← Quay lại trang sách

- 6 -

Lá thư

"Tôi từng chịu đau khổ, nhưng cho dù tôi phải trả một giá đắt cho sự phản kháng thì cuộc đời cũng xứng đáng để chiến đấu vì nó!" (Loan)

Bây giờ đã đến thời kỳ mà tôi có cảm giác sức lực dần rời bỏ mình. Những trò hành hạ dai dẳng, trong đó có phần của họ hàng của Marcel, mà tất cả chúng tôi đều âm thầm chịu đựng, làm cho tôi trở nên mệt mỏi. Hàng ngày tôi vẫn cố gắng, ở mức tốt nhất như có thể, để chăm sóc bốn đứa con của tôi, chồng tôi và chú chó. Chúng tôi thiếu thốn mọi bề nhưng luôn đủ no. Bọn trẻ ngoan ngoãn, và cho dù có lúc có đứa sinh chuyện thì chúng vẫn lớn lên trong một môi trường mà chúng tôi cố gìn giữ một cách bình thường như có thể. Dĩ nhiên tôi không tìm ra cách bứt khỏi được vòng đói nghèo cay cực. Những lời cầu khẩn của tôi hẳn cần phải có thời gian để trở thành hiện thực, nhưng giờ thì tôi đã trở nên quá bại hoại để có thể ngóng đợi một phép lạ. Bỗng nhiên tôi trở nên hoài nghi về bản thân, điều từ lâu không còn xảy ra. Trời vẫn cho tôi sức khỏe. Người đã trả lại cho tôi người bạn gái và đứa con trai. Mặc dù vậy có một cảm giác trống trải sâu xa tràn ngập trong lòng tôi. Tôi cảm thấy xấu hổ vì điều này, tôi đã quá vô ơn!

Nhiều tháng trôi qua, đeo đẳng bởi một cảm giác ngột ngạt mà tôi không sao có thể giũ bỏ. Bị cầm tù giữa một bên là những tiếng la hét không dứt trong khu phố của chúng tôi, một bên là cơn trầm cảm, tôi khóc rất nhiều, nhưng phần lớn chỉ là khi tôi một mình hay khi tất cả đã ngủ. Nếu ôn lại quá khứ thì tôi không tìm được một khoảnh khắc ân hận hay nuối tiếc nào khiến tôi phải bận lòng. Tôi đã trả hết các khoản nợ nần! Có một cái gì đó khác, một điều sâu sắc hơn, đã âm ỉ từ lâu trong tôi và giờ đây mới trỗi dậy. Tôi đang có một nỗi nhớ cháy bỏng. Nỗi nhớ về mẹ tôi.

Tôi lại thấy mình bỏ trốn khỏi nhà, lúc mới gần mười hai tuổi, với lời hứa thầm trong tim rằng một ngày sẽ báo cho mẹ biết mình đang bình an. Giữa chừng đã hai mươi năm trôi qua. Liệu bà có còn chờ đợi dấu hiệu này từ phía tôi? Cảm giác rằng mình có thể đã làm điều gì phải tội dày vò tôi suốt ngày đêm. Dần dần chồng tôi nhận ra càng ngày tôi càng im hơi lặng tiếng và gầy rộc đi. Khi anh hỏi nguồn cơn thì tôi đã nói với anh. Đấy là vào tháng năm 1961.

"Chúng ta sẽ làm như sau", anh nói một cách bột phát và cầm tay tôi. "Em hãy viết thư về Việt Nam."

"Viết thư ư? Sau một quãng thời gian dài như vậy? Quê em là vùng chiến sự, có thể làng em cũng chẳng còn nữa? Có thể chẳng còn sót lại một thứ gì và chẳng còn ai nữa!", tôi đáp lại, bị bất ngờ bởi đề nghị của anh. Nhưng anh không để cho sự hoài nghi của tôi làm nhụt chí, ngược lại là đằng khác. Anh nhanh chóng mang đến cho tôi hai phong bì thư, một phong bì cho lá thư của tôi, và phong bì kia cho thư trả lời, kèm theo giấy bút và tem thư. "Em viết đi!", anh ra lệnh.

Và như vậy tôi đã ngồi vào bàn và viết lá thư đầu tiên cho mẹ tôi, báo cho bà dấu hiệu đầu tiên rằng tôi vẫn sống sau bao nhiêu năm trời. Tôi viết cho mẹ rằng mình đang hạnh phúc, tôi đã gầy dựng được cuộc sống gia đình, tôi nói với mẹ rằng tôi rất nhớ và yêu bà!

Có bao nhiêu điều cần chia sẻ nữa! Tôi e ngại là có người sẽ mở phong bì thư, nhưng tôi tin vào lời cầu nguyện của ông Phan rằng lá thư của mình sẽ được niêm phong để ngăn chặn điều này.

Cho dù vậy tôi chỉ viết vắn tắc. Cuối cùng, tôi kẹp một tấm ảnh cưới nhỏ có đề ngày tháng của chúng tôi vào lá thư. Tôi dán bì thư lại và viết địa chỉ của nhà tôi từ dạo trước, như lúc tôi vẫn còn sống với mẹ.

Dưới bóng cây vườn nhà xưa

Từ khi gửi lá thư đi, tôi cầu nguyện hàng ngày. Cho dù lễ vật trên bàn thờ có nhỏ mọn nhưng mong ước nhận được thư trả lời trong tôi thì thật lớn.

Vào một ngày tháng Sáu có tiếng gõ cửa ở nhà tôi. Đấy là người đưa thư bảo rằng phải thu thêm lệ phí bưu điện cho một bức thư gửi từ nước ngoài. Tim tôi đập loạn trong lồng ngực! Tôi chạy nhanh đi lấy tiền.

Tôi không thể tin vào mắt mình: đấy là một lá thư từ Việt Nam! Lá thư ngắn gọn, do Mây, em gái út của tôi viết, tôi cũng vui mừng là em đã biết chữ. Em sống một mình cùng mẹ tôi.

Mây bày tỏ nỗi vui mừng khôn xiết vì biết tin tôi vẫn còn sống. Em viết tiếp rằng sau khi tôi bỏ nhà ra đi mẹ đã vượt cả nghìn cây số để đi tìm tôi. Mỗi lần nghe người ta nói rằng tôi đã chết, mẹ lại quay trở về nhà, nhưng bà luôn có linh tính tôi vẫn đang còn sống.

Tôi òa lên khóc. Bỗng nhiên tôi phát hiện giữa những giọt nước mắt một tấm ảnh bé xíu của mẹ nằm trong phong bì thư. Trên tấm ảnh đen trắng là một người phụ nữ ở độ tuổi chín muồi, mái tóc dài quấn tròn, với một nụ cười dịu hiền mà từ hai mươi năm dài đằng đẵng cho đến nay tôi chỉ còn nhìn thấy trong các giấc mơ.

Trong mấy ngày liền cảm xúc đặc biệt này đã chắp cánh cho tôi. Tất nhiên là chồng tôi mừng cho tôi, ngay cả lũ trẻ cũng nhảy nhót một cách phấn chấn, vì chúng cảm nhận được tôi đang hạnh phúc như thế nào.

Vào giữa tháng Bảy tôi nhận được một tín hiệu của tổ tiên. Tôi đặt tấm ảnh của mẹ tôi lên trên nắp chiếc tủ thấp cạnh bàn thờ. Khi đang làm bếp thì tôi thấy con chó của chúng tôi đang ngậm một cái gì đó trong mõm. Tôi đến chỗ nó và giật mình nhận ra các mẫu giấy rách trong mõm nó. Nó đã giật tấm ảnh từ trên nắp tủ xuống và đang nhai ngấu nghiến. Tôi hoảng hốt tóm lấy mõm con vật và lôi các mẫu giấy rách ra. Vào thời điểm này có một nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy tôi, bởi tôi biết là có điềm xấu. Một điềm xấu liên quan đến mẹ tôi.

Không một lời cầu nguyện, cho dù tha thiết đến đâu, không một thứ lễ vật hậu hĩnh nào có thể làm xoay chuyển số phận.

Đúng hai tuần sau lá thư đầu tiên của Mây thì tôi nhận được lá thư thứ hai của em:

"Chị gái yêu quý! Hôm nay em có tin rất buồn báo cho chị. Vào ngày 10 tháng Sáu mẹ của chúng ta nằm xuống dưới bóng cây vườn nhà để ngắm lại một lần nữa lá thư của chị. Khi em đến bên mẹ thì bà đã yên ngủ mãi mãi, nước mắt còn đọng trên mặt và tấm ảnh của chị ở trên tim. Bây giờ thì mẹ đã về với tổ tiên. Chị gái yêu quý, chị hãy cầu nguyện cho mẹ nhé, như mẹ đã từng suốt đời cầu nguyện cho chị! Em Mây."