← Quay lại trang sách

- 2 -

Bản năng thợ săn

Lúc năm tuổi, lần đầu tiên tôi đi cùng bố đến một con sông, nơi ông dùng những cây lao tẩm thuộc độc để xiên các con cá lớn. Chất độc được ông chiết từ một loài cây đặc biệt và cất giữ rất bí mật. Ông cũng chỉ cho tôi cách dùng thứ cây cỏ nào thì có thể gây mê được các loài cá bé để sau đó chỉ cần dùng lưới để vớt những chú cá đã ngủ say này lên khỏi mặt nước. Ở những cánh đồng lúa ngập nước có đầy rẫy tôm, cua và các loài cá nhỏ.

Tôi thật vui sướng mỗi lần được đi cùng ông, bởi qua đó tôi cảm thấy dường như bản năng thợ săn trong mình được đánh thức. Trước khi bước chân vào rừng rậm thâm u, xứ sở của các loài rắn hổ mang, bọ cạp và những con rết khổng lồ màu xám xịt, tôi được bố dạy cách đọc dấu chân thú ở các cánh rừng tếch xum xuê; đó là một trong những kỷ năng của người thợ săn giỏi.

Để di chuyển một cách lặng lẽ hết mức, trước hết chúng tôi nhón gót chân để bước đi thật mềm dẻo. Những vết chân thú tìm thấy cần phải được phân tích căn cứ vào độ lớn và đặc điểm của lốt chân. Tùy theo hình dạng của vết chân mà có thể phỏng đoán liệu con thú còn ở gần hay không. Tùy thuộc vào việc có mưa hay không và lốt chân thú sắc cạnh hay tròn, người ta có thể đoán lốt thú này đã có từ bao lâu. Chiều sâu của lốt chân thì lại cung cấp thông tin về trọng lượng của con thú.

Chỉ riêng số lượng ngón chân hay cách di chuyển của con thú đã cho biết nó thuộc loài nào. Loài chim nhảy nhót kiếm ăn trên cây và trong không trung có vết chân nằm cạnh nhau, khác với vết chân của những con chim chỉ biết đi và thức ăn thường là các loài côn trùng sống trên mặt đất.

Một dấu chân chữ U bao gồm lốt chân nhỏ phía trước và lốt chân lớn phía sau cho hay đây có thể là một chú thỏ. Nếu chúng tôi tìm thấy cỏ bị xéo trên mặt đất và các vết vằn vèo chữ chi thì điều ấy có nghĩa rằng có một thú móng guốc hay một con hươu hoang ở cách đó không xa, đặc biệt nếu phần thú ăn còn sót lại của chúng chưa khô hay ở phần cạnh đã biến thành màu nâu.

Gấu thì cùng lúc nhấc chân trước và sau cùng bên để lại những vết móng dài trên mặt đất, thường thì chúng cũng để lại cả những vết cào trên vỏ cây ở xung quanh. Các vết lệch song song theo chiều ngang trên cỏ cho thấy đó là dấu vết của một loài bò sát nhỏ, còn cỏ bị đè rạp một cách đều đặn cho thấy đó là vết của một loài bò sát lớn. Tôi luôn hứng thú với việc lần theo lối di chuyển của thú rừng và tìm ra loài nào từng gặm cỏ, ngủ hay săn bắt ở khu vực mà chúng tôi đang theo dấu. Hai bố con thường xuyên để ý đến hướng gió, phần để tránh bị lộ, phần là để không bỏ qua các chỉ dấu quan trọng trong hơi gió. Bởi vì mỗi loài thú không chỉ để lại các dấu vết như da hay xương mà chúng tôi có thể mang về nhà chạm khắc để làm đồ chơi, lông hay những nhánh cỏ gãy, mà còn có cả một thứ mùi vị đặc trưng. Nếu tìm thấy phân thú, bố tôi có thể dựa vào hình thù, độ lớn và màu sắc mà xác định đó là loài thú nào, nó đã ăn gì vào lúc nào và di chuyển về đâu.

Dấu vết khiến tôi sợ hãi nhất là một đường kéo dài gồm nhiều vết nối nhau, do đuôi một con thú quệt trên mặt đất để lại. Khả năng lớn nhất đây là một con hổ. Nếu gặp trường hợp như vậy thì tôi chỉ có thể thầm cầu Trời rằng bố đã hoàn toàn có lý khi ông cho rằng con hổ đã đi xa. Trong những lần đi rừng tôi luôn lưu ý sao cho chiếc nón che kín đầu và không có con rắn nào có thể mổ xuống từ trên cao. Rắn "hai bước" là một loài rắn khét tiếng, từ những nhánh cây trên cao nó thả mình rơi xuống các nạn nhân của mình. Sau nhát cắn của nó, nạn nhân chỉ còn có thể đi tiếp hai bước cho đến lúc từ giã cuộc đời.

Ngoài ra tôi không bao giờ được phép đi qua những khoảng rừng thưa có mọc cỏ voi, bởi vì chưa tính đến nguy cơ gặp thú dữ, loài cỏ sắc này có thể cắt đứt da tôi như lưỡi dao lam.

Khi đi theo bố trong rừng rậm, tôi phát hiện nhiều loài cây và thảo mộc mới, bố tìm cách giải thích cho tôi những gì mà ông biết về chức năng hay công dụng của chúng. Tôi thích đùa nghịch với đám cây mắc cỡ mọc ven đường mà người địa phương vẫn gọi là "cô gái thẹn thùng". Nếu có ai chạm vào chiếc lá xanh, nó sẽ giật mình và ngay lập tức cuộn tròn lại. Tôi luôn ngạc nhiên khi mỗi lần chứng kiến những bụi cây đã bị bố dùng lưỡi mác sắc như dao cạo phát trụi chỉ vài ngày sau đó lại mọc đầy trở lại. Thiên nhiên bao bọc quanh ta thật quyến rũ và khiến tôi cảm thấy mình vô cùng nhỏ bé.

Tôi bám sát bố tôi từng bước, đặc biệt nếu chúng tôi bị khỉ, trong đó có loài khỉ đầu chó, nhìn chòng chọc và ném thức ăn thừa vào người. Những câu chuyện lưu truyền trong làng hiện về trong tâm trí tôi. Không người đàn bà nào, đặc biệt là các cô gái trẻ, lại được phép liều mạng đi vào rừng rậm mà không có đàn ông đi cùng, vì theo lời đồn đại sẽ gặp mối nguy cơ bị những con khỉ đột khổng lồ bắt cóc và hãm hiếp rồi biến mất tăm hơi.

Vào dịp trăng rằm có lúc chúng tôi thức dậy từ đêm khuya để vào núi lấy củi cho bếp lửa của gia đình. Một số loài gỗ được chúng tôi đốt thành than củi trong một chiếc lò gang rồi đem đi bán. Một chuyến hành trình trong khí hậu nóng ẩm nhiều lúc kéo dài cả ngày trời. Trên đường vào núi, chúng tôi bỏ lại phía sau lưng cả hàng đàn kiến lửa đỏ, để rồi ngay sau đó lại vật lộn với cơ man bọn vắt hút máu kinh tởm, những con vật này đã đánh hơi chúng tôi từ tận xa và thả mình rơi xuống từ các ngọn lá lõng bõng nước, hay trườn lên từ đất bùn để cắm vòi hút vào bắp chân chúng tôi. Tôi khiếp sợ chúng, bởi có một cô em họ của tôi đã chết khi bị một con vắt chui vào hốc mũi. Những con vật hút đến no máu và chúng tôi không bao giờ được phép rứt chúng khỏi người, nếu không muốn bị các vết thương tấy mủ. Tuy nhiên may mắn thay chúng sẽ tự rụng khi chúng tôi xuống đến đồng bằng. Không bao giờ chúng tôi uống nước từ các dòng suối trên núi để tránh bệnh tật.

Một câu chuyện kể của bố mãi hằn sâu trong trí nhớ của tôi. Có lần ông làm người dẫn đường cho một nhóm đi săn hổ, ngoài ông ra còn có bảy tay súng nữa. Tất cả họ đều là những thợ săn lão luyện, trừ một luật sư người An Nam, ông này thích chơi golf hơn là đi săn và thường mua các chiến lợi phẩm làm từ thú rừng, để sau đó khoe khoang ở giới thượng lưu, làm như chính ông ta đã săn được chúng vậy.

Dọc đường đi người đàn ông có vóc dáng nhỏ nhắn và mảnh mai này lên cơn khát. Bi đông của ông ta đã cạn, cũng như những người khác. Theo lời kể của bố tôi thì phải đi bộ tiếp hai tiếng nữa thì mới đến trạm có sẵn nước uống tiếp theo. Thế nhưng ở gần đó có tiếng róc rách của một dòng suối nhỏ. Mặc dù bố tôi đã nghiêm khắc cảnh báo về mối nguy hiểm và yêu cầu vị luật sư không được đi một mình đến dòng suối, ông ta đã cười vào mũi bố và men theo một lối nhỏ để đi xuống. Ông ta biến mất hút ngay trong bụi rậm, nơi ánh sáng mặt trời hầu như không lọt tới. Nhóm người chờ cả mấy phút. Khi ông ta mãi vẫn không quay lại, tất cả đều bỏ đi tìm. Xuống tới khe suối một cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt họ. Một con trân khổng lồ, dài ít nhất phải mười hai mét, màu da lẫn một cách hoàn hảo vào sắc diệp lục của cây rừng, hắn đã bất ngờ tấn công người lên cơn khát, quấn chặt lấy ông ta trong chớp mắt, nghiền nát thân thể rồi nuốt chửng kẻ xấu số. Con trân tuôn mình không một tiếng động vào lớp cỏ cao và sắc khi nhóm người vừa đi tới. Từ chiếc mõm mở toác của nó còn thấy đôi bàn chân của nạn nhân chìa ra ngoài.

Điều quan trọng đối với chúng tôi là trước khi hoàng hôn đổ xuống đã phải kịp về đến bìa làng. Bố tôi thường kể rằng khi trời tối "Ông Ba mươi" sẽ đi kiếm ăn, với một đứa trẻ như tôi đây là một hình dung thật khiếp đảm. Người ta cố tình gọi hổ là "ông", vừa do sợ hãi, vừa do nể vì. Thỉnh thoảng, cùng những thợ săn khác, bố mang những con thú săn về làng, chân của chúng được buộc lủng lẳng trên những đòn tre dài. Những con thú này thường là một chiến lợi phẩm mang lại một khoảng tiền đáng kể, một số bộ phận trong cơ thể chúng được sử dụng để điều chế dược phẩm. Công thức điều chế và cách dùng là một bí mật được truyền lại từ hàng ngàn năm nay, từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Chẳng hạn bố tôi thường đốt bộ râu hổ trước khi ướp xác con thú. Râu hổ khi được xay mịn và trộn vào thức ăn có thể đâm thủng dạ dày người mà không để lại dấu vết, nó cũng được dùng cho phép bùa chú. Chỉ thịt hổ là không ăn được. Mẹ tôi và tôi thường hầm thịt hổ trong ba ngày liền mà nó vẫn dai ngoách và không thể nào xơi nổi.

Có một lần chuyến đi kéo dài hơn dự tính và bóng đêm nhanh chóng sụp xuống. Bố liên tục gõ vào tấm não bạt đeo bên đùi nhằm để xua đuổi thú dữ. Tôi vừa chạy vừa khóc, cố sao để về đến nhà thật nhanh, tôi sợ trước các con thú đói mồi và những cô hồn còn được gọi là "ma quỷ".

Ông bà của tôi thường kể về chúng. Đó là linh hồn của những người chết không tìm được sự bình yên ở thế giới bên kia, hoặc vì lúc sống họ đã làm điều ác, chẳng hạn làm thầy mo xấu, và do vậy khi chôn cất bị người đời ghẻ lạnh, không được ban phước lành và bị nguyền rủa. Hoặc là khi hấp hối họ vẫn còn than vãn về việc không thực hiện được mọi nghĩa vụ của mình trên cõi thế. Những lời cầu nguyện, việc tha thứ tội lỗi hay ban phước lành có thể giúp cứu vớt linh hồn của họ. Rốt cuộc thì tôi có thể thở phào nhẹ nhõm khi thấy những mái nhà đầu tiên trong làng hiện lên trước mắt.

Tôi tìm cách xóa những khoảnh khắc đầy hãi hùng nhanh hết mức. Nếu vài tuần sau đó bố mang về cho tôi những con vẹt tuyệt đẹp hay một chiếc sáo trúc do ông tự tay gọt thì tôi hầu như đã quên bẵng những ký ức này.

Thần linh nổi giận

Giữa năm 1935 bố tôi lại có đợt vắng nhà rất lâu. Chúng tôi không biết chính xác ông ở đâu. Bởi vì bà nội tôi đoán ông đang ở nhà người vợ lẽ nên bà lên đường đi đón bố tôi về nhà. Bà có quyền làm việc đó, mẹ tôi thì không.

Tuy nhiên lý do thực sự cho việc bà tôi phải cất công đi một quãng đường xa như vậy không phải là việc mẹ tôi từ hàng tháng nay có một vết thương hở miệng ở ngực trái. Cũng không phải vì ánh mắt mẹ đã từ lâu không còn ngời sáng nữa.

Đó là vì mùa mưa đang đến gần, mang theo ẩm ướt, sương mù và tai ương. Những người cao tuổi dự báo như vậy, sau khi quan sát những đàn chim táo tác bay ngược hướng và phát ra những tiếng kêu lạ.

Dòng suối có những đoạn chỉ sâu mấy xăng ti mét nay biến thành một dòng sông chảy xiết hung hãn. Lúc đó tôi năm tuổi và đang ngồi cạnh một người em họ bên bờ sông, ngắm một con trâu bị chết đuối, xác đã trương phềnh vừa dạt qua chỗ chúng tôi, thì bỗng nhiên cậu em trượt chân rơi tõm xuống nước rồi mất hút ngay trong dòng thác. Người lớn đang làm việc không xa nơi đó nghe được tiếng thét của tôi nhưng chẳng hề tìm cách vớt thân thể bé nhỏ lên khỏi dòng nước đỏ ngầu đang chảy xiết. Cả họ và tôi đều không biết bơi. Chúng tôi đứng như bị hóa đá trên bờ và bất lực chứng kiến cảnh cậu bé đáng thương bị chết đuối. Tấn thảm kịch này khiến tôi mãi mãi có một cảm giác kinh hoàng mỗi khi tiếp xúc với sông nước. Ít ngày sau bố tôi cùng bà quay trở về nhà với vẻ mặt cau có. Nước lũ đã rút.

Một thời gian ngắn sau đó tôi đổ bệnh. Tôi bị đau đầu, đêm thì sốt lên cơn ớn lạnh. Ông ngoại của tôi được gọi đến. Lưỡi tôi khô rang và cuống họng đau xé. Da tôi bắt đầu lên mụn. Ông tôi chỉ nói: "Đậu mùa". Điều này có nghĩa rằng đây là một đòn tấn công của ma quỷ và là một mối đe dọa cho cả dân làng!

Tôi được ông nhanh chóng mang tới một túp lều bằng đất sét nằm ở bìa làng. Túp lều này vừa dùng để làm nơi cho đàn bà sinh con ngoài phạm vi nhà ở, vừa để cách li người ốm, tránh bệnh truyền nhiễm lây lan. Tại đây tôi đã phải sống hàng tuần lễ trong một buồng tối, ngày đêm bị hành hạ bởi những cơn đau nhói do mụn nhọt gây ra.

Phải sau ba hôm hoàn toàn bị cách li, những chuyến thăm nuôi hàng ngày của bà ngoại mới giúp tôi giảm nhẹ được phần nào sự khổ sở. Chỉ những người già như bà mới được phép tiếp xúc với tôi. Hàng ngày bà dùng nước thấm ướt môi cho tôi, và vào những lúc như vậy bà không bỏ lỡ dịp kể cho tôi nghe những câu chuyện rùng rợn về ma quỷ. Đương nhiên cũng có ma lành, thậm chí cũng có những con ma xó chuyên giữ nhà. Tương truyền một ông chú của bà tôi sống ở Lào được một con ma xó đều đặn rỉ tai về việc liệu trong khi ông ấy đi vắng có ai đó vào vườn ăn trộm rau quả hay không. Vào buổi tối người ta có thể thấy các vật thể trắng chuyển động. Theo lời bà tôi kể đây chính là các đầu lâu đang bay lượn!

Tôi cảm thấy thật khổ sở vì bị mọi người bỏ rơi. Tuy nhiên nhờ những cuộc đến thăm của bà ngoại mà giờ đây thời gian trôi qua nhanh hơn. Mắt và tai tôi không còn bị mưng mủ nữa, nhưng rải rác đâu đó trên người vẫn còn những mụn nhọt ứ máu.

Sau bốn tuần một thầy cúng được mời đến để giao tiếp với thần linh. Hai con gà trống thiến của cô tôi được đem cúng dâng các vị thần bảo hộ và tổ tiên. Tôi nghĩ là cô đã rất giận tôi về việc này. Rốt cuộc thì có đã vỗ béo mấy chú gà này cho mình chứ đâu có phải cho tôi. Còn tôi thì lại cảm thấy thỏa mãn, bởi tôi vốn không ưa người đàn bà luôn có bộ mặt khó đăm đăm này mỗi khi nhìn thấy tôi, và không thể chịu nổi tiếng gà gáy quang quác đánh bật mình khỏi giấc mơ từ lúc còn mờ sớm.

Cuối cùng thì tình cảnh khốn khổ của tôi cũng trôi qua. Tuy nhiên trước khi được phép trở về ngôi nhà của bố mẹ trước đó đã được xông khói bằng các loại lá thiêng, người thầy cúng con gò trống bên tai tôi, đi quanh tôi mấy vòng, vừa đi vừa niệm các câu thân chú để đuổi tà ma ra khỏi hẳn người tôi.

Sau đó thì nghi lễ hoàn tất. Tôi đã khỏi bệnh và được phép lao vào vòng tay rộng mở của mẹ.

Một chuyến hành trình ra

thế giới lớn

Có một lần tôi đi theo bố ra thành phố Nam Định nằm ở phía Bắc. Ở đó ông rẽ qua thăm người em gái không có con cái, ngày hôm sau chúng tôi lại đi tiếp về Hải Phòng để trao đổi hàng hóa. Chuyến đi vất vả này khiến tôi rất hưng phấn. Chiếc xe kéo của chúng tôi rất trĩu hàng. Tôi ngồi ngất ngưỡng ở trên, bố thì đi cạnh con trâu. Ông đi dép cao su tự chế bằng lớp ô tô, quai đẹp làm bằng săm xe đạp quấn quanh mắt cá chân.

Ở Hải Phòng có đến muôn ngàn giọng nói làm náo nhiệt cả khu phố gần hải cảng. Tôi vô cùng bối rối. Chưa bao giờ tôi chứng kiến một cảnh tượng như vậy. Tiếng còi tàu hú to thúc giục trộn lẫn với giọng nói lanh lảnh của người bán hàng rong, những tiếng rao gay gắt của họ khiến tôi liên tưởng đến tiếng gà gáy của cô tôi ở quê. Người đi xe đạp, người lái xích lô, xe chở hàng của người buôn bán chuyển động tứ tung, đan xen liên tục mà không hề đụng nhau. Một vài chiếc ô tô bóp còi inh ỏi dành cho mình lối đi giữa đám đông.

Tôi dỏng tai tìm cách phân biệt các thổ ngữ và tiếng nói khác nhau mà mình không hiểu hết đang vang lên từ những đám người chen chúc và thử đoán họ đến từ vùng nào, một phần dựa vào trang phục. Nhưng hầu như tôi không đoán nổi nếu bố không nói cho biết. Khi chúng tôi đi qua một ngôi chùa Tàu đồ sộ, bố chỉ về hướng một nhóm phụ nữ Dao, một dân tộc thiểu số ở vùng cao nguyên phía Bắc. Ngay lập tức họ thu hút sự chú ý của tôi bởi hàng lông mày cạo và khăn turban đỏ rực. Họ ngồi bên vệ đường và tươi cười rao bán các hàng dệt nhiều màu sắc. Cũng có cả phụ nữ Hmong vượt qua những chặng đường dài từ núi cao xuống thành phố để bán đồ thổ cẩm quý giá với những họa tiết thêu đa dạng, được làm từ sợi bông và đay, cũng như đồ trang sức bằng bạc hay các hạt dẻ rừng. Họ mặc váy xếp ly nhiều màu sắc, có đeo vòng bạc dày chế biến tinh xảo. Một số người trong số họ, thay vào khăn quấn đầu sặc sỡ, quấn tóc thành hình tháp trên đỉnh đầu. Để có được mái tóc rất cầu kỳ này, trong hàng năm trời họ đã phải cẩn trọng tết các sợi tóc rơi, có khi cả tóc của những người họ hàng đã chết, vào tóc của mình. Những tháp tóc quả thật là đầy ấn tượng!

Chồng hay con trai của họ mặc quần đen rộng ống và áo choàng ngắn, họ rao bán đồ gỗ, tre và mây. Ngồi không cách xa họ mấy là những người phụ nữ mặc váy màu sẫm, phía sau lưng đính các đồng tiền bạc, mũ được trang điểm bằng những hòn bi bạc hay những quả cầu bằng sợi nhiều màu sắc, phần để làm đẹp, phần cũng để xua đuổi tà ma. Những người phụ nữ này rao bán đồ mây đan.

Các quý bà ăn vận sang trọng, làn da trắng trẻo, gương mặt giấu dưới ô che nắng màu trắng thêu ren, ngồi hững hờ trên xe xích lô và để cho một phụ nữ người Hoa đi chân đất, mồ hôi nhễ nhại, mặc áo quần rách rưới màu xanh kéo trên đường phố, kéo theo cả mùi nước hoa quý phái của họ. Những người lính châu Âu vội vã đi qua, nói cười ầm ĩ. Tôi nhận ra quân phục của họ thật chỉn chu, khác hẳn với bộ quân phục của bố tôi ở nhà. Tại đây lần đầu tiên tôi nhìn thấy một người đàn ông da đen đồ sộ với cặp mắt lồi. Người lính mặc quân phục này vừa mới mua đồ ăn từ một quầy ăn nhanh và bây giờ đang nhai. Lúc đi ngang qua ông ta, tôi thoáng rùng mình. Cặp mắt của ông khiến tôi nhớ đến mắt của những con yêu quái thường có ở các đền chùa.

Bố và tôi đã tới nơi. Ở khu chợ chính có bày bán rắn sống, sừng hươu, da cá sấu, sừng tê giác bản địa và nhiều thứ khác nữa. Da hổ và xương hổ, những con khỉ nghiến răng trèo trẹo và chim chóc kêu inh ỏi đặc biệt được ưa chuộng. Bố nắm thành thục hết mọi thứ và biết rõ phải đi đâu, gặp ai. Chưa hết một ngày chúng tôi đã bán và trao đổi hết sạch hàng hóa. Bố mua từ một người đàn ông Hmong một chiếc cung tên mới cho mình. Chúng tôi chất lên xe hàng hóa do các thầy lang từ các làng bên đặt, những loại thảo dược tương truyền có các tác dụng mầu nhiệm, bột sừng tê giác, vỏ quế cuộn tròn và rắn hổ mang chúa ngâm rượu. Bố cũng không quên mua quà cho mẹ: một thỏi dày màu xám có mùi thơm, được gọi là "Xà phòng Marseille". Mẹ mê mẩn thứ này.

Trên đường về chúng tôi lại nghỉ ở nhà cô tôi. Sau khi cắt một miếng to từ bánh "Xà phòng Marseille" để đổi một chai rượu Rum, cô tận dụng cơ hội cùng cha tôi đến một quán ăn khét lẹt mùi thuốc, để chơi bài ba quân ăn tiền ở đó. Tôi dội rửa cho con trâu và gần như suốt đêm một mình canh gác nó.

Có một cảm giác gì đó thật lạ lùng. Tôi rất vui mừng rốt cuộc lại được trở về nhà, nơi cuộc sống diễn ra một cách êm ả, tuy nhiên đồng thời cũng cảm thấy cuộc sống thành phố thu hút mình nhường nào. Trong một ngày, tôi đã chứng kiến một cõi hỗn mang náo nhiệt, những dòng chảy của người qua lại, màu sắc và mùi vị, sự pha trộn của các ngôn ngữ. Thành phố với những phương diện hoàn toàn khác nhau của nó đã đè bẹp tôi như một cơn sóng và cuốn tôi sang một thế giới khác. Và thế giới này đối với tôi dường như hấp dẫn, sinh động và bí ẩn hơn là rừng rậm.

Bé hạt tiêu

Lúc đã lên sáu tuổi vào một buổi sáng tôi được bố gọi đến. Ông ra lệnh cho tôi xòe lòng bàn tay phải rồi thả ba đồng xu vào. Tôi đứng đó, mắt mở tròn xoe mà không biết phải làm gì. Trước khi tôi kịp hỏi thì ông đã nói:

"Bây giờ đã tới lúc mày phải đi kiếm tiền rồi. Đây là ba đồng tiền xu. Con đi mua đường rồi mang về cho mẹ. Mẹ sẽ chỉ cho mày cách làm kẹo kéo từ đường mía. Xong rồi thì con đi ra thị xã Hà Tĩnh. Nhớ là phải bán lẻ từng cái! Con chọn chỗ đứng ở nơi nào đông xe, đông người, trước rạp chiếu bóng hay cạnh chỗ lính gác trước cổng doanh trại. Rồi mang tiền bán được về cho bố. Nếu làm tốt và bán được hết hàng thì bố sẽ thưởng cho mày một đồng."

Chao ôi, đó là cả một gia sản! Tôi coi tất cả những điều này là minh chứng của sự tin cậy, tim tôi tràn ngập cảm xúc tự hào. Tôi cầm chặt ba đồng tiền xu trong tay, lòng đầy sung sướng, chạy ngay đi mua đường ở cách đấy mấy nhà. Cuối cùng thì tôi cũng đã được giao một nhiệm vụ. Tôi thầm nhủ sẽ nhất định hoàn thành nó sao cho bố hài lòng.

Mẹ để tôi đo lượng đường và nước, trước khi chúng tôi đổ cả hai vào một nồi kim loại duy nhất mà gia đình tôi có để đun sôi. Mẹ chờ cho đến lúc chất lỏng màu vàng óng nguội đi một tí, sau đó chế biến khối đường dẻo với những động tác nhanh nhẹn. Vào ngày này tôi học cách làm sao để không bị bỏng và trước hết là tránh được cám dỗ của việc nếm kẹo. Không lâu sau thì món kẹo mạch nha đã xong, chúng được xếp ngay ngắn trong một chiếc rổ đan bằng tre.

"Hai viên kẹo giá một xu. Phải rao thật to và rõ ràng chữ "Bonbon" để người ta nghe được con! Mà cấm không được ăn một chiếc nào trong đó và đừng đánh rơi một đồng xu nào cả!". "Bonbon" là từ ngoại quốc đầu tiên mà tôi học được. Bố tôi biết nói một ít tiếng Pháp.

Đường vào thị xã chẳng có gì nguy hiểm. Nền tư pháp An Nam của chúng tôi rất hà khắc với những phiên tòa xử nhanh và các bản án nặng nề được thi hành ngay lập tức. Ai phạm tội sẽ bị chặt ngón tay, bàn tay hay thậm chí bị chém đầu. Tất cả người dân sống ở đây đều biết rõ điều này. Và như vậy ai cũng có thể thoải mái đi lại vào cả lúc ban ngày và ban đêm mà không phải đề phòng.

Tôi lên đường một mình với rổ kẹo đã đậy kín. Đến thị xã Hà Tĩnh tôi chọn cho mình chỗ đứng trước một rạp chiếu bóng. Hương vị kẹo mạch nha thơm lừng trong mũi tôi và miệng thì ứa đầy nước dãi. Tôi tưởng tượng vị chiếc kẹo mạch nha tan ra như thế nào trên lưỡi, nhưng không dám ăn dù chỉ một chiếc, vì sợ hãi hình phạt sẽ đến. Và như vậy tôi đành chỉ nuốt nước bọt và nguyền rủa thanh tre mảnh và dẻo đặt ở sau cửa ra vào được dùng làm roi đánh đòn ở nhà tôi.

Mỗi lần rao hàng tôi lại khuyến mại một nụ cười thật tươi, tôi bán cứ như chơi và chẳng mấy chốc tất cả số kẹo đã hết. Chiếc rổ mang theo nhẵn thín, còn túi quần của tôi bây giờ chứa những mười đồng tiền.

Tôi hớn hở chạy về nhà. Mẹ đang giũ lúa trên một tấm ván để tách hạt lúa khỏi nhành. Bà mỉm cười với tôi. Bố đến và cầm số tiền mà tôi đưa cho ông. Mẹ được bố đưa ngay hai đồng để đi mua một con gà. Bố đi vào nhà và lấy một ống bương hai đầu bịt da thú được dùng làm tráp đựng tiền của gia đình và bắt đầu ném các đồng tiền vào.

Tôi nín thở và nhẩm đếm theo. Năm, sáu, bảy... Trên tay ông còn lại một đồng tiền. Đồng tiền của tôi. Bây giờ đến lượt tôi được trả công, tôi nghĩ như vậy. Với một giọng nói ra mệnh lệnh không chấp nhận một sự trái ý nào, ông nói cụt lủn: "Đi mua cho tao một chai rượu!".

Không một lời khen, và cũng chẳng có một lời nào khác nữa phát ra từ môi ông. Tôi cầm đồng tiền và rời khỏi nhà, trước khi bố có thể nhìn thấy nước mắt của tôi trào ra. Tôi thoáng tưởng tượng mình sẽ dùng cây hèo tre mảnh và dẻo đặt đằng sau cánh cửa vụt vào bố để trừng phạt cho sự lừa dối của ông, tuy nhiên ý nghĩ này chẳng có sức an ủi lâu. Thật buồn là nhiều ngày tương tự như vậy sẽ còn đến với tôi.

Danh mục tội lỗi

Tôi học được rằng việc phân chia công việc quan trọng ra sao và một nghĩa vụ có ý nghĩa nào. Nếu bố vắng nhà lâu ngày, anh trai cả của tôi, người mà tôi không hề có một sự gắn bó nào, cầm chịch trong nhà với tư cách là ông chủ gia đình với vị trí kế tiếp.

Anh ta có quyền ra lệnh và trừng phạt. Chẳng bao giờ anh ta phải làm việc nặng như mẹ và tôi. Điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là việc anh ta có thể sai khiến mẹ. Dẫu sao chăng nữa vẫn còn là một đứa trẻ, vậy mà anh ta đã được coi như một người đàn ông. Những cái tát mà anh ta dành cho tôi một khi không vâng lời khiến tôi phải chấp nhận điều này. Mẹ chẳng hề ngăn cản anh ta làm việc đó. Chẳng bao lâu tôi đã hiểu rõ hệ thống tôn ti trật tự được qui định một cách chính xác vận hành như thế nào: người cao tuổi đứng trên người trẻ tuổi đã đành, nhưng đàn ông thì luôn đứng trên đàn bà, và gia đình thì quan trọng hơn cá nhân. Tôi là người đứng cuối bảng, có nghĩa chẳng là ai cả. Tôi không tồn tại nếu không có người khác. Tôi cố nén nỗi uất ức trước thứ tôn ti trật tự này vì sợ người lớn sẽ đọc được ý nghĩ của mình nhờ ông bà tổ tiên mách bảo.

Bố đã xây dựng cả một hệ thống hình phạt nhằm đảm bảo trật tự và quy định giải pháp cho mọi xung đột. Nó như thế này: cho mỗi một lỗi lầm và thái độ khinh thị, cho mỗi một hạt gạo bị đánh rơi xuống đất (ông vẽ một vạch trên một tờ giấy treo trên tường nhà cạnh chiếc hèo tre. (Mẹ thì chẳng bao giờ vẽ vạch.) Cảm giác bất an vì không biết bao giờ hình phạt sẽ được thực thi xem chúng còn tồi tệ hơn cả chính bản thân hình phạt.

Thường thì bố im lặng, ông không nói nhiều. Vào những ngày mà ông cảm thấy khó ở, hoặc một cách vô cớ, hoặc do rượu rum đã cạn, chỉ cần một cái nhìn hơi xấc đã đủ khiến ông cho cây hèo tre nhảy múa.

Những lúc như vậy, ông trói hai bàn tay tôi vào cột gỗ giữa nhà và buộc mái tóc dài của tôi vào chân chiếc giường tre. Sau đó ông lấy tờ giấy mà ông gọi là danh mục tội lỗi ra. Ông đọc tội đầu tiên mà tôi mắc phải và ngay lập tức vung hèo. Thật kỳ quặc là các anh em trai của tôi chẳng bao giờ bị trừng phạt như vậy.

Thường thì ông dừng lại sau mười hay mười một hèo. Tôi không được phép khóc, nước mắt rơi sẽ khiến tôi bị bồi thêm một hèo nữa. Mẹ chẳng hề nói gì. Bà không bao giờ phản đối các hành động của bố. Chỉ khi mẹ đắp thuốc lá lên các vết thương trên lưng tôi, tôi mới để cho nước mắt trào ra - không phải vì bản thân, mà vì nỗi đau xót mà tôi đọc được trong mắt bà.

Những lúc như vậy tôi nguyền rủa bố tôi, mái tóc dài của tôi và toàn bộ thế giới bất công.

Báu vật bằng vàng

Chỉ trong một năm, với sự hỗ trợ của tôi, lọ tiền tiết kiệm của gia đình đã nhiều lần được đong đầy, tuy nhiên cũng có nhiều lần bố mẹ tôi lại rút cạn nó. Có lần tôi nghe mẹ chuyện trò với bà hàng xóm và kể với bà ấy rằng bên cạnh việc mua quần áo lụa mới - mỗi năm một lần chúng tôi được sắm một bộ quần áo - bà đã mua cả một cân vàng ròng. Tôi không hiểu được điều này - tại sao chúng tôi lại phải sống tần tiện trong khi có cả một cân vàng, thậm chí còn hơn thế nữa? Tôi tận dụng cơ hội một lần bố vắng mặt vì lại nhận việc hướng dẫn một nhóm đàn ông vào rừng rậm và hỏi mẹ số vàng dùng để làm gì.

"Số vàng này để dành làm tiền học cho anh trai của con. Mỗi năm đi học của anh tốn một cân vàng", mẹ giải thích cho tôi như vậy.

"Trường học có nghĩa là gì hả mẹ?", tôi hỏi.

"Đó là nơi có những người rất thông thái dạy cho ta trở thành thông thái. Ở đây người ta học đọc và học viết."

"Thế còn con? Bao giờ thì con sẽ được đến trường?"

Mẹ tôi cười phá lên, tôi chưa bao giờ nghe mẹ cười như vậy, làm hở cả hàm răng đẹp nhuộm đen mà bình thường tôi ít khi được nhìn thấy.

"Con ấy ư? Sẽ chẳng bao giờ con được đến trường cả! Con trai mới đi học, con gái thì không. Là con gái thì lấy chồng rồi đẻ con. Vì vậy con chẳng cần phải đến trường để đảm đương nghĩa vụ này!"

"Thật bất công!", tôi giận dữ hét lên.

"Sự đời là như vậy. Có những điều ta chẳng thể nào thay đổi được. Nào, con lấy nhíp ra đây và nhổ tóc sâu cho mẹ đi!", bà nói một cách nhẹ nhàng và lắc đầu, tiếp tục cười.

Tôi lấy chiếc nhíp từ một trong hai chiếc ngăn kéo lớn của chiếc bàn duy nhất của gia đình. Không có nhiều của cải là một điều tốt, vì như vậy chẳng có gì để mất. Mẹ gỡ khăn quấn tóc, và cả một dòng suối tóc đen chảy xuống gần tới đất. Bà nằm xuống một tấm chiếu làm bằng lá cọ phía trước nhà, lúc đầu còn kiểm tra xem tôi nhổ có chính xác không, lúc sau bà ngủ thiếp đi một cách an tâm và thư thái trong lòng tôi.

Tôi thấy nhẹ lòng vì không còn phải làm việc gì trong ngày nữa. Cảm giác hạnh phúc khi ngắm gương mặt của mẹ giúp tôi quên đi trong chốc lát mọi điều cay đắng của cuộc đời mình: tâm trạng u ám của tôi, ý thức về một sự bất công ghê gớm, một sự trộn lẫn giữa cảm xúc giận dữ bị đè nén và sự bất lực.

Tò mò, một tội lỗi

Những giao tiếp duy nhất giữa tôi và anh trai cả, ngược lại với anh trai kế tôi, Hòe, cho đến nay là những cú tát mà anh ta dành cho tôi. Anh không đếm xỉa gì đến tôi trừ khi cần sai bảo tôi việc gì đó. Tuy nhiên anh luôn đòi hỏi tôi phải bày tỏ thái độ tôn kính, bởi vì anh là một đứa con trai có đặc quyền, một người đàn ông. Anh không bỏ qua một dịp nào để tôi nhận biết được điều này. Tôi từng nhiều lần thấy anh từ trường học quay trở về, chân đi đất, nhưng quần áo thì sạch sẽ, sách vở cầm trên tay, và ngày tôi càng ngạc nhiên hơn về chốn "thiêng liêng" này, nơi anh trai tôi dường như đang được đào luyện để thành một người thông thái. Tuy nhiên tôi chẳng hề thấy anh thông thái hơn được chút nào. Trong mắt tôi, anh vẫn ngạo mạn và khinh rẻ người khác hệt như trước đó. Dù sao thì bây giờ anh đã biết đọc và biết viết, và như vậy trong lòng tôi dần nhen nhóm một cảm xúc mới: giá như tôi cũng có được một chút thông thái, chỉ một chút thôi... Tôi không cảm thấy ghen tị, mà dường như chỉ là sự tò mò trước một điều hoàn toàn xa lạ đối với mình. Một buổi sáng dậy tôi không còn kiềm chế được nữa. Tôi đợi cho tới khi anh rời khỏi nhà đi đến trường, rồi sau đó lấy một trong những cuốn sách mà anh cất trong số đồ đạc của mình. Vô cùng hồi hộp và trốn dưới gầm bàn trong bếp, tôi bắt đầu lật các trang trong cuốn sách mà lúc đó có lẽ tôi đang cầm lộn ngược. Chắc chắn phải có một bí mật được ẩn giấu ở trong đó! Nó ở đâu? Những con chữ mà tôi nhìn thấy chẳng nói lên được điều gì. Tôi không giải mã được điều gì, tuy nhiên vẫn chắc chắn rằng câu trả lời ẩn giấu ở trong đó. Chìm đắm trong cuộc tìm kiếm, tôi không nhận ra có một đôi chân trần lấm bụi đang đứng như trời trồng bên cạnh tôi. Anh cả tôi quên một thứ gì đó và đã quay trở lại nhà.

Anh ta chẳng cho tôi cơ hội để có thể mở miệng. Anh lôi tôi xềnh xệch từ gầm bàn. Cầm chiếc hèo tre của bố trên tay, anh quật như điên dại vào người tôi, và khi tôi khụyu xuống dưới những cú đánh, anh dùng cả hai chân đá tôi, lúc đầu vào bụng, sau đó vào sườn, lưng và cuối cùng là vào mặt. Tôi không tìm cách bỏ chạy và giữ thế bất động, với hy vọng cơn khùng của anh sẽ chóng trôi qua. Nhưng anh ta không hề ngừng, rốt cuộc tôi bất tỉnh.

Như mọi lần, mẹ chẳng hề nói gì. Bà ân cần chăm sóc tôi suốt cả tuần lễ. Toàn bộ thân thể sưng vù khiến tôi đau đớn. Anh cả đánh tôi bầm dập khắp nơi, môi tôi rách toang. Trong khi nằm đó tôi hình dung những trận đòn của bố còn nhẹ nhàng hơn chừng nào.

Từ lúc ấy tôi căm thù người anh cả, một mối thù kéo dài suốt cả cuộc đời. Và trong lòng tôi bỗng nhiên trỗi dậy một ý nguyện không thể nào cưỡng nổi, ý nguyện bỏ nhà ra đi. Xuất phát từ sự căm thù đối với người mà sẽ không bao giờ tôi gọi tên.

Một con gà bằng vàngMấy tháng nữa trôi qua cho đến khi tôi có thể thực hiện được một thứ kế hoạch phản kháng. Tôi đã tám tuổi, và thay cho cảm giác yếu đuối hay sợ hãi, giờ đây tôi thấy mình tự tin và dũng mãnh.

Một khi đã đủ khả năng kinh doanh kẹo thì tại sao tôi lại không thể có năng lực học được các con chữ trong bảng chữ cái? Tôi biết là cách nhà vài con đường có mấy nhà giàu cho con trai đến trường, và tôi đã làm quen được vài ba đứa trong số đó khi chúng tôi cùng nhau trốn trong nghĩa địa và chơi trò giả giọng ma hù dọa người qua lại.

Để đánh đổi các trái cây chín ngọt mà tôi ăn cắp một cách thật kín đáo trong các vườn cây vào các buổi sáng sớm, bọn con trai sẵn sàng truyền lại cho tôi các bài giảng mà chúng đã học. Có lúc tôi "đánh rơi" vài viên kẹo xuống đất để sau đó được đổi lại bằng trí thức. Bọn con trai dùng một cây gậy nhỏ vẻ lên nền đất bụi bặm các con chữ trong bảng chữ cái. Chúng tôi có thể nhanh chóng xóa những con chữ này một khi có ai đó đến gần. Tôi miệt mài học và tìm cách nhập tâm bài đã học cho đến "tiết học" tiếp theo. Sau tám ngày tôi đã thuộc lòng bảng chữ cái. Tiếp theo đó bọn con trai chỉ cho tôi cách ghép các chữ cái thành từ ra sao. Tôi không bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Càng học tôi lại càng muốn biết nhiều hơn, và cứ sau mỗi tuần tôi lại càng cảm thấy vững tâm thêm. Lúc đầu tôi xấu hổ do phải đi ăn cắp để thỏa mãn trí tò mò và khao khát hiểu biết của mình, nhưng hồi ức về trận đòn man rợ của người anh cả đã khiến cho mọi băn khoăn trong tôi tan biến.

Tôi không dám nghĩ đến hình phạt chắc chắn là thảm khốc sẽ dành cho mình một khi bị phát hiện. Bất kể là trẻ con hay người lớn khi phạm tội ăn cắp sẽ bị chặt ngón tay, tôi biết như vậy. Tái phạm lần thứ nhất sẽ bị mất cả bàn tay, tái phạm lần thứ hai sẽ rơi đầu...

Cứ như vậy, ăn cắp quen tay, tôi đã phát hiện ra bao tài năng tiềm ẩn trong mình và ngày càng biết cách tận dụng chúng một cách hiệu quả hơn. Đỉnh cao cho "sự nghiệp" của tôi là việc ăn cắp một con gà mái của bà cô ở cạnh nhà. Trước đó tôi có hỏi cô liệu bà có thể cho tôi một con gà để thưởng công cho sự giúp đỡ của tôi trong công việc đồng áng không. Cô tống cổ tôi ra khỏi nhà và hét theo sau lưng: "Hãy tự mà đi kiếm sống và đừng có xin xỏ!".

Thế là một hôm, tôi tới một ruộng lúa gần nhà và nhặt nhanh một nắm thóc ở đó. Tôi chờ cho đến khi cô rời khỏi nhà đi chợ, rồi lẻn đến hàng rào gỗ ngăn cách giữa tôi và đàn gà của bà. Tôi đào một lỗ nhỏ, đủ rộng cho một con gà có thể dễ dàng chui đầu qua, rồi rắc thóc lên khoảng hai mươi xăng ti mét dọc hai bên hàng rào. Nhớ đến lời nói của bố khi đi săn, tôi nhẫn nại chờ đợi và hoàn toàn tin tưởng rằng đây không phải là một việc xấu, bởi vì con gà sẽ tự nguyện chạy đến chỗ tôi. Bố tôi nói rằng giống vật cũng biết suy nghĩ. Nếu mà con gà có khả năng suy nghĩ thì hẳn nó phải biết chính xác về điều mà nó làm. Vậy thì tôi đâu phải chịu trách nhiệm nếu nó ngu xuẩn và tham lam?

Con gà vừa thò đầu qua lỗ để mổ các hạt thóc còn lại ở bên phía tôi thì tôi chộp lấy nó, bẻ ngoặt cổ để cho nó chết thật nhanh và im ắng. Sau đó tôi bới rộng lỗ, kéo con gà sang phía mình, rồi ngay lập tức lấp chỗ hở lại.

Tôi không sở hữu một cân vàng, nhưng bây giờ lại có trong tay một con gà mái mà với tôi là giá trị chẳng kém. Sau đó tôi đã thực hiện phi vụ kinh doanh lớn nhất của đời mình: tôi đã đánh đổi con gà này lấy cả một năm học ở lũ trẻ.

Bói toán quàng xiên

Vào một ngày tôi đang chờ khách mua những chiếc kẹo cuối cùng thì thấy phía đường bên kia có nhiều người vây quanh một cụ già ngồi dưới một bóng cây trên một chiếc ghế gỗ ba chân. Cụ ăn mặc rách rưới như tổ đỉa. Đám trẻ ngày thường ngồi trên cây cao dõi xuống các thầy chùa đi ngang qua và hát những bài dung tục chế giễu họ bây giờ tụt xuống đất và kể với tôi rằng chỉ cần trả ba xu là ông cụ có thể dự báo được tương lai.

Những người hiếu kỳ đã xếp thành hàng, có những tiếng kêu xuýt xoa vọng đến tai tôi. Tôi tiến lại gần hơn và lắng nghe điều mà ông cụ đang tiết lộ cho những khách hàng muốn biết trước số phận của mình.

Đứng trước tôi là một người đàn bà trung niên, tôi thật ngạc nhiên khi thấy bà bắt một con thằn lằn từ trên thân cây rồi nhét đầu nó vào miệng và nuốt chửng cả con. "Nó sẽ chữa lành bệnh bướu cổ của cô", bà ta nói như vậy với tôi sau khi đã nuốt gọn con vật. Hẳn lúc đó tôi đã phải trố mắt nhìn bà. Bà ta chỉ cho tôi xem cục bướu trên cổ rồi quay mặt đi, chờ cho tới khi mình đến lượt.

Cả tôi cũng rất muốn được biết về tương lai của mình, nhưng mà tôi biết làm gì bây giờ? Tôi không thể chi số tiền vừa kiếm được. Cuối cùng thì mọi người đều bỏ đi, chỉ còn một mình tôi đứng trước cụ già.

"Này cô bé, cháu không muốn biết về tương lai của mình à?", cụ hỏi tôi một cách ân cần. "Chỉ tốn có ba xu thôi mà."

"Cháu không thể chi tiền của bố mẹ được ạ", tôi nói một cách xấu hổ và đưa tay sờ số tiền xu ở trong túi. Khi tôi định bỏ đi, cụ già nói: "Cháu lại đây, ông không lấy tiền của cháu đâu. Đưa tay đây cho ông xem".

Bị bất ngờ, tôi chìa bàn tay phải cho ông cụ. Ông xem xét rất cẩn thận, lần từng đầu ngón tay và đường vân tay. Sau đó ông nói một cách chậm rãi và trịnh trọng:

"Sẽ rất nhiều lần con thoát chết, nhiều lần trong đời con sẽ đứng sát cửa tử. Ta nhìn thấy những tai họa mà con sẽ vượt qua. Con sẽ đi rất xa và trước lần sinh nhật thứ ba mươi lăm sẽ có một ngôi nhà riêng, nhưng không phải ở đây, mà ở nước ngoài. Con sẽ đẻ nhiều con. Những năm về già con sẽ gặp nhiều may mắn."

Tôi lễ phép cám ơn ông và nghĩ ông già hẳn phải là một người hoàn toàn mất trí! Tôi sẽ rời đất nước của mình và sẽ có nhiều con? Không bao giờ! Và tôi lấy đâu ra tiền để xây nhà? Tôi cố quên đi thật nhanh những lời vô nghĩa lý này của người bói toán quàng xiên.

Sắc đẹp là trên hết

Cũng như phụ nữ dân tộc Thái Đen và H'Mông Trắng, phụ nữ dân tộc Lào cũng có tục nhuộm răng. Vào một buổi sáng, lúc tôi đã mười tuổi, mẹ gọi tôi đến. Bà giải thích cho tôi rằng đã đến lúc tôi cũng cần nhuộm răng để làm tôn vẻ đẹp của mình và để người đời biết rằng tôi là một cô gái trinh bạch. Tôi vui mừng mà không hay biết rằng thủ tục cứ ba năm phải làm lại một lần này sẽ gây cho tôi không ít phiền toái. Đầu tiên răng của tôi được nhuộm đỏ bằng một lớp bột nhão trát trên mo cau. Tôi phải há miệng, một chiếc đũa tre ngắn giúp tôi xiết chặt hàm lại để lưỡi không còn động đậy được nữa. Ở tư thế như vậy trong mười bốn ngày liền tôi được tiếp thức ăn là các vắt xôi nhỏ được để nguội với nhân đậu xanh.

Sau đó ông bà tôi được mời đến. Đầu tiên họ thì thầm nói mấy lời cầu nguyện, tiếp theo giã phèn đen thành tinh bột trong một chiếc cối đá nhỏ. Lọc qua một lần họ hòa tan bột trong nước, nhúng một tấm vải bông vào đó rồi áp lên răng tôi, trên một lá dừa có hình hàm răng của tôi.

Cho đến sáng hôm sau tôi vẫn ngậm cả hai thứ ở trong miệng. Hàm răng của tôi đau buốt, tôi phải cố lắm để nhịn khóc. Suốt thời gian mẹ tôi để ý sao để không có một người đàn bà nào đang để tang, hành kinh hay có thai nhìn thấy tôi, vì nếu không thì mọi chuyện sẽ xôi hỏng bỏng không.

Trong lúc đó ông bà của tôi đã đốt các vỏ dừa và giã vụn chúng thành bột. Trát lớp bột này lên răng sẽ tạo ra một độ bóng tuyệt vời, những năm tiếp theo tôi sẽ phải tiếp tục chăm sóc hàm răng bằng một thứ nước sinh tố màu đỏ từ lá trầu, vỏ cau được nhai nhuyễn với voi. Cuối cùng thì thủ tục này đã kết thúc, và tôi được giải thoát. Tôi có được những chiếc răng đen bóng. Tất cả đều hài lòng, và đây là điều quan trọng nhất.

Tết cuối cùng

Sau Thảo và Mây mẹ tôi còn sinh một em trai nữa, dưới sự trông chừng của bà ngoại trong túp lều vắng và nơi tôi từng chiến đấu chống lại cơn bệnh đậu mùa. Em tên là Lê, việc chăm sóc em là một trong những nhiệm vụ mới của tôi.

Đầu tháng hai 1940 tất cả gia đình tôi, cùng nhau đón Tết Nguyên Đán, một điều thật hiếm có. Đây là lễ đón mừng năm mới theo lịch Trung Quốc, diễn ra sau tuần trăng mới thứ hai sau tiết Đông chí, tức là giữa 21 tháng Giêng và 21 tháng Hai dương lịch. Năm đó là năm Canh Thìn, tức là năm cầm tinh con Rồng.

Ông bà tôi ngồi bên bàn cạnh bố tôi, ông đã trở về nhà. Bố chống đũa chờ mẹ tôi và tôi phục vụ ông cũng như ông bà.

Vào ngày này, khi mọi người có mặt đều đối xử với nhau lịch sự và mềm mỏng một cách chủ ý để tránh "dông" cho cả năm, mẹ tôi đã chuẩn bị những món ăn đặc biệt ngon, mặc dù bà đang bị ốm. Bên cạnh cơm, bắp ngô, khoai lang và món bún có sợi dài biểu tượng cho sự trường thọ, còn có nhiều món thịt và cá nâu với xốt gừng, nấm hương và rau mùi. Trên bàn ăn cũng không thiếu những chén nước mắm nhỏ, một loại nước chấm đặc trưng làm từ cá muối mặn. Món nộm đu đủ trộn hạt sen chả mấy chốc đã hết bay. Phần tôi thì ăn món bánh chưng ngọt - một biểu tượng cho hạnh phúc - đến mức đẫy bụng, khiến bà tôi phải khuyên sau đấy tôi phải nhảy dây để tiêu hết món ăn. Đỉnh cao của bữa tiệc đối với tôi không phải là món tiết vịt tươi luộc, hay món "trứng trăm năm tuổi" dầm muối trong hủ chôn một trăm ngay trong lòng đất. Không, đó là món nhộng đặc sản, giòn ngậy được nuôi trong bóng tối và sau đó sấy khô, bố tôi mang về như là một đền bù cho thời gian ông vắng nhà. Đây là món ăn tuyệt diệu nhất mà tôi từng được biết!

Vào ngày này tôi thật hạnh phúc. Không mảy may có tín hiệu nào cho tôi biết đây là cái Tết cuối cùng mà tôi được đón trong lòng gia đình.

Tương lai của tôi

- và tôi căm thù lũ lợn

như thế nào!

Lại một mùa mưa trôi qua! Như thường lệ, chúng tôi đón những trận mưa rào bất chợt, cả nhiều cơn mưa to nổi bong bóng ấm áp mà lũ trẻ trong làng khoái trá nô đùa và vẫy vùng trong đó. Khi trời nổi cơn giông thì chúng tôi chạy ù về nhà, vào những lúc như vậy tôi thấy người lớn thường chụm môi và thổi phù phù, như thể làm thế sẽ đấu dịu Thần Sấm với các lưỡi tầm sét của ông ta.

Nhờ thuốc lá của ông ngoại mà tôi đều đặn đắp lên ngực mẹ, sức khỏe của bà đã hồi phục. Vết thương há miệng bỗng dưng xuất hiện trước đó và hành hạ mẹ suốt một thời gian nay đã lành. Da bà gần như mịn màng trở lại. Ông ngoại chẩn đoán vết thương này là một thứ "ung thư nữ". Khác với "ung thư nam", vết thương này nông và có thiết diện rộng. Ông bắt mẹ ăn kiêng, bởi ông biết dùng loài thực phẩm nào thì có thể tác động đến diễn biến của ca bệnh. Tôi đã quen với việc chăm sóc mẹ và đem từ chợ về cho bà trái cây ngọt hay tôm tươi, mỗi lần như vậy mẹ đều thật vui lòng.

Một ngày tôi từ thị xã quay trở về, trước nhà chúng tôi không có một ai. Mẹ chắc chắn đang đi trên đường cùng với em, tôi nghĩ vậy. Tôi đặt làn đi chợ xuống gần cửa ra vào. Số tiền bán hàng nhanh chóng được cất vào ngăn kéo phía trên cùng của chiếc bàn lớn, cho đến lúc bố đếm chúng và bỏ vào ống tre tiết kiệm. Tôi đi vào phòng ngủ và ném chiếc nón của mình lên chiếc gối gỗ, từ bên ngoài lúc này có tiếng một con gà mái cục tác inh ỏi đánh thức sự chú ý của tôi. Khấp khởi mong sẽ có một bữa ăn tối thật khoái khẩu, tôi chạy vụt ra ngoài và đuổi theo con gà, dồn nó một cách thật nhẹ nhàng vào một góc vườn. Con gà kéo tôi theo khá xa đến tận mấy bụi tre và xương rồng, ở đó tôi chui vào giữa hai khóm cây và tìm cách tóm lấy nó. Nhưng không được. Tôi giật bắn khi bỗng nhiên nghe có tiếng đàn ông đi lại gần. Tôi nhận ra giọng một người, đó là bố tôi. Giọng thứ hai là một người đàn ông lạ. Bây giờ thì họ dừng chân và trò chuyện tiếp. Tôi vừa định đứng dậy để chào hỏi thì nghe thấy tên tôi được nhắc đến.

"Vậy là mọi việc đã ổn. Bao giờ cái Cúc trưởng thành thì ta sẽ tổ chức đám cưới. Tôi sẽ nhận thửa ruộng, còn con trai của ông sẽ mang đến cho chúng tôi hai con lợn", bố tôi nói. "Nhất trí! Đất ruộng chỗ đó rất màu mỡ, con trai tôi thì lại chăm chỉ. Nó sẽ thích lắm đấy. Con bé nhà ông quả là xinh!", người đàn ông kia nói.

Nỗi sợ hãi bị phát hiện trong lúc nghe trộm khiến tôi toát mồ hôi lạnh khắp sống lưng, lần đầu tiên tôi cầu khẩn tổ tiên xin để con gà mái đang cúi đầu im lặng cách tôi không xa đừng làm tôi bị lộ.

"Nào, ta phải uống mừng thôi. Mời ông đi theo tôi, tôi có rượu rum ở nhà." Bố tôi và người đàn ông lạ bỏ đi một lúc lâu rồi mà tôi vẫn còn nằm bệt trên mặt đất, hai bàn tay ôm lấy đầu. Bầu không khí ngột ngạt hơn mỗi khi giờ dường như đã trở nên quánh đặc. Tôi không thể tin được về những gì mình vừa nghe thấy. Ngay vừa mới đây bố tôi đã đánh đổi tôi, con gái đẻ của ông, lấy một thửa ruộng và hai con lợn! Và với một người lạ hoắc! Thì ra tương lai của tôi sẽ là như vậy... Con gà mái và tôi nhìn vào mặt nhau, và dường như con vật cũng đồng cảm với tôi, nó tiến lại gần hơn. "Đằng ấy không định bắt tớ nữa ư?", ánh mắt của nó dường như muốn hỏi tôi vậy. Bây giờ thì tôi có thể dễ dàng bẻ quặt cổ nó, nhưng tôi đã tha mạng cho nó.

Tôi đi thật chậm rãi về nhà. Các em gái của tôi tíu tít chạy về hướng tôi. Lê, em trai út của tôi, nằm khóc trong vòng tay mẹ. Không chỉ vì em bị ngã dúi vào bếp và bị nước canh nóng làm bỏng đít, mà vì anh cả của tôi còn đánh đòn nó thêm do tội làm đổ nồi canh xuống đất. Anh ta trừng phạt nó bằng cách dùng lưỡi mác chém vào gót chân của thằng bé. Mặc dù trong một khoảnh khắc nghĩ việc một đứa con trai cũng bị trừng phạt là một điều công bằng, tôi cho rằng hình phạt khốc liệt này là một hành động của một kẻ vũ phu độc ác và tàn bạo, có quyền hành hạ người khác và thưởng thức sự hành hạ này.

Cổ đầy ứ, tôi cố ăn một chút gì đấy. Tôi đợi cho tới lúc mẹ một mình rồi đi đến chỗ bà. Hẳn mẹ sẽ an ủi, giải thích mọi điều và giúp đỡ cho tôi.

"Hôm nay con nghe thấy là con sẽ bị gả cho một người đàn ông lạ. Tại sao lại như vậy hả mẹ?", tôi hỏi nhỏ.

"Nhưng phải hai, ba năm nữa cơ mà", mẹ tôi trả lời một cách ngạc nhiên, nhưng bình tĩnh. "Bố đã tìm cho con một mối tốt. Khi đã trưởng thành thì con sẽ phải thành lập gia đình, đó là chuyện thường tình."

"Chuyện thường tình ư?", tôi hét lên. "Con có quen biết gì người đàn ông này đâu. Con đâu có yêu anh ta! Con không muốn lấy anh ta! Bố mẹ đã dễ dàng đánh đổi con chỉ để lấy một mảnh ruộng và hai con lợn! Con không muốn như vậy!"

"Mẹ biết. Rồi con phải làm quen với điều này thôi. Cả mẹ cũng được gả cho bố, mặc dù lúc đó mẹ có biết bố là ai đâu. Và bây giờ con xem, tất cả đều đã ổn đấy chứ", mẹ nói. Tôi cố tìm trong ánh mắt mẹ một tia đồng cảm, nhưng chỉ thấy sự cam chịu.

Vào khoảng khắc mà mẹ nói điều này tôi có cảm tưởng như mình đã bị cưỡng đoạt ý chí và già đi nhiều tuổi, tuy nhiên trước khi tôi kịp trả lời mẹ thì bà đã bỏ tôi đứng đó một mình. Toàn bộ sự căm hờn bỗng nhiên dồn về bố tôi, người đàn ông xa lạ và tất cả loài lợn trên thế gian này!