← Quay lại trang sách

Vĩ Thanh

"Đây là câu chuyện kể về tôi, về một người đàn bà duy nhất. Nhưng ngoài kia còn có thể có hàng trăm, hàng nghìn người đàn bà phải chịu đau khổ như tôi, và đang chờ đợi ngày thế giới sẽ thức tỉnh." (Loan)

Vào tháng Giêng 1963, Loan, mẹ tôi, lúc ba mươi tư tuổi, đã chuyển về ngôi nhà riêng của bà ở vùng đồng quê, không cách xa Tours bao nhiêu. Và như vậy lời tiên tri của ông thầy bói đã trở thành sự thật.

Vào ngày 25 tháng Tư 1964, năm Giáp Thìn, tôi ra đời ở Tours. Tôi là đứa con cuối cùng của mẹ Loan.

.

Bà Loan và tác giả cạnh đàn gà vịt nhà nuôi để ăn (Pháp, 1966) .

Mẹ tôi đã dành nhiều năm trời để biến mảnh đất hoang lớn thuộc về ngôi nhà thành một khu vườn đẹp đẽ và tươi tốt.

Vào năm 1970, mẹ tôi mở cửa hàng "Quán ăn Việt Nam" ở đó, khách ăn của bà, có người đến từ tận Paris, phải kiên nhẫn xếp hàng trước cửa để có được một chỗ ngồi. Khách đến đây không chỉ vì muốn được ăn ngon. Họ cũng còn tò mò chờ đợi sự xuất hiện không thể trộn lẫn, được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng của bà chủ quán nhỏ bé, mỗi buổi tối lại diện một bộ áo dài thêu đẹp đẽ khác nhau.

Khi thức ăn đã bày biện xong thì bà chỉnh lại đồ nữ trang, điềm tĩnh châm một điếu thuốc lá, rồi mở cánh cửa vào phòng ăn với cử chỉ và giọng nói điệu bộ như trên sân khấu: "Bonsoir, Messieurs, Dames! (Xin chào quý ông, quý bà!)". Rõ ràng là bà tận hưởng ấn tượng mà mình gây ra cho người khác!

Theo dòng thời gian, mẹ tôi đã tìm lại được anh chị em của mình. Trừ hai người anh đầu, tất cả đều sống sót qua cuộc chiến. Năm 1990, cùng với tôi, lần đầu tiên sau ba mươi lăm năm xa cách, bà lại đặt chân lên mảnh đất Việt Nam.

Lúc chúng tôi gặp Lê, em trai út và Mây, em gái của mẹ, tại Đà Nẵng, tức Tourane trước đây, điều sau đây đã xảy ra:

Chúng tôi chờ tại một điểm hẹn ven bãi biển. Sau một lát thì có một người đàn ông và một người đàn bà lại gần chúng tôi. Cả hai đều cúi xuống trước mẹ tôi. Mặc dù là phụ nữ, nhưng bây giờ bà là thành viên cao tuổi nhất trong gia đình. Người đàn ông tự giới thiệu là em trai Lê, người đàn bà là em gái Thảo. Tôi nhận ra ngay lập tức, sau khi liếc nhìn người đàn ông, rằng ông đã nói sự thật. Ông giống mẹ tôi như hệt. Nhưng thay vào việc ôm lấy em trai, bà lại nói: "Ông hãy kể cho tôi nghe về thời bé, một kỷ niệm nào đấy".

Người đàn ông kể một vài câu chuyện, trong đó có chuyện một lần ông bị bỏng mông do đụng vào nồi canh đang sôi. Mẹ vẫn điềm tĩnh, gật đầu và hỏi tiếp: "Ông có thể làm ơn chỉ cho tôi vết sẹo của ngày ấy được không?".

Tôi không thể nào tin nổi vào tai mình! Chỉ sau khi người đàn ông kiên nhẫn tụt quần xuống, ngay trên bãi biển và trước mắt bao nhiêu người, và tự hào chỉ cho chúng tôi đôi mông sứt sẹo của ông, thì mẹ mới dang tay ôm ông, rồi hai chị em nức nở khóc. Năm mươi năm đã trôi qua cho đến giây phút này.

Ông Phan vẫn là người bạn và người anh trung thành của bà cho đến lúc ông qua đời vào năm 1987. Cho đến lúc đó ông hỗ trợ cho mẹ tôi trong nhiều hoàn cảnh khó khăn và đưa ra nhiều lời tiên đoán luôn trở thành sự thật, trong đó có cả về tôi. Lúc này tôi còn là một đứa bé đang lớn và chưa hiểu tại sao bản thân lại nhiều lần tiếp nhận những tín hiệu từ các lễ nghi thầy cúng của ông mà mình không thể luận giải chính xác, đơn giản là tôi chấp nhận chúng.

Mẹ Loan mãi về sau này mới chia sẻ cho tôi vốn tri thức của bà, sau khi bà đã quan sát tôi trong nhiều năm.

Mẹ tôi dần dần trả lại cho ông Phan số tiền mà ông cho bà vay. Khi ông mất, tôi đang sống ở Đức. Mặc dù tôi chỉ biết đến ông từ các câu chuyện kể và qua một bức ảnh, vào buổi tối ông chết tôi cảm nhận thật rõ ràng rằng linh hồn của ông đã chạm vào linh hồn của tôi ra sao. Tôi đánh thức người chồng tương lai của tôi và kể cho anh rằng vào lúc này ông "bác" Phan của tôi đang về với tổ tiên. Mấy chục năm sau, khi cuộc đời tôi đang vấp phải một khủng hoảng nặng nề thì ông Phan đã hiện lên cạnh mẹ tôi trong mơ. Cả hai đều rạng rỡ và mỉm cười đưa ra những lời dặn dò mang đến cho tôi sự khích lệ và niềm hy vọng, giúp tôi vượt qua được giai đoạn khó khăn này.

Tình bạn của mẹ Loan với bà Ngọc, người cho đến nay, năm 2015, vẫn sống ở Tours và trước sau tôi vẫn có một quan hệ gắn bó, kéo dài cho đến khi mẹ tôi qua đời.

Cuối tháng Hai, đầu tháng Ba năm 2003, Trời còn ban tặng cho mẹ tôi và tôi tám ngày tuyệt vời để từ giã nhau, trong những ngày đó có lần bà cười và nói với tôi, rằng có lẽ tôi làm được mọi thứ, ngoại trừ việc nấu cà phê!

Với trái tim trấn tĩnh, tôi quay lại Đức, trở về nhà. Chúng tôi đã nói cho nhau tất cả mọi điều cần phải nói.

Marcel, anh trai của tôi, người con cả của mẹ, đã đắp chân cho bà lần cuối cùng trong đêm ngày 6 tháng Ba năm 2003.

Vào ngày 7 tháng Ba năm 2003, lúc tám giờ sáng, người đàn bà Đậu Thị Cúc, người tự gọi mình là "Loan", đã trút hơi thở cuối cùng ở ngôi nhà riêng, như mong muốn của bà.

Theo di chúc của mẹ, thi hài của bà được hỏa táng.

Một phần tro của mẹ tôi đem rắc trong khu vườn của bà. Khi tôi làm gần xong, có một cơn lốc nhỏ ào đến, mang theo phần di cốt còn lại của bà từ bình tro đang mở nắp và cuốn nó lên không trung.

*

"Vì có nhiều miệng không muốn nói và nhiều tai không muốn nghe, tôi ghi lại lời của mình cho nhưng đôi mắt rộng mở, cho những trái tim xúc cảm sau khi chạm vào lời." (Loan)

Tôi biết ơn về việc mục tiêu nhất quán mà tôi theo đuổi hơn ba mươi năm nay rằng mình sẽ viết và xuất bản cuốn sách này giờ đây đã được thực hiện.

Vào thời gian về sau tôi đã hiểu rõ: trước hết tôi phải trưởng thành và phải nghiệm trải các đỉnh cao và vực sâu của cuộc đời để có thể truyền đạt lại các tình cảm một cách chân thực, như mẹ đã đòi hỏi với tôi và như bà có quyền được hưởng.

Tôi hy vọng rằng mình đã thành công trong việc thực hiện một cách xứng đáng lời hứa của mình với mẹ.

"Và như chính mẹ, con chim Phượng Hoàng tuyệt vời đã mang theo tổ tiên bên mình, nay con mang mẹ trong tim và biết có bàn tay mẹ đang độ trì cho con."

HẾT