hạng ưu. Theo lẽ ông đã chọn làm việc nội trú tại một trong những bệnh viện lớn nhất của London hoặc Glasgow. Nhưng không, ông đã chọn bệnh viện Christ tại Devon vì nơi đó có phòng thí nghiệm được trang bị hiện đại để ông có thể nghiên cứu và thực hành. Và ông đã trở thành giáo sư và sự nổi tiếng của ông về khoa sản đã nhanh chóng lớn mạnh.
Vào năm hai mươi bảy tuổi, ông đã kết hôn với Claire, cô em họ của bá tước Sussex - thuộc giai cấp quyền quí hơn ông nhiều. Tuy vậy, sự nổi tiếng cùng với tương lai đầy hứa hẹn của ông đã san bằng những cách biệt giai cấp đó.
Và cuộc đời thật trớ trêu làm sao! Ông, vốn là một chuyên gia về thai nghén và sinh đẻ, lại lấy phải một người vợ vô sinh.
Ông, người sống giữa những bức tường treo đầy hình ảnh các em bé kháu khỉnh, lại chẳng chút hy vọng được làm cha.
Ông thắc mắc không hiểu từ lúc nào ông đã thù hận Claire? Điều đó đã xảy ra khá lâu - bảy năm trời.
Điều đó bắt đầu vào cái ngày mà ông nhận ra rằng Claire chẳng tha thiết gì về chuyện có con, cô ta chỉ giả vờ thất vọng vì trước khi kết hôn với ông, cô ta đã biết rằng cô không thể có con.
Ông bồn chồn rời khỏi cửa sổ. Trời càng rét đậm khi đêm buông xuống cùng với gió thổi về. Ông thầm hỏi, tại sao tháng hai, cái tháng ngắn nhất trong năm, luôn có vẻ là dài nhất? Ông quyết định sẽ di nghỉ sau khi vụ này đã xong xuôi. Ông thấy mình ngày càng bất an và không còn làm chủ được chính mình.
Sáng nay, suýt nữa ông đã bị lộ khi nghe Gertrude cho biết rằng Edna vừa gọi điện báo tin cô ta bị bệnh. Lúc đó, ông đã bấu tay vào bàn giấy, thấy những khớp tay của mình trở nên trắng bệch. Rồi ông bỗng nhớ ra: mạch đã ngưng, mắt đã đứng tròng, các cơ đã hoàn toàn buông thỏng. Edna đã chết. Gertrude cố che cho cô bạn. Gertrude đã nói dối.
Ông đã nhìn Gertrude với vẻ không hài lòng và lạnh lùng nói:
- Thật là phiền phức khi Edna vắng mặt hôm nay. Tôi mong ngày mai cô ấy sẽ đi làm.
Như thế là ông đã gài được Gertrude và bà ta có thể sẽ là một đồng minh của ông. Nếu cảnh sát có hỏi Gertrude: "Ông bác sĩ đã trả lời sao khi bà báo với ông rằng Edna vắng mặt?". Thì bà ta sẽ trả lời: "Ông ấy đã tỏ ra rất bực. Ông ấy là người nghiêm túc, không muốn thấy công việc bị bê trễ và xáo trộn".
Còn chuyện chiếc giày đã mất. Sáng nay ông đã đến bệnh viện lúc trời vừa sáng để tìm trên bãi đậu xe và trong phòng mạch của ông. Ông thắc mắc không hiểu tối thứ hai, Vangie có mang chiếc giày đó khi vào phòng khám của ông không? Tối đó Vangie mặc chiếc áo dài lót lông cafetan và bên ngoài là chiếc áo khoác mùa đông không cài khuy. Bà ta đã kéo tà áo cafetan để cho ông xem cẳng sưng phù. Ông đã trông thấy chiếc giày mọi nơi bàn chân đó, nhưng không để ý đến bàn chân kia.
Nếu chiếc giày mọi rơi xuống trên bãi đậu xe trong khi ông đưa xác Vangie ra ô tô, thì hẳn có người đã nhặt được nó. Có thể một nhân viên vệ sinh đã trông thấy và vứt nó vào thùng rác.
Ông nhớ lại hình ảnh của chính mình khi nhấc Vangie Lewis ra khỏi cốp xe, ẵm xác bà qua trước những hàng kệ chứa đầy dụng cụ làm vườn của nhà xe. Ông thầm nghĩ, phải chăng chiếc giày khá rộng đó đã vướng vào một vật gì đó? Nếu phát hiện chiếc giày trên một ngăn kệ của nhà xe, hẳn người ta sẽ thắc mắc.
Giờ đây ông đã bỏ chiếc giày của bàn chân phải vào túi đựng dụng cụ y khoa và cất ở trong ngăn hành lý của xe. Ông thấy ngần ngại khi vứt bỏ nó - một khi chưa biết chắc chiếc giày kia đã được vứt bỏ hay chưa.
Ông biết rằng, ngay cả khi cảnh sát mở rộng điều tra về vụ tự sát, họ sẽ chẳng tìm thấy một chứng cứ nào để buộc tội ông.
Chẳng ai có đủ lý lẽ để có thể nghi ngờ ông — chẳng ai cả, ngoại trừ Katie De Maio. Katie đã suýt nói lên một điều gì đó khi nghe ông đề cập đến cảnh quang nhìn từ một căn phòng của bệnh viện, nhưng rồi cô ta đã im bặt.
Giờ đây, khi uống xong ly scotch, ông chợt nghĩ rằng nếu cảnh sát đi đến kết luận là Vangie Lewis đã bị sát hạt thì họ sẽ mở cuộc điều tra tại bệnh viện Westlake và họ sẽ thẩm vấn bác sĩ Fukhito.
Dẫu sao, bác sĩ Fukhito cũng được xem là người sau cùng đã nhìn thấy Vangie Lewis trước khi bà ta từ trần.