← Quay lại trang sách

- 3 - ĐỨC KITÔ CHỊU CHẾT VÌ TỘI THIÊN HẠ-và-TIN MỪNG MỪNG NƯỚC TRỜI

Tôi là một Kitô hữu, được sinh trưởng nơi miền Bắc, nhưng được nuôi dưỡng, theo học và lớn lên trong truyền thống Công giáo dưới nền văn hóa miền Nam Việt Nam. Cũng như mọi Kitô hữu, tôi chân thành và tin tưởng cùng sống nghiêm khắc, hài hòa, và thi hành những niềm tin được dạy dỗ và truyền lại theo truyền thống và giáo luật tôn giáo. Đồng thời, tôi rất tôn trọng văn hóa Việt, kính trên, nhường dưới, đôi khi lại phải ép mình chấp nhận thua thiệt nơi những trường hợp chẳng đặng đừng cho thuận với lẽ lễ độ cuộc đời nơi nhận thức "một câu nhịn là chín câu lành" tránh cảnh hơn thua một đôi câu nói đôi khi tạo thêm đối nghịch, nhưng chấp nhận sống hòa hợp trong bất đồng chính kiến hay tư tưởng. Dẫu thế, nhiều khi những khúc mắc hoặc thao thức nổi lên trong tâm trí, khuyến khích tôi đặt lại vấn đề được mọi người chung quanh chấp nhận như thói quen hoặc điều nên thực hiện; chẳng hạn tại sao lại có câu nói "Đi khám bác sĩ" thay vì nói "Đi gặp bác sĩ" hay một lối nói nào khác, hoặc đi bộ để gìn giữ sức khỏe. Những người làm việc tay chân, đi đứng nhiều có cần phải đi bộ như những người làm việc nơi văn phòng? Như mọi Kitô hữu, tôi được dạy niềm tin, hay tin tưởng, quan niệm, Chúa Giêsu xuống thế cứu chuộc nhân loại. chịu chết để chuộc tội cho tôi, cho mọi người. Ngài nhập thể làm người, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, bị kết án, chịu đóng đanh và chết trên thập giá rồi sống lại sau ba ngày trong mồ. Nghe trên radio, các vị rao giảng của các giáo phái Kitô hữu khác nhau đều tuyên xưng và khuyến khích mọi người nên nhận thức và tin thật như thế. Mở rộng lòng để chấp nhận, tin thật đức Giêsu đã hy sinh mạng sống chết trên thập tự để cứu rỗi mọi người, cứu rỗi mình, nhận ngài là cứu chúa của mình là được cứu. Nơi những chương trình trên đài truyền hình cũng thế; các vị rao giảng hùng hồn tuyên xưng dức Giêsu là đấng cứu chuộc, đấng gánh mọi tội lỗi của thiên hạ, đã hy sinh mạng sống vì tội lỗi của nhân loại, và vì yêu thương nhân thế sa đọa quá đỗi nên ngài chấp nhận chết trên thập giá để cứu chuộc mọi người. Còn có những vị nghe thấy Chúa nói nên làm điều này, sự nọ cần tiền của để thực hiện, và kêu gọi những ai chân thành nhận đức Giêsu là Chúa cứu thế chung tay đóng góp vì vinh danh Thiên Chúa và thực hiện công việc đồng công cứu chuộc của đức Giêsu. Nhìn vẻ đạo mạo, chân thành, sùng tín của các vị ấy, lòng ruột tôi tất nhiên nao nao, nhưng là một Kitô hữu chân thành, đã được nhận những lời rao giảng như thế và đón nhận niềm tin từ các bậc cha ông đáng kính truyền lại, tôi càng thêm lòng kính ngưỡng, thêm lòng tin kính. Nhưng, thuở ban đầu, đôi khi tôi tự hỏi, cứ theo các nhà rao giảng, chỉ cần chân thành, thực tâm nhận đức Giêsu là đấng cứu chuộc là được cứu thì tôi đâu cần phải làm gì. Hơn nữa, tôi là người Công giáo, vậy những hy sinh hãm mình chẳng lẽ vô ích bởi vì đã có đức Giêsu liều mình chịu chết để chuộc mọi tội lỗi tôi đã thực hiện từ hai ngàn năm trước. Thế rồi nào các vị này, các đấng kia dâng mình cho Chúa, chấp nhận sống đời hy sinh, khổ hạnh để mong cứu rỗi các linh hồn là thế nào. Đã có đức Giêsu cứu chuộc rồi, phỏng có cần họ cứu rỗi cho nữa không. Vậy họ theo cuộc đời tu trì để làm chi; họ đã biết cái hồn của họ thế nào chưa mà đặt vấn đề và ước mơ cứu rỗi linh hồn người khác. Tôi đang sống ở Hoa Kỳ, và tất nhiên biết nằm lòng câu, "Everything has its price" hoặc, "The price is right," hay, "Nothing's free." Thêm vào đó, càng có tuổi, tôi càng hiểu thêm, tội ai nấy chịu, không ai có thể chịu tội cho ai khác. Nói rằng đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho nhân loại coi chừng phát sinh phản tác dụng; phỏng quan niệm này kiến tạo nên cảm nghĩ đã có bảo hiểm được cứu độ đời đời nên cứ việc hoang phí cuộc đời một cách vô trách nhiệm. Hơn nữa, phỏng những điều không nên không phải tôi đã thực hiện, dẫu tin tưởng rằng Chúa tha thứ nhưng tôi có tha được cho tôi chăng? Phỏng những ai có lương tâm nghĩ thế nào khi đối diện sự thể mình làm người khác chịu trách nhiệm? Nói rằng đức Giêsu được sai đến hoặc tự mình đến, chịu cực hình, chịu chết vì tội lỗi loài người sao phúc âm được viết, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: Mọi sự sẽ tha được của con cái loài người; mọi tội lỗi, mọi lời lộng ngôn, tất cả những điều chúng lộng ngôn; còn ai lộng ngôn đến Thánh Thần thì không được tha thứ cho đến đời đời; nó mắc một tội bất diệt" (Mc. 3:26-29). Đạt Ma sư tổ để lại câu nói gần ba ngàn năm trước, "Chỉ có một tội duy nhất đó là tội vô minh, tội không nhận ra Phật tánh nơi mình. Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong cõi vô thường" (GLTH; Tr.203). Nhà đạo tội phạm đến Thánh Thần; nhà chùa thì tội vô minh, không tội nào được giải thoàt. Phỏng tội phạm đến Thánh Thần là tội khinh chê hồng ân suy nghĩ vì nếu đã không suy nghĩ thì suốt đời u mê; nào khác chi tội vô minh, không chịu nhận biết. Chúa hoặc Phật nào có thể cứu chữa hay giải thoát kẻ không suy tư để nhận biết! Tôi phải suy tư vì không dám khinh chê hồng ân tâm trí, tránh tội vô minh. Phúc Âm Nói Gì? Có điều, sao tôi không thấy có câu nào nơi Phúc Âm Nhất Lãm (Matthêu, Marcô, và Luca) nói tới việc đức Giêsu rao giảng Ngài chết vì tội lội nhân loại, dẫu các nhà học giả Kinh Thánh đều cho rằng Phúc Âm Nhất Lãm viết về cuộc đời, sự giảng dạy, và sự khổ nạn, sống lại, của Chúa Giêsu; trong khi cả ba phúc âm đều nêu lên mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu chính là được sai đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Luca, đoạn 4, câu 43 được viết, “Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến. Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê.” Nơi Phúc Âm Marcô được viết, "Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó" (Mc. 1:38), Và Phúc Âm Matthêu lại ghi, "Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân" (Mt. 4:23). Đồng thời, Ngài cũng sai các môn đồ ra đi rao giảng với cùng mục đích, Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng.”(Mc. 3:14). "Hãy đi và loan báo rằng 'Nước Trời đã gần bên'" (Mt. 10:7), "Và chữa các kẻ ốm đau trong thành; hãy bảo họ: 'Nước Thiên Chúa đã gần bên các ngươi'" (Lc.10:9). Thế thì sự tin tưởng, niềm tin, sự quảng bá, rao truyền, "Chúa Giêsu đến thế gian chịu khổ hình chết trên thập giá chuộc tội cho thiên hạ" từ đâu phát sinh? Tại sao quan niệm này được rao truyền trong khi mục đích chính của cuộc đời Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời? Và Tin Mừng Nước Trời là gì, sao không ai nói tới, tin tưởng, và rao truyền? Nguồn Gốc Rao Truyền Chúa Chết Chuộc Tội Lật Tân Ước, nơi thư thứ nhất gửi Côrintô, thánh Phaolô viết, "Vì chưng trong khi Do Thái đòi có dấu lạ, và Hy Lạp tìm sự khôn ngoan; thì chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đã bị đóng đinh Thập giá, cớ vấp phạm cho Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại" (1Cor. 1:23). Theo thời điểm rao giảng của thánh Phaolô, thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô vào khoảng năm 57 sau Công Nguyên, nghĩa là trước khi Phúc Âm được viết (Từ năm 70 tới năm 100 sau Công Nguyên). Tất nhiên, vào thời kỳ thư 1Côrintô được viết vẫn chưa có danh hiệu Tin Mừng Nước Trời. Điều khiến độc giả ngạc nhiên chính là nhận thức của thánh nhân, "Anh em không biết sao: Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em" (3:16); nói rõ hơn, "Anh em không biết sao? Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần (ngự) trong anh em, anh em đã chịu lấy từ Thiên Chúa, và anh em không thuộc về mình nữa" (6:19). "Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em" rõ ràng nói lên sự thể Thiên Chúa ở trong anh em. Phỏng đây là nhận thức như thành quả của phương pháp thánh nhân áp dụng và đề nghị, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22)? Nghiệm Xét và Điều Kiện Thực Hiện Thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thessalônikê được viết vào năm 52. Thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô được thánh nhân viết vào năm 57. Như vậy có thể nói thánh nhân đã thực nghiệm nghiệm xét mọi sự nên đạt tới nhận thức Thiên Chúa ngự trị nơi mọi người. Nói cách khác, thánh nhân đã nghiệm xét được Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu rao giảng, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel." Đâu là gốc gác phương pháp thực hành "Nghiệm xét mọi sự," một đề nghị thực nghiệm, thực hành; một minh chứng thực nghiệm giải thích minh xác lời Phúc Âm nghiệm chứng sau này, "Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đã sai Ta, không lôi kéo nó" (Gioan 6:44); và "Trong các tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học từ Cha thì sẽ đến với Ta" (Gioan 6:45). Thánh nhân nêu lên nguyên tắc thực hành, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22), kèm thêm trạng thái hay điều kiện tâm trí của người nghiệm xét, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8). Xét như thế, người nghiệm xét không nên để tâm trí lệ thuộc hay bị ảnh hưởng bởi bất cứ gì dẫu là truyền thống, niềm tin, hay chiều hướng, hoặc quan niệm suy tư. Thử Phân Tích Nghiệm Xét Theo Thánh Phaolô 1- Đừng dập tắt Thần Khí. Nơi 1Côrintô thánh nhân nhắc nhở, "Anh em không biết sao: Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em" (3:16); "Anh em không biết sao? Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần (ngự) trong anh em" (6:19), thì sao có thể "Dập tắt?" Phỏng nói như thế có nghĩa hãy nhận biết, tin thật, nhận chân thực thể Thần Khí ở trong, đang ngự trị nơi một người. Như vậy, dập tắt mang nghĩa không nhận biết. Vấn đề được đặt ra đó là tại sao con người không nhận biết Thần Khí nơi mình. Sự nhận biết, nhận thức, là do tự mình suy tư, suy nghiệm, nghiệm chứng, nghiệm xét chứ không ai có thể nhận biết dùm hoặc dạy bảo hay cổ võ; bởi không ai có thể ăn uống hoặc suy nghĩ dùm cho bất cứ ai thì nhận biết nhận thức cũng thế. Nơi trường hợp rao giảng, khuyên bảo, dạy dỗ mong người khác có niềm tin, tin tưởng, chỉ là trình bày, là phương tiện hay cơ hội cho người khác suy tư hầu nhận biết sự thể sự việc như thế nào, là gì đối với người đó. Bởi vậy, phúc âm được viết, "Khốn cho các ngươi, Ký lục và Biệt Phái giả hình, vì các ngươi khóa nước trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào" (Mt. 23:13). Tôi không bào chữa cho Ký lục hoặc Biệt phái nhưng hình như họ cũng như những người khác, chỉ thực hành và hiểu biết lời Kinh Thánh theo nghĩa từ chương rồi giảng dạy dân Chúa theo suy nghĩ, hiểu biết thế tục nên bị cho là "Chận người ta lại" hoặc "Dập tắt Thần Khí." Nói sao đây, nhận thức, thức ngộ cần được suy nghĩ, không thể học được, không thể cầu, mà chỉ có thể ngộ. Muốn ngộ cần tự suy tư. 2- Chớ khinh thị các ơn tiên tri. Dẫu "Tiên tri" theo nghĩa nơi Kinh Thánh là sự rao giảng lời Chúa, trong khi Kinh Thánh được viết để con người nghiệm chứng, nghiệm xét chứ không phải để hiểu biết, giảng giải. Thực tại minh chứng, hiểu biết về một bữa ăn không thể làm bất cứ ai no bụng. Nghiệm chứng, nghiệm xét cũng giống như sự việc ăn, thưởng thức các món ăn. Không suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét lời Kinh Thánh và chỉ đọc hay nghe để hiểu biết, để lấy kiến thức, hiểu lời Kinh Thánh theo nghĩa từ chương thì chẳng khác chi hiểu biết sự tốt lành của bữa ăn trong khi bụng kêu réo vì đói. Thế nên, khinh thị các ơn tiên tri có nghĩa không suy tư, không nghiệm xét lời Kinh Thánh mà chỉ hiểu và rao giảng theo nghĩa từ chương, tưởng rằng chỉ như thế là nắm bắt được sự khôn ngoan lời Chúa. Nơi hành trình suy tưởng do giới hạn hiểu biết cũng như nhận thức, một người tất nhiên sẽ gặp rất nhiều thiếu sót nếu không muốn nói là sai lầm, không đúng sự thật; trong khi suy tưởng lại là hành động, hoạt động nhận biết sự thật của điều được ám định hay nói về, do dùng kinh nghiệm hay ý tưởng hữu vi, nhân sinh. Tuy nhiên, sinh hoạt suy tưởng, nghiệm chứng, nghiệm xét chỉ xảy ra nơi tâm trí và chỉ một mình người suy tưởng, suy nghiệm biết nếu không nói ra, và dẫu nói ra tất nhiên luôn luôn sai theo sự hiểu biết từ chương. Chẳng hạn, ăn bún bò Huế cần phải có ớt mới ngon, nhưng ớt nhiều ít lại tùy miệng của người ăn nên cái ngon của người này chắc chắn khác với bất cứ ai khi nói về bún bò Huế. Đàng khác, sự suy tưởng chỉ xảy ra nơi tâm trí nên đúng sai như nhau, hôm nay nghĩ thế này là đúng, mai thấy sai, suy nghĩ lại sao cho hợp lý hợp tình hơn; mốt thấy phải như thế này, như thế kia mới chuẩn, thì bỏ điều nhận ra sai lầm của hôm nay và ngày mai, giữ lấy điều đúng của ngày mốt; nào ai biết đấy là đâu. Vấn đề chỉ là mình có suy tưởng hay không. 3- Hãy nghiệm xét mọi sự. Khi nghiệm xét, nghiệm chứng, thực chứng, bất cứ sự việc hay quan niệm, sự thể, thực thể hoặc tư tưởng, chiều hướng, chủ thuyết, cũng như lời dạy hay câu nói nào, người nghiệm xét cần đặt vấn đề về mọi phương diện của sự thể hay ngôn từ của sự thể đó. Nơi sự việc kỹ thuật, kinh nghiệm về sự vật, sự việc có thể phụ giúp nhận biết sai sót hoặc thiếu mất phần tử nào để bổ túc hay sửa sai để sự việc trở lại bình thường hoạt động. Sự việc, sự vật dẫu bị ảnh hưởng những điều kiện sinh lý hay thể lý nhưng hoạt động của chúng không thay đổi là bao. Chẳng hạn H2O là nước thì sự khác biệt về trọng lượng của cùng một thể tích nơi điều kiện nóng, lạnh, khác nhau sẽ bị chênh lệch chút ít trong khi H2O là nước thì luôn là nước. Đối với một tư tưởng, quan niệm, sự nhận biết, nhận thức tùy thuộc những điều kiện nơi chủ thể; mà chủ thể, người nhận thức lại không ai giống ai. Do đó, khi nghiệm xét một sự thể, thực thể nào, người nghiệm xét tránh lệ thuộc bất cứ quan niệm, ước mơ, chủ thuyết, hay bất cứ gì trên mọi phương diện. Sự thể nghiệm xét đòi hỏi sự tự do tuyệt đối mọi mặt. Tất cả mọi ảnh hưởng đều giống như cặp kiếng màu làm lệch lạc nhận biết, nhận thức người nghiệm xét. Thí dụ, thử nghiệm xét câu, "Ai có tai thì nghe" (Mt. 11:15). Thử hỏi ai là người không có tai dù bình thường hay điếc? Thế sao lại nói "Có tai thì nghe?" Hoặc người đó không muốn nghe. Nếu người đó đã không muốn nghe thì không có gì phải nói. Kinh nghiệm hay khoa học đều minh chứng người ta nghe bằng tai và tai thì dùng để nghe. Tuy nhiên, câu hỏi được nêu lên đó là tai có thể nghe tự nó được không? Kinh nghiệm thực chứng minh chứng, một người chết, nghĩa là khi hồn đã rời khỏi xác thì người đó không thể nghe được gì nữa. Điều này nói lên chiếc tai không thể nghe tự nó mà chỉ là phương tiện cho cái gì đó nơi một người nghe, tạm gọi là hồn. Thế nên, cái hồn dùng tai để nghe; tai chỉ là phương tiện. Bởi vậy, nói rằng ai có tai thì nghe có nghĩa cái hồn có muốn nghe hay không. Dĩ nhiên, bất cứ âm thanh, lời nói nào vang lên sẽ lọt qua tai và hồn nghe. Như thế, phản ứng của hồn sẽ ra sao, có suy nghĩ, đặt vấn đề, có nghiệm xét điều nghe được hay không. Từ nhận định này có thể suy ra, câu, "Ai có tai thì nghe" nói về trạng thái, điều kiện của hồn một người có suy tư, nghiệm xét điều vừa nghe được hay không. Như vậy, thánh Phaolô đề nghị, "Hãy nghiệm xét mọi sự" khuyên nhủ người nghe đặt vấn đề mọi mặt về một câu nói, câu khôn ngoan, lời Chúa, lời Kinh Thánh để nhận biết, nhận thức sự khôn ngoan đó đối với mình thế nào. 4- Điều gì lành hãy giữ lấy. Trong khi suy tưởng, chỉ có sự hiện hữu của tư tưởng, nhận thức chứ không có sự đúng, sai, phải, trái, tốt, xấu, hay, dở. Chỉ có hợp hoặc không hợp, thuận lý, hợp tình, có thể chấp nhận được hay không. Bất cứ sự thể nào có thể xảy đến nơi tâm trí hợp với suy tư của mình và giúp mình thăng tiến trong suy tư, suy nghiệm đều là điều lành. Hãy giữ lấy và tiếp tục suy tưởng không cần để tâm đến bất cứ quan niệm thế tục nào ra sao vì quan niệm và hành động thế tục là hữu vi, những chuyện xảy đến nơi tâm tư hoàn toàn khác biệt với những hành vi, hoạt động thế tục. 5- Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào. Tất cả những gì dù tuyệt vời đến đâu nhưng ngăn cản hành trình suy tư đều được coi là điều dữ. Những sự, những điều dữ này được phúc âm coi như sự "Vấp phạm." “Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục” (Mt. 5:29-30). Sự thể này, chỉ người suy tư, nghiệm xét nhận biết. Những sự dữ này được thánh nhân nêu lên từ nhiều phương diện qua câu, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). 6- Cách vật trí tri. Là những hiểu biết nhân sinh, thế tục, triết lý, quan niệm, chủ thuyết, lý thuyết v.v... Những hiểu biết này chỉ hợp nơi sinh hoạt nhân sinh; chúng chỉ có thể dùng làm phương tiện hay cơ hội cho người nghiệm xét sử dụng, đặt vấn đề chứ không được coi như điều kiện suy tưởng. Sự suy tưởng không lệ thuộc bất cứ giới hạn nào vì chỉ xảy đến nơi tư tưởng. Cho dù ước muốn hay những hy vọng dẫu đẹp đẽ, thánh thiện đến mấy cũng chỉ là phương tiện, không thể là yếu tố quyết định hay ảnh hưởng sự suy tư, nghiệm xét. 7- Thể theo truyền thống người phàm. Lề luật, truyền thống, thói quen, quan điểm, v.v..., tất cả những gì trói buộc hoặc khiến con người lệ thuộc đều không có cửa ảnh hưởng hành trình suy tưởng. Khi suy tưởng, chủ thể có tự do tuyệt đối, Chúa cũng không nhảy vô làm phiền; Chúa cũng phải tôn trọng hành trình suy tư, suy tưởng, nghiệm xét của con người. bất cứ gì ngăn cản hành trình suy tư đều là sự vấp phạm, chủ thể không nên ngại ngùng dứt bỏ. Không dứt bỏ bất cứ gì để sử dụng tự do tuyệt đối nơi suy tưởng được phúc âm cho là xô cả thân mình vào hỏa ngục, hỏa ngục của sự mù tối, không nhận biết, nhận thức. 8- Nhân tố trần gian. Bất cứ lý lẽ, điều luật, tư tưởng, điều nên hoặc không nên, chúng ta có thể nghĩ tới đều được coi là nhân tố trần gian. Chúng không nên và không có quyền liên hệ cũng như ngự trị tâm trí người nghiệm xét. Chúng thuộc về thế tục, trần gian dẫu chúng được dùng làm phương tiện cho sự suy tư. Chúng không có quyền ảnh hưởng sự tự do suy tư tuyệt đối của chủ thể, của người suy tư, nghiệm xét. Những sự vật, sự thể con người mơ ước đều là vỏ bọc bên ngoài, không phải thực thể của sự suy tưởng, chủ thể suy tư không nên lệ thuộc vào chúng. 9- Không theo đức Kitô. Theo đức Kitô là tuân theo lời dạy của Ngài. Không ai có thể trở nên giống đức Kitô. Họ chỉ có thể là chính họ; nếu không thể là chính mình, tốt, xấu, thánh thiện như mình thì không thể suy tưởng. Điều luật, trạng thái tâm trí mà một người cần có chính là sự tự do tuyệt đối khi suy tưởng. Sự tự do này Chúa cũng tôn trọng; vì không thực sự có tự do suy tưởng, con người sẽ bị lệ thuộc những gì được thánh nhân gọi là cách vật trí tri, nhân tố trần gian. Theo đức Kitô có nghĩa tâm hồn hoàn toàn và tuyệt đối tự do. Sự tự do này chỉ có được nếu con người thực hành, nghiêm giữ những câu nói nghịch thường nơi phúc âm; tôi tạm gọi những câu này là điều kiện tâm trí. Điều Kiện Tâm Trí a/ Trong khi suy nghĩ, suy luận, không bám víu nơi bất cứ tư tưởng, ý nghĩ nào, "Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai" (Mt. 9:16-17; Mc. 2:21-22; Lc. 5:36-38). Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc. 9:23-25; 14:33; Mc. 8:34-37). b/ Không lệ thuộc kinh nghiệm, học thức, kiến thức cũ. "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:62). c/ Người chết về tâm linh chôn xác chết. "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa" (Mt. 8:22; Lc. 9:60). d/ Không bám víu, lệ thuộc vào tình cảm, ước muốn, ý nghĩ. "Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được" (Mt. 10:37-39; Gioan 12:25). e/ Cần biết nhận định, tính toán, suy tư. "Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán pí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: 'Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc.' Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối hương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà" (Lc. 14:28-32). - Dụ ngôn Mười Nàng Trinh Nữ, năm nàng khờ dại không suy nghĩ, chỉ làm theo thói quen hay điều người khác nói" (Mt. 25:1-13). - Dụ ngôn Những Nén Bạc, sợ sai lầm nên không dám suy tư, nghiệm xét; lời Chúa để Chúa nghe (Mt. 25:14-28). Nơi hành trình nghiệm xét, Phúc Âm cũng nhắc nhở cần thực hành nghiệm xét; thuở ban đầu rất khó nhưng lâu dần sẽ thăng tiến chẳng khác gì làm việc. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi" (Mt. 13:12; Mc. 4:25; Lc. 8:18). "Kẻ trước hết trở nên sau hết;" thực hành sẽ biết. Thoạt đầu, tâm trí sẽ bị rối như tơ vò, không biết đâu vào đâu, kể như không thâu lược được chút kết quả suy tư nào, nhưng cứ kiên trì, sau một khoảng thời gian, diễn tiến suy tư sẽ dần dần hiển lộ. f/ Trong hành trình nghiệm xét, bất cứ gì xảy đến nơi tâm tư cần được dứt khoát loại bỏ bởi nó cản trở nhận thức, "Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”(Mt. 3:29-30). - "Ai có tai thì nghe"”(Mt. 11:15; 13:9; 13:43; Mc. 4:9; 4:23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). - "Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,sửa lối cho thẳng để Người đi"”(Mc. 1:3) - Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc. 1:15). - "Người gieo giống đây là người gieo lời. Những kẻ ở bên vệ đường, nơi lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Xa-tan liền đến cất lời đã gieo nơi họ. Còn những kẻ được gieo trên sỏi đá là những kẻ khi nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, nhưng họ không đâm rễ mà là những kẻ nông nổi nhất thời; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì lời, họ vấp ngã ngay. Những kẻ khác là những kẻ được gieo vào bụi gai: đó là những kẻ đã nghe lời, nhưng những nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt lời khiến lời không sinh hoa kết quả gì. Còn những người khác nữa là những người được gieo vào đất tốt: đó là những người nghe lời và đón nhận, rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm" (Mc. 4:14-20). - "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt" (Mc. 9:42-48). - "Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào" (Mc. 10:15). - "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”(Mc. 10: 24-25). - "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến"”(Mc. 13:33). - "Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc. 14:33). (Trích từ, Khai Phá Tin Mừng; Lã Mộng Thường; Litho Printers; MO; USA; 2021; Trang 90-93). Vào thời kỳ thánh nhân dạy "Hãy nghiệm xét mọi sự," tất nhiên chưa có phúc âm. Những câu phúc âm nói về điều kiện tâm trí người nghiệm xét được trích từ phúc âm quả là gượng ép vì thực ra, không ai biết đức Giêsu đã thực sự nói những gì khi Ngài còn đương thời. Thánh nhân bị kết án và qua đời vào năm 68 dương lịch trong khi phúc âm mãi cho tới năm 70 mới được các cộng đồng chung nhau viết theo truyền thống truyền khẩu. Nếu cho rằng tôi lấy "Râu ông cắm cằm bà" thì đành chịu vì ngay đến những học giả Kinh Thánh cũng không mò ra được nên tôi đành mạo muội chép vô, may ra vị nào được Thần Khí của đức Kitô soi sáng kiếm ra được những gì đức Kitô thực sự rao giảng mà thương tình chỉnh đốn, tôi chân thành cảm tạ. Chỉ một điều, đức Kitô rao giảng Tin Mừng Nước Trời; trong khi thánh Phaolô rao giảng đức Kitô chịu đóng đanh đã trở nên nguyên cớ cho bài viết này. Xét như thế, câu hỏi được đặt ra và đó là chúng ta theo đức Kitô hay theo thánh Phaolô. Nói như thế điều khác biệt tất nhiên xảy đến; đó là có những sự gì xảy đến nơi niềm tin, nhận thức nơi mỗi Kitô hữu. Thực tại minh chứng, chúng ta theo thánh Phaolô rao truyền, tin theo đức Kitô chịu đóng đanh mà lại khuyến khích rao giảng, truyền bá phúc âm. Có lẽ không khác gì tôi đã "Lấy râu ông cắm cằm bà." Theo đức Kitô tức là tiếp nối mục đích Ngài được sai đến để thực hiện và đó là rao giảng, quảng bá Tin Mừng Nước Trời. Theo thánh Phaolô tất nhiên chúng ta loan truyền về đức Giêsu. Tại sao sự thể này phát sinh? Dẫu phúc âm được viết theo truyền thống truyền khẩu; bởi tới năm 70 thì những người đương thời đã quá già hoặc đã qua đời, và nếu để tâm phân tích, phúc âm được viết theo lối dùng đức Giêsu làm mốc điểm rồi gom góp những câu khôn ngoan từ ngàn xưa ráp nối thành câu truyện dược các nhà học giả Kinh Thánh cho rằng phúc âm viết về cuộc đời Chúa Giêsu. Để tâm và phân tích phúc âm thành những câu nói riêng biệt và sắp xếp lại ‎những câu nói tương tự theo hệ thống, phúc âm nói về hành trình suy tưởng, nhận thức Tin Mừng Nước Trời dẫu không có bất cứ đinh nghĩa nào về Tin Mừng nơi phúc âm. Nói cách khác, phúc âm chỉ dẫn hành trình nghiệm xét Tin Mừng Nước Trời. Hành trình này bao gồm những nhận thức hay những suy tưởng về con đường hẹp hay thực tâm nhận biết chính mình, tốt lành, thánh thiện hay quỷ quái, ma giáo thế nào. Thiên Chúa là thế nào; Nước Thiên Chúa là gì... để dẫn đến nhận thức Tin Mừng đức Giê su rao giảng. So Sánh Nhận Thức của Phaolô và Tin Mừng Nước Trời Tin Mừng Nước Trời là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta;" Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người, nơi tạo vật, nơi mọi sự, ngay cả nơi tư tưởng; vì tư tưởng cũng có sự hiện hữu nên mới có thể biết được. Sở dĩ chúng ta không dám phóng tâm suy tưởng, nghiệm xét vì nhiều lẽ. Có thể vì không quen suy tưởng, không quen hoặc không dám đặt lại vấn đề những gì đã được dạy dỗ, hay được coi như truyền thống, quan niệm; dẫu mọi người bình thường sử dụng sự suy tư, tính toán trong công việc làm ăn nơi cuộc sống, sinh hoạt nhân sinh. Có thể con người mang mặc cảm tự ti vì giới hạn hiểu biết tâm linh do ít khi đặt vấn đề nên e sợ sai lầm dẫu mọi người đều nhận biết và chấp nhận "Ai nên khôn không khốn một lần." Có thể tâm thức con người bị ràng buộc bởi những lý thuyết, quan niệm, hay lề luật nhân sinh vì không nhận ra hồng ân là thực thể suy tư nơi mình. Thực ra, gọi người suy tư là chủ thể nhưng chính linh hồn người suy tư, nghiệm xét, suy tưởng chứ không phải bộ óc người đó. Bộ óc chỉ là vật chất, và vật chất không thể phát sinh tư tưởng, ý định, ước muốn. Linh hồn được các nhà thức ngộ, nhận thức Đông Phương gọi là thượng đế nội tại. Thánh Phaolô nhắc nhở, "Anh em không biết sao: Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em" (1Cor.3:16). Linh hồn là Thần Khí Thiên Chúa nơi mỗi người. Sự suy tư, suy tưởng, nghiệm xét do linh hồn, không phải nơi bộ óc. Những quan niệm, lý thuyết, nhận định, nhận thức nhân sinh ảnh hưởng nặng nề sự suy tưởng, nghiệm xét của một người. Thí dụ, câu phúc âm, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm” (Mc. 1:15) Động từ “Ăn năn hối cải” được dịch từ tiếng Hy Lạp “Metanoia” có tới hơn 10 nghĩa, và nghĩa chính của nó là “Thay đổi chiều hướng,” hoặc, “Cải tạo (brain wash) tư tưởng.” Vào thời đức Giêsu rao giảng, chưa có ngôn từ hay văn từ “Phúc Âm.” Thiển nghĩ, nếu viết lại theo lời rao giảng thì nên viết, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa ở nơi các ông, hãy thay đổi chiều hướng quan niệm và tin vào lời ta nói.” Tuy nhiên, phần ghi chú nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước do 14 học giả Thánh Kinh đã được viết, “Ở đây, chắc phải hiểu sám hối (metanoia) theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng, từ ngôn sứ Giêrêmia: thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chùa của Giao Ước về dấn bước vào một cuộc sống mới”(KTTÖ; Tr. 184; Sài Gòn; 1994). Lý do gì hay sự thể, sự việc nào đã khiến các vị ấy không dám động não nghiệm xét thì chỉ các vị ấy biết, mọi dự đoán đều bất công. Mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43) chứ đâu phải Ngài rao giảng ăn năn hối cải. Đàng khác, Phúc âm khuyến khích, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33; Lc. 12:31). Đức Giêsu không rao giảng gì về cái chết của Ngài, lại càng không công bố Ngài chết vì và chết cho tội lỗi loài người. ‎Một điều chắc chắn đó là thánh Phaolô không biết gì về danh hiệu Tin Mừng Nước Trời dẫu ngài đạt tới nhận thức, "Anh em không biết sao: Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em" (1Cor. 3:16). Bình tâm nhận định, nói rằng "Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em" hoặc, Thiên Chúa ở trong anh em, hay Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đều mang ý nghĩa như nhau; khác chăng chỉ là ngôn từ hay lối phát biểu. Như vậy có thể nói, dẫu thánh nhân đạt tới nhận thức Tin Mừng, đạt tới thực thể Tin Mừng đức Giêsu rao giảng tuy khác lối phát biểu. Dân gian có câu, "Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết." Tôi không hiểu được ‎thánh Phaolô phát biểu qua câu, "Vì chưng trong khi Do Thái đòi có dấu lạ, và Hy Lạp tìm sự khôn ngoan; thì chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đã bị đóng đinh Thập giá, cớ vấp phạm cho Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại" (1Cor. 1:23) mang định kiến gì! Hoặc là rao giảng theo những gì đức Giêsu rao giảng, hay rao giảng về con người của đức Giêsu. Nơi thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, chúng ta đọc được, "Ai nào biết được tư tưởng của Chúa, để hòng chỉ giáo cho Người. Còn chúng tôi, chúng tôi có tư tưởng của đức Kitô" (1Cor. 2:16). Thánh nhân đương đường minh xác, "Quả vậy, Đức Kitô đã không sai tôi đi thanh tẩy, mà là rao giảng Tin Mừng; không phải bằng sự khôn ngoan của khoa ngôn ngữ, kẻo thập giá của Đức Kitô bị ra hư không trống rỗng" (1Cor. 1:17). Và, "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh Thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh Thánh" (1Cor. 15:3). Trong giới hạn hạn hẹp, tôi thử tìm hiểu phần nào định kiến của thánh Phaolô qua thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô. Nơi bản dịch do linh mục Nguyễn Thế Thuấn dòng Chúa Cứu Thế (1976) được viết, "Còn chúng tôi, chúng tôi có tư tưởng của Đức Kitô" (1Cor. 2:16); nơi bảy bản dịch tiếng Anh cũng được dịch mang đồng ý nghĩa (Anchor Bible (1Cor. 1976), New American Bible (1970), Holy Bible (1895, 1952), Jerusalem Bible (1966, 1991), Oxford Bible (1971). Riêng câu, "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh Thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh Thánh" (1Cor. 15:3). Nơi cuốn Jerusalem Bible được in năm 1966 viết, "Well then, in the first place, I taught you what I had been taught myself, namely that Christ died for our sins...," trong khi cũng bản dịch Jerusalem Bible xuất bản năm1991 lại viết, "The tradition I handed on to you in the first place, a tradition which I had myself received, was that Christ died for our sins..." Nơi cuốn 1Corinthians, cuốn thứ 32 thuộc bộ Anchor Bible, được in năm 1976 dịch, "For I delivered to you with top priority that which I also received: that Christ died for our sins according to the scriptures." Bản dịch New American Bible cũng được viết như nơi cuốn 1Corinthians của bộ Anchor Bible. Xét như thế, thánh Phaolô chỉ lặp lại hoặc tuyên xưng theo truyền thống về đức Kitô chịu chết vì tội lỗi loài người chứ không phải ngài tự đề xướng hoặc đó là định kiến của thánh nhân. Tin theo đức Giêsu là nhận thức, nghiệm xét, và thực thi lời Ngài giảng dạy. Mục đích cuộc đời của Ngài là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Tin theo Ngài là nhận biết, và thực thi, cũng như rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Vấn đề được đặt ra, Tin Mừng Nước Trời là gì?