Chương một - 1 - Cuộc cách mạng của con tim
Trải lòngvới một đứa con
Đó là vào năm 1970, năm Canh Tuất theo Âm lịch.
Tôi sống cùng với gia đình ở một làng nhỏ, hẻo lánh ở nước Pháp. Vào ngày hè hôm ấy tôi chọn cho mình những hàng gạch ấm trên bậc tam cấp lớn dẫn từ phòng khách ra ngoài vườn. Trước khi nằm xuống dưới bóng hai cây dẻ cao và rậm rạp, tôi sắp xếp lại chiếc gối cứng mà mình sẽ đặt đầu vào đó. Lại đến lúc Isabelle nhổ những sợi tóc sâu của tôi. Và con bé đang tới rồi, nó sẽ bắt đầu ngay với công việc, khéo léo, đúng theo phong tục ở đất nước mà tôi đã sinh ra và lớn lên.
Mái tóc dài cần phải giữ được một màu đen hoàn hảo và không bị xen lẫn những sợi trắng phản phúc có thể làm phương hại đến vẻ ngoài của tôi.
"Mẹ ơi, mẹ từ đâu đến? Tại sao mẹ không giống chúng con? Kể đi mẹ!", cô con gái nhỏ của tôi hỏi, với chiếc nhíp trên tay.
Nghe lời thỉnh cầu của con bỗng nhiên tôi mới ý thức được là chưa bao giờ tôi nói về quá khứ của mình. Mà nào có ai lại quan tâm về cuộc đời của tôi chứ?
Gần bốn mươi năm sôi động đã trôi qua, suốt thời gian đó tôi luôn giữ kín các cảm xúc của mình cho một dịp nào đó về sau. Liệu giờ đây tôi đã sẵn sàng cởi mở tấm lòng mà không làm vỡ ra những vết sẹo cũ đã lành?
Nó ngồi đó, đầy kỳ vọng trước tôi, đứa con gái út mà tôi đã sinh hạ vào 1964, năm Giáp Thìn, ánh mắt tò mò và vô tội. Nó muốn nghe tôi kể. Và đột nhiên tôi có cảm giác đã đến lúc phải đối diện với quá khứ của mình. Không nén lại bất cứ một điều gì nữa. Không còn sợ hãi. Tôi muốn giải tỏa nỗi cồn cào trong mình, được thét lên và chia sẻ. Tôi muốn rốt cuộc được tự giải thoát khỏi gánh nặng đã đè trĩu lên tâm hồn mình hàng chục năm trời như một tảng đá. Và như vậy tôi đặt đầu lên lòng con gái và bắt đầu kể. Và trong khi tôi nói, quá khứ quay trở lại, dường như tôi phải nếm trải tất cả một lần nữa...
Ra đời trên đường đi
Tôi xuất thân từ An Nam, ngày nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Những năm đầu đời tôi sống ở một làng gần thị xã Hà Tĩnh nằm bên bờ biển miền Trung.
Tôi có hai người anh trai. Một người anh cả tôi sẽ không bao giờ muốn nêu tên vì sự thô lỗ và tàn bạo mà người ấy dành cho tôi, và Hòe.
Tôi sinh ra trên đường đi Hải Phòng, một trung tâm thương mại quan trọng từ hàng thế kỷ nay và một thành phố cảng tầm cỡ ở phía Bắc An Nam mà do có nhiều cây phượng vĩ mọc ở đó nên cũng được gọi là thành phố hoa phượng đỏ.
Mẹ tôi đi theo bố tôi trên một chiếc xe thồ hai bánh do một con trâu mộng của nhà kéo. Bố mẹ tôi đến Hải Phòng để bán da thú và các chiến lợi phẩm săn bắn khác của bố tôi.
May mắn là bố mẹ tôi cùng đi với nhau, bởi người mẹ bụng chửa vượt mặt của tôi lúc đó, một người đàn bà An Nam, không được phép sinh con trong ngôi nhà của chính mình ở Hà Tĩnh. Làm như vậy thì sẽ mang lại tai họa cho trẻ sơ sinh và cả gia đình.
Khi lên cơn đau đẻ, mẹ tôi tìm một góc yên tĩnh có cây xanh, nằm ngoài tầm mắt của người qua kẻ lại. Bà không tìm được một túp lều nào để có thể chọn làm nơi đẻ.
Bố tôi để mẹ tôi một mình trong khi vượt cạn. Là chồng, ông không được phép có mặt chỗ vợ sinh, bởi nếu không thì ông sẽ bị mất khả năng đàn ông. Ông chờ ở chỗ buộc con trâu nhà cho đến khi được mẹ tôi gọi.
Tất cả những việc này xảy ra vào năm 1929, có lẽ vào khoảng tháng Mười, vì lúc đó vụ lúa thứ ba và cũng là vụ lúa cuối cùng đã thu hoạch xong. Mẹ tôi đo cuống nhau và thả nó rơi xuống tận đầu gối tôi. Sau đó bà gọi bố tôi, ông dùng con dao sắc của mình cắt cuống nhau. Mẹ tôi quấn tôi vào một tấm khăn địu bằng lụa màu đen, trước đó không quên buộc chặt một đồng bạc to vào cuống nhau đã được thắt lại thành hình loa ốc sên. Như vậy nó sẽ lành và chóng rụng hơn, sau đó mẹ tôi sẽ bảo quản khúc cuống nhau cẩn thận trong những năm đầu đời tôi; nó sẽ được dùng kèm theo một loại thuốc chống sốt do người già pha chế nếu như tôi bị ốm. Mẹ tôi còn hút sạch đờm từ trong mũi tôi và nhổ ra vệ đường. Bằng cách đó bà đề phòng bệnh hô hấp cho tôi.
Tôi được đặt tên Cúc, hàm nghĩa hoa cúc. Mẹ gọi tôi như vậy vì bà rất yêu loài hoa này. Sau đó bố mẹ tôi tiếp tục đi Hải Phòng và mấy tuần sau mới quay trở lại Hà Tĩnh. Nơi đây tôi đã sống những năm đầu tiên vô tư của thời thơ ấu.
Gốc rễ
Về sau này mẹ tôi nói với tôi rằng người ta chẳng cần biết nơi sinh của mình. Điều quan trọng là sức khỏe. Vào thời đó ở nước tôi, đặc biệt là ở vùng nông thôn, có thông lệ là đứa trẻ nào sinh ra bị dị tật sẽ bị bóp mũi cho đến khi ngạt thở. Người ta tin rằng làm thế thì sức khỏe và sự thanh sạch của dòng giống sẽ được đảm bảo.
Mẹ tôi, một người đàn bà mảnh mai, duyên dáng, sinh vào năm 1890, cùng năm như một người đàn ông về sau sẽ mang tên Hồ Chí Minh. Bà thuộc dân tộc thiểu số Lào và sống ở một vùng cao nguyên gần Lào. An Nam thời đó có trên năm mươi dân tộc.
So với một người phụ nữ An Nam bà khá cao lớn. Bà có mái tóc dài và mượt, trên môi luôn nở nụ cười. Da của bà rất trắng. Đối với tôi bà thật đẹp. Thường bà mặc đồ lụa xanh, và mái tóc dài của bà được quấn bằng vải đen thành một hình vành khăn ở quanh đầu. Cổ tay bà đeo nhiêu vòng bạc nung vốn rất phổ biến ở quê tôi.
Mỗi khi đi chợ quê để bán thú rừng do bố tôi săn được, bà luôn đội nón, phía sau vành nón giấu một tấm gương tròn nhỏ.
Trước ngôi nhà của chúng tôi có một chum đựng nước mưa dùng để uống và nấu ăn. Trong nhà có một gian nhà kho với các bao tải chứa thuốc lào phơi khô và gạo. Cạnh nhà có một chiếc bè tre lớn neo sẵn để cứu gia sản của chúng tôi nếu có mưa lớn kèm lũ quét, biến những nhánh sông ở gần thành một dòng thác nguy hiểm. Phía sau nhà, cạnh cái chuồng gà của bà cô tôi là một mảnh vườn nhỏ của mẹ tôi, ở đó bà trồng cây ăn quả, rau và mùi.
Bố tôi thuộc một tộc người sống chủ yếu nhờ săn bắn, được gọi chung với các tộc người thiểu số khác là "mọi". Ông có một tấm lưng to như tấm phản và người rất thấp, chỉ khoảng một mét tư. Với một bàn tay ông có thể dễ dàng vặn cổ một con khỉ! Hình dáng của ông đến hôm nay vẫn còn hiển hiện trước mắt tôi: làn da sẫm màu, gương mặt rộng, chiếc mũi bẹt, mái tóc cứng và đen nhánh của ông được buộc túm lại bằng một giải da.
Ông chỉ đóng mỗi chiếc khố, chỉ khi nào có việc xuống thị trấn ông mới vận một bộ quân phục cũ đã bợt màu, một kỷ vật từ thời ông phục vụ trong quân đội Pháp. Ông phục vụ ở đó trên hai mươi lăm năm. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, ông có mặt ở Pháp, tại mặt trận phía Tây. Trong một lần vấp nổ lựu đạn ở đó, ông đã mất đi hai ngón tay.
Sau thời gian đó, cuộc sống của ông lại quay về với nhịp điệu cũ, thỉnh thoảng ông kiếm thêm chút tiền bằng cách làm người dẫn đường đi săn cho các thành viên khá giả thuộc tầng lớp thượng lưu: Chủ ngân hàng, bác sĩ hay chủ đồn điền giàu có, họ muốn đi tìm một chút kích thích trong chốn rừng rậm thâm u.
Một cuộc hôn nhân
Cuộc hôn nhân của bố mẹ tôi đã được hai bên gia đình sắp đặt từ sớm, chính bố mẹ tôi không hề biết đến. Chỉ có ông bà nội ngoại mới được thông báo trước về quyết định này.
Bố tôi thường sang Lào đi săn. Từ đó ông mang về cho cô dâu tương lai trinh trắng của mình lá trầu để bà nhai, nhằm chăm sóc cho hàm răng nhuộm đen của bà. Ngoài ra ông luôn mang theo đá thạch anh mài, ngọc và vải đỏ - màu của may mắn - và thú rừng săn bắn được. Bởi do kiếm được bộn tiền từ việc đi săn để có thể nuôi sống được gia đình riêng, bố tôi không phải đi ở rể ở nhà bố vợ tương lai.
Lễ cưới thực sự của bố mẹ tôi bắt đầu bằng việc bố tôi tặng cho vị hôn thê của mình nhiều thứ quà cáp. Trong khi đó hai bên nhà trai và nhà gái làm lễ cúng gia tiên.
Ngày đầu kết thúc bằng một bữa tiệc tối thịnh soạn. Sáng hôm sau cô dâu ăn vận lộng lẫy được rước sang ngôi nhà gia đình tương lai của mình. Khi đến nơi, bà quỳ rạp xuống lạy bố mẹ chồng và họ hàng nhà trai. Bà cầu nguyện gia tiên và các thần linh bảo hộ hôn nhân từ nay sẽ phù hộ cho mình.
Từ thời điểm này bà trở thành thành viên của gia đình bên chồng, từ lúc này bà phải chấp nhận đức tin của họ. Tôn giáo của chúng tôi là một hỗn hợp của Phật giáo và một niềm tin về các thần linh thiện và ác bao quanh con người, thường xuyên đòi hỏi lòng tôn kính và các lễ vật.
Từ đó mẹ tôi sống trong căn nhà này, dưới con mắt xét nét thường trực của bố mẹ chồng. Do được kết hôn hoàn toàn theo đúng nghi thức truyền thống nên bà được hưởng vị thế của một người vợ được nể trọng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là cuộc đời của bà lại đáng được người đời ghen tị.
Trong những đồng tiền do bố kiếm được, mẹ chỉ nhận được phần cần thiết nhất để trang trải sinh hoạt cho bố mẹ chồng, ba đứa con và bản thân. Nếu không đi săn hay làm một công việc khác thì bố tôi mua rượu mía, còn gọi là rượu "rum"(Rhum), rồi uống tới say, hoặc đánh bài ba quân. Thêm vào đó ông còn thường đi chơi phố. Ông đi về tùy ý thích mà không cần một lời báo trước - là đàn ông, ông chẳng phải giải trình trước một ai. Thỉnh thoảng, ông biệt tâm hàng tháng, có lúc cả hàng năm trời, nhưng mỗi lần trở về lại được mẹ tôi đón nhận không một lời chất vấn, cứ như thế ông chưa hề đi xa.
Giả sử nếu muốn ly dị, mẹ sẽ phải hoàn trả từng món quà tặng của bố. Những vật dụng bị vỡ, chẳng hạn như chén bát, sẽ không có đồ để thay thế. Hay cho một tấm vải thêu đã mòn ông sẽ đòi một khoảng cắt cổ để kiếm được tấm vải nguyên dạng. Ngoài ra bà sẽ mãi mãi phải rời bỏ ngôi làng của mình để không gây ô nhục cho gia đình.
Như thế mẹ không bao giờ có khả năng chia tay bố nữa. Còn bố tôi, như mỗi một người đàn ông khác, có đến bảy lý do để có thể ly hôn, trong đó ba lý do quan trọng nhất là bệnh vô sinh, thói lắm lời và tính ghen tuông từ phía người vợ. Bởi vì bố tôi không phải là một người An Nam nghèo khó, ông có thể chọn cách sống đa thê. Từ rất lâu ông đã lấy một người vợ lẽ sống ở làng bên và cũng có con với người này.
Với mẹ tôi thì vị trí "bà cả" đã là một vinh dự, qua đó bà được hưởng một sự công nhận nhất định. Khi tự giới thiệu với ai đó, bà nêu tên mình và chua thêm một cách tự hào: "Bà cả". Và như vậy tôi cũng được tự hào xưng danh là "Cúc, con gái của bà cả". Cho dù không thực sự hiểu được nguyên do, mỗi lần có ai đó gật đầu một cách cảm thông pha chút giễu cợt, danh xưng ấy vẫn làm thỏa mãn và cũng có cảm giác lâng lâng về tính ưu việt trong tôi.
Tôn ti và trật tự bao trùm ở quê hương chúng tôi đã được tôi nhập tâm từ tấm bé như là những nguyên tắc cốt lõi. Tôi biết rằng bố thì đứng trên đỉnh cao nhất, vì ông là bố, và vì ông là đàn ông. Người đàn ông tầm thước này, với một tấm lưng rộng như lưng trâu mộng, có mọi quyền quyết định trong gia đình.
Ở vị trí tiếp theo là anh trai cả của tôi, người đại diện cho quyền lợi của gia đình khi bố đi săn hay sống ở nhà bà vợ lẽ. Anh trai Hòe kế theo chịu trách nhiệm về những công việc giản đơn hơn. Người có uy tín tiếp theo đó là mẹ tôi, người có nghĩa vụ gắn kết gia đình và thường xuyên bị xét nét bởi bố mẹ chồng và các bậc trưởng lão. Và ở vị trí rốt cùng là tôi, Cúc, "con gái của bà cả".
Thời vô tư
Tôi từng trải qua những giờ phút không thể nào quên trên những cánh đồng lúa xanh mướt gần nhà và quan sát người lớn trong khi họ làm việc. Đàn ông cày trên các thửa ruộng bùn lầy, đàn bà thì cấy lúa và hát những bài ca buồn bã. Trên từng bước đi tới, những chú trâu kiên nhẫn thở phì phò một cách nhịp nhàng. Trên tấm thảm âm thanh được kết thành từ những hơi thở sâu và mạnh, tiếng lội nước sùng sục và các điệu hát du dương, những sắc thái tinh tế của màu sắc bao quanh chúng tôi trong ánh dương mang đến cho tôi một cảm giác thật huyền diệu.
Thỉnh thoảng tôi được phép cắm mạ xuống đất bùn sau khi đã thử kéo một đường cày thẳng với chú trâu nhà. Tôi rất thích mùi đất xộc lên mũi và làn hơi ấm trên da làm cho nó trở nên lấp lánh. Ở quê tôi có thừa đủ nước để tưới cho mạ non, tôi thường tát nước bằng chiếc nón quê của mình. Chiếc nón của tôi còn lâu mới đẹp như những chiếc nón từ kinh đô Huế, xứ sở của những người làm nón. Nón Huế thường có những hình hoa văn tinh tế chìm giữa hai lớp lá, lúc soi ra ánh sáng mới có thể nhận thấy hết vẻ đẹp. Chiếc nón quê của tôi đơn sơ hơn nhiều, nhưng đủ che nắng mưa và gắn bó với tôi suốt cả thời thơ ấu.
Thuở đó tôi chưa hề ý thức được về việc người lớn phải lao động nặng nề như thế nào. Tất cả dường như diễn ra thật nhẹ nhàng, và nụ cười hiển nhiên trên gương mặt họ mang đến cho tôi cảm giác rằng công việc đang mang lại cho họ niềm vui.
Ngày đó tôi chưa có các nghĩa vụ phải hoàn thành. Khi xem đã chán hay nếu những con đỉa hút máu trở nên quá hung hãn, tôi sẽ lại trèo lên chú trâu nhà và nó sẽ mang tôi trở về nhà an toàn, cho dù tôi có ngủ thiếp đi trên lưng nó.
Mẹ tôi gần như luôn túc trực trước cổng nhà để xả thịt thú rừng do cha bắn hạ bằng mũi tên tự chế tẩm thuốc độc. Ông sử dụng thành thạo các loại vũ khí và nắm vững mọi ngóc ngách của kỹ thuật săn bắn, nhờ đó ông nổi danh là một thợ săn xuất chúng. Những con chim nhỏ bị dính chặt trên những tấm ván do bố đã bôi keo trước đó. Bố chỉ cần thu lượm chúng về.
Thỉnh thoảng ông lại đến các đầm lầy và cắm một con vịt gỗ sơn có mỏ thật xuống mặt nước ven bờ. Sau đó ông dùng cung tên bắn vào những con vật đồng loại bay tới. Hay để thay đổi ông sử dụng một con cò tự lắp với bộ cánh "thật" biết vỗ ngay giữa đồng lúa. Có lần chỉ trong một ngày ông đã bắn hạ được hơn cả một trăm con cò xám. Phần lớn những con thú săn được ông phân phát một cách đầy hào phóng cho dân làng. Nhiều lúc ông bắn được hươu non, về đến nhà ông cắt cổ chúng và uống tiết hươu con nóng để tăng lực. Còn tim hươu thì mẹ tôi chế biến thành bữa ăn tối cho ông.
Có một ngày ông mang từ rừng về một con gấu non bị bắn hạ và trao lại lá tụy và mật cho ông ngoại tôi là thầy thuốc trong làng để chế thành những thang thuốc quý.
Ông ngoại tôi là một người có học. Tôi yêu quý ông. Ông biết đọc và viết chữ Tàu cổ theo hàng dọc. Mỗi khi thấy tôi có hứng thú, ông thường dành thời gian giảng giải cặn kẻ cho tôi về những gì mà ông biết được về các loại thảo dược và phương pháp trị liệu. Trong khi nói, ông có thói quen vuốt chòm râu bạc lưa thưa mọc dài đến ngực mà ông rất đỗi tự hào. Nhờ có nó ông không chỉ là một người được vị nể trong làng, ông còn tin rằng vào ngày mà ông từ giã cõi đời, Đấng cao xanh sẽ lấy túm chòm râu mà kéo ông lên trời. Chòm râu càng dài bao nhiêu thì xác suất được lên trời càng cao bấy nhiêu! Nếu có ai đó cắt đi chòm râu của ông, linh hồn của ông sẽ phải lang thang bất hạnh!
Linh hồn như tôi và bạn
Sau tôi mẹ tôi còn sinh hạ hai người con gái nữa, Thảo và Mây.
Và bây giờ bà mang thai đứa con thứ sáu. Bố tôi quyết định nới rộng căn nhà dần đã trở nên chật chội của gia đình tôi. Căn nhà được xây dựng trên nền đất sét được lèn chặt, với tường đất nan tre và mái sậy. Một hôm ông đi hút vào rừng rậm mất mấy ngày liền, vào một buổi sáng ông trở về với một con voi hoang, ông kể là đã dùng chuối chín để nhử và mua chuộc nó.
Bố tôi đã phát hiện đàn voi từ trước đó. Ông quả quyết rằng mình có khả năng trò chuyện với các loài thú, và tôi lập tức tin điều đó khi thấy ông trở về cùng với con voi cường tráng này. Nó bắt đầu ngay với việc lần lượt nâng bổng mười hai thân cây sơn to nặng từ mặt đất và dựng chúng lên cùng bố tôi. Mủ độc của loài cây này không chỉ được dùng để chế tạo sơn. Một khi phết lên các mặt gỗ, nó còn có tác dụng chống ẩm và diệt mối một cách tuyệt vời. Khi đánh bóng miếng gỗ này, nó sẽ sáng lên như gương. Ở lối vào nhà của chúng tôi có treo một tấm gương như vậy.
Bằng cách đó, bộ khung cửa gian nhà phụ chuẩn bị cho đứa con chưa ra đời đã dựng xong. Sau khi nó được hoàn tất với các bức tường rơm và đất sét được ráp vào các cột gỗ, chú voi tự lên đường trở về rừng rậm, trước đó không quên chén chuối đầy bụng.
Cũng có những con voi được thuần hóa sống và làm việc suốt đời trong một gia đình như một gia súc trung thành. Mẹ tôi kể có lần có một kẻ nát rượu bán con voi của mình cho một người họ hàng của chúng tôi trong làng, sau khi anh ta đã nhiều lần đánh nó trong cơn say xỉn. Nhiều năm sau, do một tình cờ, người này đặt chân đến một làng có con voi đó đang làm việc. Khi nhìn thấy người đàn ông này, con vật giận dữ lao đến và giẫm chết anh ta, sau khi dùng vòi ném bổng người đó lên không khí. Làng lập tức triệu tập một phiên tòa để xét xử về hành động của con voi. Người dân ở đây cho rằng hết thảy đều có sự sống và có linh hồn, bất kể đó là loài vật hay cây cỏ. Trong ý nghĩa này, loài vật cũng được coi bình đẳng như người và được đối xử một cách tôn trọng.
Người ta cho rằng con vật này đã hành động một cách công bằng, do nó bị hành hạ trong quá khứ. Với người chủ mới, nó luôn tỏ ra là một gia súc chăm chỉ và trung thành, vì vậy mà nó đã được tuyên bố trắng án.
Thầy mo
Không chỉ thần linh đòi hỏi ở con người sự kính trọng. Từ khá sớm tôi đã biết có người tốt, nhưng cũng có cả các ác nhân sống quanh ta. Vào một ngày nọ có một người đàn bà trẻ đến làng chúng tôi. Cô bị kiệt sức và xin một bữa ăn cùng nơi tạm nghỉ chân. Cô kể cho chúng tôi câu chuyện của mình.
Ở làng cô, nơi gần biên giới Lào, có một gia đình thù địch với cô và người nhà của cô, họ rất tức tối về việc mảnh ruộng thuê của gia đình cô mang lại nhiều sản lượng hơn so với các mảnh ruộng của họ. Sau nhiều lần tranh cãi, gia đình kia tìm sự giúp đỡ của một thầy mo. Vào lúc trời nhập nhoạng tối, người đó bí mật bôi lên cánh cửa ra vào căn lều của người đàn bà một thứ chất lỏng đã bị bỏ bùa, nhằm để nhử rắn ở quanh vùng vào bên trong túp lều. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng trăm con rắn độc đã trườn vào lều và cắn những người trong gia đình đang nằm ngủ. Bà mẹ già, chồng và năm đứa con đã chết một cách thê thảm. Bản thân cô thoát chết chỉ vì hôm đó tình cờ cô ngủ lại nhà một người em gái vừa sinh con. Ở làng tôi có một bà cụ biết được cách giải bùa, nhưng người đàn bà trẻ quá sợ hãi nên không dám quay trở về nhà. Vì vậy mà cô sẽ đi tiếp, cô nói với chúng tôi như vậy, chừng nào đôi chân của cô vẫn còn đủ sức.
Người đàn bà trẻ chỉ ở lại ít hôm. Sau đó cô lại rời khỏi làng chúng tôi, với đầy đủ thức ăn dự trữ, để tiếp tục con đường của mình.
Ngày xửa ngày xưa
có một vị Hoàng đế
Qua nhiều thế kỷ, do vị trí địa lý và tài nguyên của mình, đất nước chúng tôi đã trở thành món mồi thèm khát của các thế lực ngoại bang. Vương quốc Trung Hoa từ lâu đã đưa Khổng Giáo với quan niệm ngũ thường - nhân, nghĩa, lễ, trí, tín - cũng như hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước thông qua các quan lại vào áp dụng ở quê hương chúng tôi. Các vị quan này là những học giả thuộc giới tinh hoa có nhiều ảnh hưởng của triều đình, có trách nhiệm thừa lệnh Hoàng đế thực hiện việc bảo tồn nền văn hóa Trung Hoa. Công việc này hoàn toàn chỉ dành cho nam giới.
Để trở thành quan, có nghĩa là người có địa vị cao quý, các bậc nam nhi phải thông thạo về văn học Trung Hoa và phải vượt qua những kỳ thi khó khăn. Chỉ sau đó họ mới được thăng quan tiến chức trên các thang bậc hành chánh và quyền lực của triều đình.
Với việc áp dụng hệ thống quan lại, tất cả các tỉnh huyện phải được sắp xếp lại. Cho dù nền thống trị của Trung Quốc mang lại tiến bộ kinh tế và nhiều thành tựu văn hóa và giáo dục ở đất nước chúng tôi, các phong tục và truyền thống bản địa đã bị cấm đoán và bị thay thế bởi các luật lệ của Trung Hoa. Và như vậy có nhiều cuộc bạo loan đã nổ ra, có lúc thành, có lúc bại. Đồng thời Đông Nam Á ngày càng lọt vào tầm ngắm của các thế lực Phương Tây; đặc biệt là nước Pháp đã vươn dài cánh tay của mình sang đây. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống phong kiến ở An Nam đã bị dập tắt với sự giúp đỡ của người Pháp. Pháp đóng vai một nhà bảo hộ được hoan nghênh và tận dụng cơ hội để đặt chân lên đất nước này. Rốt cuộc Trung Hoa đã công nhận khu vực bảo hộ Bắc Bộ là địa phận thuộc Pháp.
Cuối thế kỷ mười chín tuy vẫn còn một Hoàng đế Việt Nam ngự trên ngai vàng, nhưng Pháp, với tư cách một thế lực thực dân quyền uy, đã thành lập và kiểm soát Liên bang Đông Dương, trong đó bao gồm các xứ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và cả Lào, Cămpuchia. Vào đầu thế kỷ hai mươi, Phật giáo, vốn bị triều đình và người Pháp chèn ép trước đó, đuợc chấn hưng trở lại. Các tu sỹ Phật giáo thành lập các trường học, cô nhi viện và bệnh xá. Những người nghèo cưu mang những người còn nghèo hơn cả mình.
Lúc tôi ba tuổi, Bảo Đại lên ngôi vua, tất nhiên là dưới sự bảo trợ của người Pháp. Ông từng du học ở Pháp và được quyền thừa kế ngai vàng. Huế, kinh đô của triều Nguyễn, nằm cạnh dòng sông Hương. Đô thành được bảo bộc bởi năm dãy núi có chức năng phòng thủ, điều này được coi là một điềm lành.
Như vậy tôi đã lớn lên với tư cách bầy tôi của một Hoàng đế Việt Nam dưới ách thống trị thực dân Pháp và phải tuân thủ các điều luật hiện hành của các quan lại đương nhiệm, cho dù quyền lực của quan lại ở những làng xa như quê tôi không thể hiện một cách mạnh mẽ như ở những khu dân cư lớn. Ở làng chúng tôi thì câu tục ngữ "Phép vua thua lệ làng" vẫn giữ nguyên hiệu lực.
"Những con khỉ da vàng"
Đầu thế kỷ hai mươi đất nước tôi được phân chia thành hai giai cấp. Một bao gồm các đại địa chủ bản địa, một thứ tầng lớp thượng lưu mới, những người di dân mới từ Pháp và các nhà truyền giáo Cơ đốc. Năm 1933 có một người An Nam đã được bổ nhiệm làm Giám mục Cơ đốc.
Những người bản địa giàu có và con trai của các quan lại được hội nhập một cách có chủ đích vào xã hội Pháp, trước hết là vùng đô thị, và được đào tạo trong các trường Pháp. Chữ viết lâu đời của chúng tôi, chữ Hán và chữ Nôm, được thay thế bởi chữ La tinh như là hệ thống chữ quốc ngữ mới. Qua đó có một đường ngăn cách rõ ràng xuất hiện giữa hai nền văn hóa. Trong thời thơ ấu của tôi hai phần ba đất đai nằm trong tay của giới thượng lưu này. Giai cấp còn lại bao gồm nông dân và tá điền nhỏ phải gánh chịu sưu cao thuế nặng. Bộ phận dân chúng này bị gọi một cách khinh miệt là "dân nhà quê" và sống ở các thôn xã. Họ không được học hành, ngay cả đọc và viết cũng không. Nhìn chung, những người Annamit khốn khổ này không có chút giá trị nào, người ta gọi họ là "khỉ da vàng". Vợ của những người nông dân thường bị cưỡng bức đi làm việc ở các đồn điền cao su hay tại các mỏ than khét tiếng ở Hòn Gai gần biên giới Trung Quốc và chỉ được trả đồng lương chết đói.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, hàng trăm nghìn người đàn ông "nhà quê" đã bị đưa sang Pháp tham gia các "tiểu đoàn lính thợ". Bố tôi là một trong số đó. Ông kể cho chúng tôi, trong khi ngắm bàn tay bị cụt hai ngón của mình và cười cợt về sự dốt nát của đám lính da trắng, rằng họ chỉ muốn sử dụng ông và những người khác ở các trận đánh vào ban ngày, vì cho rằng người Annamit trong bóng tối sẽ sợ cọp và "ma quỷ". Về sau thì họ mới rõ chính đêm tôi là sở trường của "khỉ da vàng".
Giá trị của một nụ cười
Lúc lên năm lần đầu tiên tôi đã có trái nghiệm với một ông quan có thực ngoài đời. Vào một ngày ông đến làng chúng tôi để kiểm tra hệ thống tưới nước ruộng và thu tiền thuế đến kỳ hạn. Từ trước đó sai dịch đã khua chiêng gõ mõ báo việc quan về làng.
Mẹ ở nhà với tôi. Bố thì vắng nhà đã hàng tuần lễ nay, lần này cùng với anh trai cả của tôi. Tôi đang chơi trước nhà thì thấy một nhóm đàn ông vừa đánh trống inh ỏi, vừa cố sức dương cao hai tán lọng bước tới. Sau họ là một người đàn ông ngự trên một kiệu gỗ chạm trổ do hai người phụ đi chân trần khiêng. Một tấm áo thụng dài bằng lụa xanh sẫm và gấm thêu che đôi chân đi hia của ông. Tôi phát hiện ngay trên sườn áo một con rồng thêu màu sắc rực rỡ, trên ngực là một ô vải vuông với rất nhiều hoa văn tinh xảo, ở chính giữa là hình một con chim. Người đàn ông đội một chiếc mũ hình nón đan bằng tre, từ trên đỉnh mũ bằng thủy tinh nhọn có một chùm lông ngựa rũ xuống và lắc lư theo từng nhịp bước của người khiêng kiệu, tôi thấy khá vui nhộn.
Tôi đứng im bặt và không biết điều gì gây ấn tượng với mình hơn: sự xuất hiện ồn ào, hào nhoáng của vị quan, và đoàn tùy tùng, hay hình dong của chính ông, bất động và cứng đơ như chiếc cổ áo của bộ trang phục dường như không cho phép chủ nhân của nó được phép có một động tác thừa nào.
Tôi nhìn thấy mọi dân làng đứng ở hai bên vệ đường đều cúi gập đầu chờ khi người đàn ông này đi qua. Mẹ tôi từ nhà đi ra, ngay lập tức cũng cúi đầu và có ý chờ tôi làm theo bà. Nhưng tôi không làm như vậy. Vị quan chĩa một ngón tay ra hiệu mà không nói lời nào, tôi nhận thấy chiếc nhẫn lớn đeo trên ngón tay và những móng tay dài ngoẵng và có hình vuốt của ông, ngay sau đó những người phụ khiêng kiệu ngừng bước lại.
Mẹ tôi, không nói lời nào, đầu vẫn còn cúi gập, chìa tay về phía đầu tôi và tìm cách đè nó xuống một cách vô vọng. Tôi không chịu và nhìn người đàn ông, ông ta cũng nhìn tôi trân trân. Vì cớ gì mà tôi lại phải cúi đầu? Tôi đâu có biết ông ta, ông ta cũng không phải là một vị bô lão, tôi thầm nghĩ như vậy. Không hề sợ hãi, tôi mỉm cười với ông. Ông ta nheo mắt, mỉm cười trở lại, rồi lại chĩa ngón tay lên cao. Những người phu tiếp tục khiêng kiệu ông đến tận giữa làng.
Khi nhìn sang mẹ, tôi thấy bà khóc.
"Đừng bao giờ làm như vậy nữa! Không bao giờ được phép nhìn vào mặt sứ giả của Hoàng đế, nếu không con sẽ bị chém đầu! Hôm nay là con gặp may đấy!". Bà hấp tấp đi vào nhà và lấy một tráp gỗ nhỏ, trong đó có chứa các phần tài sản để đóng thuế của chúng tôi: đồ trang sức, mấy viên đá quý, tiền kim loại và vàng lá ròng. Giữa làng, những người đàn khác đã xếp hàng đợi. Mẹ tôi nhập vào hàng người, và khi đến lượt mình, bà trao cho vị quan phần đóng góp cho Hoàng đế.
Lúc trở về, bà giải thích cho tôi một cách từ tốn, rằng Hoàng đế là Thiên tử và là đấng trị vì duy nhất của chúng tôi. Ông ấy chịu trách nhiệm về mọi số phận thần dân, chăm lo hạnh phúc và sự thịnh vượng của họ. "Con đã hiểu chưa?", bà hỏi tôi. Tôi gật đầu nhiều lần và tiếp tục được phép chơi.
Khi vị quan đi rồi, một số người dân làng chuyện trò với mẹ tôi.
"Thật là bất công! Nếu mà chúng ta làm việc cho họ thì họ trả cho chúng ta bằng tiền đồng. Nhưng mà thuế thì chúng ta luôn phải trả bằng vàng." Tất cả họ nhìn nhau buồn bã, tuyệt vọng cùng cực. Nhóm người dân giải tán, và mọi người lại trở về công việc của mình. Mẹ đổ nước nóng từ một ống bương và bắt đầu nhổ lông một con gà. Tôi đến trước mặt bà và nói một cách cương quyết: "Con chẳng thể nào hiểu nổi. Nếu Hoàng đế muốn điều tốt lành cho dân chúng thì tại sao ông lại lấy đi số vàng duy nhất mà chúng ta có?".
Mẹ ngẩng đầu, mỉm cười và trả lời: "Bởi lẽ như vậy", rồi bà lại vắt lông gà tiếp. Tôi quay người và bỏ đi mà không thể thỏa mãn với câu trả lời này, vì đối với tôi đó không phải là một câu trả lời.