- 4 - MÓC MẮT - CHẶT TAY
Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục" (Mt. 5:29-30). Nếu tay hay chân ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; thà ngươi cụt tay, què chân mà vào sự sống, còn hơn là có hai tay, hay hai chân mà bị quăng vào lửa đời đời. Và nếu mắt ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng nó đi khỏi ngươi, thà ngươi chột mắt mà vào sự sống, còn hơn là có hai mắt mà bị quăng vào địa ngục lửa thiêu" (Mt.18:8-9). 43 Và nếu tay ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt nó đi, thà ngươi cụt tay mà vào sự sống, còn hơn là có hai tay mà sa vào hoả ngục, vào lửa không hề tắt, 44 [nơi mà giòi bọ không chết, và lửa không tắt]. 45 Nếu chân ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt nó đi, thà ngươi què chân mà vào sự sống, còn hơn là có hai chân mà bị quăng vào hỏa ngục, 46 [nơi mà giòi bọ không chết, và lửa không tắt]. 47 Nếu mắt ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc nó đi, thà ngươi chột mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn có hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục. 48 nơi mà giòi bọ không chết, và lửa không tắt" (Mc. 9:43-48) Chưa bao giờ tôi gặp câu nói nào dám nêu lên điều gay gắt quá quắt như ba đoạn văn trên dẫu đã dám liều lĩnh tìm tòi những công án nơi sách vở đạo học Đông Phương, trong đó Phật học đã có những câu thoạt vừa mới đọc hay nghe, đầu óc con người đã vội bị sốc. Chẳng hạn nơi Lâm Tế Lục có câu, "Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp." Hoặc nơi Đạo Đức kinh của Lão học được viết, "Đi xa tức là về gần." Những công án này là thành quả nghiệm chứng, nghiệm xét của các bậc thức ngộ, muốn nói lên điều gì thì chỉ những ai rắp tâm định tâm, hành thiền, may ra mới nhận thức được. Tôi nói may ra vì sự nhận thức chỉ có thể ngộ, không thể cầu, không thể học được cũng như không thể dạy được; mà có chăng người đã thức ngộ nhờ những câu nói đó lại càng không thể nói được gì, phương chi giải thích hay dạy dỗ. Lẽ đương nhiên, người thức ngộ bị rơi vào cảnh như Lão học minh định, "Người biết không nói, kẻ nói không biết." Chính câu nói này đã đày đọa tôi không biết bao nhiêu năm; và nghe chừng đâu đó, cho tới nay 2021 hơn kém ba ngàn năm đã không biết bao người nơi vùng Á Châu, chẳng hạn Trung Hoa, Đại Hàn, Đài Loan, Nhật Bản, đã dùng cả cuộc đời nghiệm chứng câu này để rồi sống để dạ, chết đem theo như chưa bao giờ nghe thấy hoặc đọc được. Ấy chỉ là câu nói nhẹ nhàng, dễ thương, ai chợt nghe thấy mà không cảm thấy nực cười, đôi khi cho rằng người nói lên câu đó ngây ngô, ngớ ngẩn hoặc diễu chơi thiên hạ; mà nó đã khiến biết bao người xất bất xang bang tự tiêu hủy bao suy tư, nghiệm chứng. Đàng này, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục" (Mt. 5:29-30), đã hơn kém hai ngàn năm hiên ngang thách đố, nếu không muốn nói là ngạo nghễ nhạo cười bàn dân thiên hạ; bởi đâu có ai dám thử thực hành. Tôi nói chưa có ai dám thử thực hành vì nếu thực hành tất nhiên đi tù theo luật đời vì hủy hoại thân thể. Ba đoạn này được trích nơi phúc âm, dù thay đổi thứ tự sự vật, sự việc hoặc cách diễn xuất thì cuối cùng cũng đem đến kết quả móc mắt, chặt tay. Xét theo lề luật nhân sinh, đúng là xúi dại cho những người cuồng tín. Tuy nhiên, cũng xin cảm ơn phúc âm, vì nếu tôi không lầm (cầu xin lầm mà không lầm) thì dù chỉ một câu đã có thể minh chứng không ai cuồng tín; vì hình như đã hơn kém hai ngàn năm, nơi Kitô giáo, nơi tất cả những giáo phái thuộc Kitô giáo, hoặc bất cứ những ai tin theo đức Kitô đều không có ai cuồng tín đủ để thực hành dù chỉ một câu trong ba đoạn này. Thế nên, ai cũng vậy, lỡ đọc hay nghe biết, đều lờ đi như chưa bao giờ nghe hoặc đọc. Thử hỏi, biết bao hàm vị tiến sĩ Kinh Thánh nơi các giáo phái của Kitô giáo từ xưa đến nay, tạm gọi hai ngàn năm, đã có vị nào trình luận án tiến sĩ về dù chỉ một câu trong ba đoạn này chưa; tôi không biết. Thiển nghĩ, sự thức ngộ cần được trãi qua, nghiệm chứng, nghiệm xét, cần định tâm hay hành thiền để suy tư. Nhưng thực chứng lại ngộ không cần thời gian suy tư, suy tưởng viễn vông, chẳng cần ai dạy cũng như học nơi đâu; cứ móc phăng một con mắt hay chặt đứt một cánh tay là ngộ liền, biết nó thế nào ngay lập tức. Đó là thực chứng, nói theo các vị thức ngộ Đông Phương. Sự thức ngộ đâu cần danh hàm kỹ sư hay tiến sĩ. Xét thế, có lẽ tôi đã suy luận đúng, không ai nơi Kitô giáo cuồng tín đủ vì ai cũng lành lặn, ngoại trừ nơi những trường hợp bất khả kháng. Hơn nữa, càng không có vị tiến sĩ chột mắt hay cụt tay, càng chứng tỏ đã chẳng có hàm vị tiến sĩ Kinh Thánh nào đệ trình luận án tiến sĩ về một câu trong ba đoạn này. Nói người lại nghĩ đến ta. Nhưng tôi không cần danh hàm tiến sĩ; tôi cũng như mọi Kitô hữu không cuồng tín đủ, cũng không muốn thực chứng để đi tù, và nhất là càng không ngu dại đủ để tin theo phúc âm xúi dại theo nghĩa hữu vi, nhân sinh. Tôi chỉ muốn tìm hiểu lời phúc âm nói về sự thể gì nơi phương diện nào, và sao có thể áp dụng một cách đúng đắn nơi cuộc đời của tôi cũng như của mọi người. Nói rằng hay tin rằng lời phúc âm là lời Chúa mà không thể nào áp dụng nơi cuộc đời nhân sinh thì chỉ minh chứng lời phúc âm không tưởng hoặc vô bổ, và như thế chứng tỏ đã chẳng tin gì dẫu miệng hô hào, tuyên xưng tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa. Đây là trạng thái nói láo, không thật với lòng mình. Quí vị nghĩ sao, nhận thấy lòng mình, tâm tưởng của mình thế nào khi miệng thì tuyên xưng tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa nhưng không hiểu, không dám thực hành lời phúc âm trong cuộc đời? Nếu miệng tuyên xưng tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa mà không cần biết phúc âm nói gì thì tin như thế nào. Không đánh lừa được Thiên Chúa đâu. Nói rằng rao giảng phúc âm trong cuộc sống mà không dám áp dụng lời phúc âm nơi cuộc đời thì rao giảng cái gì? Thiên hạ không ngu như mình tưởng đâu. Lừa tiền lừa bạc của họ thì may ra chứ không lừa được họ tin theo những sự gì không thể và không dám thực hiện đâu. Phét lác cho qua, đem lời phúc âm giảng giải theo nghĩa từ chương, luân lý thế tục, không lừa được ai đâu. Người nghe dẫu không nói ra thì mình cũng tự mang nỗi nhục lừa đảo. Tôi không có học vị tiến sĩ vì không muốn tự móc mắt, chặt tay để thực chứng đoạn phúc âm này. Tôi cũng chỉ như bao Kitô hữu khác, câu phúc âm nào đại khái ý nghĩa có lợi cho mình thì ôm ấp để huênh hoang, ra vẻ ta đây là con người tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa cho giống với mọi người cùng trong bè đảng được mệnh danh là có đức tin dẫu chẳng biết đức tin, lòng tin là gì vì không biết cách nào áp dụng để biến câu nói, "Ông hãy đi! Ông đã tin sao, thì hãy được như vậy" (Mt. 8:11) thành hiện thực nơi cuộc đời mình. Tôi đang sống tại nước Hoa Kỳ; mọi người đều biết, bất cứ gì cũng bị đánh thuế, nhưng hình như sở thuế cũng không biết gì về đức tin, lòng tin như tôi nên không biết đánh thuế người nói phét. Do đó, tôi tha hồ huênh hoang tuyên xưng rằng mình tin vào đức Kitô, tin vào Thiên Chúa mà không ai thèm để ý cũng như hỏi tôi rằng tôi tin như thế nào và đức tin, lòng tin của tôi mang vị thế nào nơi cuộc đời của tôi. Ba hoa chích chòe tự do mà, chỉ tốn chút nước bọt, đâu thiệt hại gì tới miếng cơm manh áo, lại cảm thấy mình quan trọng, được ngưỡng mộ, ai dại gì mà không nổ, không nói phét, ngoại trừ kẻ dở hơi. Nói thì nói thế, nhưng tôi cũng có tự ái, dù không ai biết, chính tôi biết. Tự thâm tâm, tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình do luôn biết tự trọng, biết liêm sĩ để có thể nói phét mà không thấy ngượng miệng. Tôi cần nhận biết cho rõ ràng sao có thể áp dụng lời phúc âm nơi cuộc đời. Tôi cần biết tin là thế nào, đức tin, lòng tin là gì, ra sao đối với tôi. Dẫu chính quyền không đánh thuế kẻ nói phét thì tôi cũng cần phải biết liêm sĩ nhận thực được niềm tin, đức tin của tôi là gì. Thế nên, không biết thì lật sách xem các vị tiến sĩ, các học giả Kinh Thánh nói năng ra sao. Lật cuốn Mathew, cuốn sách thứ 26 của bộ sách Anchor Bible, được giới thiệu và giải thích bởi W. F. Albright và C. S. Mann, do Doubleday in tại New York vào năm 1987; nơi trang 63, có ghi thêm hai câu, "Các ngươi đã nghe bảo: chớ ngoại tình. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng" (Mt. 5: 27-28), được giải thích là lề luật cũng cấm đoán ham muốn điều chẳng nên trong lòng, đồng thời cũng cho rằng sự trừng phạt về điều luật cấm đoán này được nói tới nơi câu, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục" (Mt. 5:29-30). Giời, giải thích như thế chẳng khác gì coi lời phúc âm như lối giải thích trong thế giới hữu vi, nhân sinh, và dùng lề luật tự trời rơi xuống bổ xung hay làm căn bản cho sự trừng phạt và không ai thèm áp dụng nơi cuộc đời do nghĩ rằng luật của Chúa thì Chúa lo mà giữ, đâu có gì phiền hà đến chúng tôi nơi thân phận nhân sinh. Các bậc học giả, các bậc thày dạy, viết sách giải thích về Kinh Thánh đã như thế, hèn chi không có hàm vị tiến sĩ nào đệ trình luận án về móc mắt, chặt tay. Nói phét không bị đánh thuế thì bố lếu, bố láo cũng chẳng bị phiền hà chi dẫu trong cương vị nào, nhất là lời Chúa. Cứ đem Chúa ra mà hù, thế là an bình. Thế câu phúc âm, Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục" (Mt. 5:29-30), muốn nói gì đối với tôi trong khi tôi không chấp nhận được sự giải thích của học giả, chứ không phải "học thiệt" Kinh Thánh? Nói rằng hình phạt móc mắt, chặt tay liên hệ đến tội ngoại tình trong lòng; ai biết được người nào ngoại tình trong lòng của kẻ khác ngoại trừ chính họ. và dẫu họ biết, đâu ai áp dụng lời phúc âm theo nghĩa từ chương nơi cuộc đời; đồng thời cũng không ai cuồng tín bậy bạ, hay ngu dốt thực hành như thế để bị ngồi tù theo luật đời về sự hủy hoại cơ thể. Lẽ đương nhiên, đàn ông thích và cần đàn bà cũng như đàn bà thích và cần đàn ông. Sự thể này chính là do hồng ân của sự sống và truyền giống, sinh sôi này nở mà con người được ban cho, nói là được ban cho hay năng lực bẩm sinh cũng thế. Ai ban cho con người năng lực này nếu ngoài Chúa ra. Vậy những kẻ yên hoạn, không có năng lực này, nghĩa là những người đàn ông không thích đàn bà hoặc đàn bà không thích đàn ông, có khả năng phạm tội ngoại tình trong lòng được chăng? Thế thì tội quy về đâu, về cội nguồn năng lực bẩm sinh hay tại phúc âm được viết để ngạo đời, để nhắc nhở con người nên chú ý, để tâm nhận biết hồng ân mình được ban cho mà đã vô tình, ngu dốt không nhận biết đã bao lâu nay, từ thời nguyên thủy có sự sống nơi cõi dương gian? Thử hỏi, giã sử, không ai có thể phạm tội ngoại tình trong lòng, điều này có nghĩa không ai có được khả năng bẩm sinh sự sống, thì thế giới này sẽ ra sao? Có cần phải được khuyến cáo, răn đe, móc mắt, chặt tay hay không? Thế phúc âm muốn nói về điều gì hay sự thể nào nơi phương diện chi nơi cuộc đời con người? Thực tế minh chứng, luật đời đều bắt nguồn từ luật tự nhiên, ngăn cản bất cứ gì tổn hại đến con người. Thế nên, móc mắt, chặt tay tất nhiên không thể nào là luật tự trời rơi xuống vì nó phản tự nhiên, phản luật đời. Vậy lý do gì phúc âm được viết như thế? Viết cho ai và trong trường hợp, phương diện nào? Đặt vấn đề như vậy, câu trả lời thực tế rõ ràng không ai có thể chối cãi, và đó là phúc âm được viết từ miền Trung Đông; tất nhiên kiểu cách phát biểu bị ảnh hưởng nặng nề của đạo học Đông Phương. Thử xét Tục Ngữ, Ca Dao của dân Việt; chẳng hạn câu, "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng." Ai cũng hiểu câu này nói về điều gì, nhưng chắc chắn không nói về ăn uống, cái nồi, hoặc ngồi chỗ nào, vị thế ra sao, cũng như hướng chi nơi bàn ăn; nghĩa là câu nói mang ý nghĩa ám định về tư thế và vị thế trong cách cư xử của một người nơi cuộc đời. Thử xét câu khác, "Liệu bò, đo chuồng." Câu nói rất thường nhưng lại rất nghịch thường. Đâu phải nhà ai cũng có trâu bò, nhưng ai cũng hiểu được câu này nói về điều gì trong cuộc đời. Ai cũng thế, nên tính toán sao cho hợp tình hợp cảnh nơi cuộc sống, chẳng khác gì, "Ở cho phải phải, phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa." Thêm một câu nữa cho dư giả văn chương, "Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa." Ai cũng hiểu câu này nói gì, nhưng có lẽ nếu phiên dịch sang ngôn ngữ khác nơi Tây Phương, thử hỏi mấy ai hiểu điều gì sẽ xảy đến nơi tâm trí người đọc nếu chỉ dịch và đón nhận theo nghĩa từ chương. Nếu xét theo địa hạt tâm linh, phúc âm là một đạo học bởi có những câu phát biểu tương tự như nơi Lão học hoặc Phật học. Nơi phúc âm có câu, "Ai có tai thì nghe," chẳng khác gì nhà Phật nói, "Lời ta nói như chiếc bè." Hoặc, "Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp" nơi Lâm Tế Lục, nhà Phật; thì phúc âm lên giọng, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi." Thử hỏi, Phật tử nghe thấy câu nói quá quắt đụng chạm đến Phật, đến tổ của họ, sẽ cảm thấy thế nào, và bất cứ ai nghe thấy câu phúc âm đề nghị móc mắt, chặt tay sẽ nghĩ người nói không khùng thì cũng bị cho là điên. Thế mà những câu nói "Khùng, điên" này lại ngạo nghễ thách đố người thiên hạ đã mấy ngàn năm. Phúc âm được viết từ Trung Đông nhưng lại được triển dương bên Tây Phương, nơi kỹ thuật phát triển và lẽ tất nhiên với thói quen đón nhận theo nghĩa từ chương nơi những tài liệu kỹ thuật, phúc âm cũng đồng số phận được đón nhận theo nghĩa từ chương. Đàng khác, các sách vở đạo học là sản phẩm của các nhà thức ngộ được viết theo lối ám định nói về nhận thức tâm linh, tâm cảm. Nói cách khác, câu, "Người biết không nói, kẻ nói không biết" nói lên thực trạng của bất cứ sự thức ngộ nào vì sự thức ngộ chỉ xảy đến nơi tâm tưởng con người. Bởi thế, nhà Phật có công án, "Uống trà" và cảm nhận hay nhận thức về ngụm trà ngon ngọt hay chát đắng ra sao do hành động uống trà, chỉ người uống trà biết. Dẫu giải thích thế nào thì người không uống trà chẳng thể nào cảm nhận được miếng trà thực sự ra sao. Hơn nữa, sự cảm nhận, nhận thức về miếng trà lại tùy thuộc những điều kiện thể lý, tính cách, hoặc thói quen, ưa thích trà hay không. Do đó câu trả lời vẫn chỉ là "Uống trà" mà thôi. Ai uống trà, người nấy biết miếng trà đối với mình ra sao. Trở lại với câu phúc âm, móc mắt, chặt tay, câu phúc âm dùng sự việc nhân sinh, hữu vi để nói về hành trình tâm linh, hành trình nghiệm chứng hay nghiệm xét đã được đề cập tới trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thessalônikê, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22). Kèm theo lời khuyên, thánh Phaolô cũng nhắc nhở thêm điều kiện tâm trí hay trạng thái tâm hồn của người nghiệm xét, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8). Lời thánh nhân nhẹ nhàng theo kiểu hữu vi, nhân sinh, khiến ít ai để ý, nhưng nếu đặt nơi phương diện tâm linh, suy tưởng, không khác chi câu nơi Lâm Tế Lục, "Gặp Phật, giết Phật, gặp tổ, giết tổ." Nơi hành trình, nói cách khác, khi để tâm suy tưởng về một vấn đề gì, tâm hồn không nên lệ thuộc hay bị ảnh hưởng bởi bất cứ gì cho dù truyền thống, quan niệm, điều luật, v.v... Chỉ đối diện với điều mình đang để tâm; không cho phép bất cứ chi lọt vào; chúng hiện đến, để chúng tự ra đi, không đối kháng, xua đuổi bởi nếu tránh né hoặc xua đuổi nó, mình đã tự biến nó thành đối tượng đấu tranh thay vì để tâm tưởng hướng về điều mình đang đối diện. Tất cả những gì xảy đến trong khi nghiệm xét được thánh nhân gọi là "Cách vật trí tri, truyền thống người phàm, nhân tố trần gian." Ngay cả truyền thống, cách vật trí tri mà còn bị liệt kê thành những thứ đánh bã, điều này nói lên người nghiệm xét cần phải hoàn toàn, tuyệt đối tự do, không lệ thuộc hoặc bị ảnh hưởng bất cứ gì trong khi tâm tưởng hoàn toàn mở rộng để nghiệm xét mọi sự. Bất cứ gì xảy đến ảnh hưởng tới tâm tưởng người nghiệm xét được coi là cớ vấp phạm, cần bị loại bỏ. Xét thế, đoạn, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục" (Mt. 5:29-30) nói về trạng thái tâm tưởng của người nghiệm xét, chứ không gì dính dáng đến sự việc nhân sinh. Nói cách khác, đoạn này nói lên người nghiệm xét cần có tâm trạng như thế nào, tôi tạm gọi là điều kiện tâm trí. Ai thực hành nghiệm xét lời phúc âm sẽ nhận thức được, không thực hành, lại cố dùng "Cách vật trí tri" để giải thích, giải yêu, cũng chỉ là "Kẻ nói không biết."