← Quay lại trang sách

- 2 -

Nghĩ đến lòng tốt của gia đình người bạn đã cưu mang tôi suốt bốn tháng, không đòi hỏi nơi tôi bất cứ chi mà coi tôi như người nhà; chỉ hơn một tuần kỳ mới tới, tôi vô rẫy chuối làm công việc hầu trả tiền ăn ở, và từ đó làm việc riêng, chẳng hạn đi mua dây lang về bán kiếm ít tiền lời. Vào thời đó, làm thuê nơi rẫy chuối, tiền công chỉ đáng hai đồng một ngày; trong khi đi cắt dây lang về bán cho người nuôi heo, tôi kiếm được ít nhất 10 đồng một ngày. Bữa trưa thì xin chủ vườn mấy trái bắp luộc dồn đầy chiếc dạ dầy cho qua. Tối chỉ cần ba đồng, một đĩa nem hay tái nho nhỏ, một đồng, cút rượu, một đồng, và tô cháo lòng cũng một đồng nơi quán bà Tân, Phát Hải, tha hồ vương giả. Đôi khi tôi đưa ít tiền tạm gọi gửi chi phí ăn ở với gia đình nhưng không được nhận.

Dáng dấp và thái độ cũng như ánh mắt Lan, em gái của Ba, chợt thoáng gợi nơi lòng tôi mối duyên nào đó. Tôi cảm thấy giao động, nhưng thực tại cuộc sống cũng như mơ ước viễn vông mờ mờ ảo ảo khuyến khích tôi tạm quyết định lần lữa chờ phận số. Tất nhiên, gặp gỡ chỉ là duyên, nhưng nếu thực sự mang nợ kết hợp hôn nhân thì có “Tránh trời cũng không khỏi nắng.” Nếu đã là lương duyên thì trước hay sau, chuyện đến sẽ phải đến. Hãy từ từ cho thêm thời gian tìm hiểu lòng mình thực sự muốn gì và sẽ đi về đâu. Thế nên, tôi quyết định, thử cho mình thêm cơ hội liều mạng, do đó hỏi,

- Thế tôi phải đợi ông ở đâu, và vào giờ nào?

- Tôi sẽ đến đón tại nhà người bạn của chú em, cỡ 10 giờ sáng ba ngày nữa được không?

Và ngày thứ ba, trước lúc 10 giờ sáng tôi đã sẵn sàng khi ông lái chiếc Honda dame trờ tới trước hè, ngay cửa. Tôi dùng chiếc ly uống nước dằn tờ giấy, đã viết tối hôm qua, trên bàn với đôi dòng tạ từ,

Ngày… tháng… năm…

Thưa hai bác, bạn Ba, và em Lan.

Vì có việc bất chợt phải ra đi gấp, không thể trì hoãn, nên cháu dùng đôi dòng chữ vội vã này thay người giã từ hai bác, bạn Ba, và em Lan.

Bốn tháng trời ròng rã, gia đình hai bác đã rộng lòng cưu mang, chấp nhận cho cháu ăn nhờ, ở đậu, không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì. Cháu không biết dùng ngôn từ nào để bày tỏlòng chân thành ghi ơn hai bác, bạn Ba, và em Lan. Tiền nhân dân Việt để lại câu, “Một đêm nằm bằng ba năm ở.” Cháu chẳng những được hưởng hơn kém 120 đêm nằm, tương đương 360 năm ở, mà lại còn được ăn uống, được coi như thành viên trong gia đình.

Phải ra đi, dẫu lòng không muốn, nên mang nỗi đau như xé tâm can, nhưng biết sao hơn. Ơn này biết sao trả, cháu chỉ còn biết “Sống để dạ, chết mang theo.” Thực ra, chính lúc này và những tháng ngày tiếp theo cháu mới nghiệm được thực thể câu nói, “Đối với ân huệ lớn lao không thể trả nổi; thì cách trả ơn tuyệt vời và đúng đắn nhất chính là vô ơn; vô ơn để giữ chặt trong lòng.” Ơn huệ của hai bác và gia đình,cháu chỉ còn biết trân trọng ghi nhận trong tâm; nói ra không được; mà càng nói ra lại càng chẳng nói được chi, chẳng khác gì vô ơn.

Muốn viết thêm nữa, nhưng cũng không thể viết được gì, và thời gian quá gấp không cho phép cháu chần chừ. Thế nên, cháu chỉ biết,

Nguyện cầu ơn trên phù hộ hai bác, bạn Ba, và em Lan trong những ngày tháng tới.

Nguyễn Lâm Quán.

- Tất nhiên, lúc viết những hàng chữ này tối hôm trước, tôi đã phải phóng tay ngoáy cho có vẻ rất vội vã trong cảnh bất chợt, hàng chữ lệch lạc, xiêu vẹo. đoạn đeo chiếc ba lô chứa mấy bộ quần áo, chạy ra leo lên phía sau chiếc Honda dame đang nổ máy chờ sẵn. Cũng may, nhà không có ai; vì mọi người đã ra rẫy chuối, khiến tôi tránh được cảnh khó ăn khó nói lúc chia tay.

Khi chiếc Honda dame vừa êm ả lăn bánh trên quốc lộ 20 hướng về Ninh Phát; tôi chợt nhận ra mình đã không biết ông ta tên gì nên lên tiếng,

- Thưa ông tên gì, cháu vẫn chưa biết tên của ông. Riêng tên của cháu là Quán, ông đã thừa biết từ lâu.

- Tầm, tên tôi là Tầm. Cứ đi một đoạn đã, sau khi ăn trưa và đổ xăng, mình sẽ kiếm nơi nào mát ngồi nói chuyện trong khi cho xe nghỉ vì chuyến đi còn dài.

Tôi không nói năng chi nhưng lòng cứ băn khoăn muốn biết mình sẽ đi về đâu và cuộc sống sẽ ra sao. Nói cho đúng, gọi là băn khoăn, nhưng bao lâu nay đã quá quen với cảnh thường xuyên di chuyển, thay đổi chỗ ở với nỗi lòng thách đố cuộc đời, tôi không nôn nao chút nào bởi đã có ông Tầm bảo đảm cho những ngày sắp tới. Hơn nữa, ông đoan chắc chỉ cần tối đa sau sáu tháng cuộc sống của tôi sẽ được ổn định, khiến tôi tạm an lòng.

Chiếc Honda dame của ông hình như đã được xoáy lòng nên tiếng nổ khá nặng, có lẽ cũng do xăng pha dầu hôi nơi thời buổi này. Ông Tầm cho xe chạy hơi nhanh hơn các xe máy bình thường trên con lộ. Qua Ninh Phát, Bốt Đỏ, Dầu Giây, Trị An, Bầu Cá 1, Bầu Cá 2, Trà Cổ, và dừng lại giữa khoảng Hố Nai, nơi quán trái cây bên đường có dấu hiệu bán xăng bằng ba chai 750 ml, trên đó úp chiếc phễu, ngay đầu con đường nhỏ dẫn tới trại cưa phía sau dãy nhà nay đã ngừng hoạt động. Hình như ông quá quen với nơi này nên chạy xe thẳng vô trại cưa. Khi vừa tới, đã có người bán xăng đợi sẵn.

Trại cưa hoang vắng, trống rỗng; còn chăng chỉ là khung gỗ đội lớp mái tôn trình diện nét tàn phai theo dòng thời gian. Một vài bàn cưa mâm chỉ còn khung gỗ; lưỡi cưa, trục cưa, dây kéo đã được di chuyển tới nơi nao nào ai biết. Những đường rầy bằng sắt của máy cưa dây cũng đã không còn; chơ vơ những phiến cầu gỗ âm thầm chấp nhận bị lãng quên hầu có thời gian hồi tưởng thời hoạt động oanh liệt của nhà máy, mong đè bẹp ưu tư, e ngại, ngày nào đó bị phân thây thành củi nấu nướng. Trống vắng và trơ trụi gợi lên trong lòng tôi nỗi ngậm ngùi kéo theo liên tưởng đến thân phận những con người mang bộ mặt nặng nề chấp nhận cảnh khó khăn kiếm sống sau ngày đổi đời. Tôi nén tiếng thở dài. Dân tộc tôi, gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè quen biết, giờ này chẳng khác chi lớp thú mang dạng nhân sinh, ngày ngày lầm lũi lần mò miếng ăn hầu sống cho qua kiếp người, chịu đựng phận trời vô tình đổ xuống và gồng mình chấp nhận, “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Đâu đó lởn vởn nơi tâm trí câu, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Mình nào có hơn gì; thiên hạ còn có miếng đất cắm dùi; tôi bồng bềnh tha phương cầu thực, nặng lòng ấm ức chẳng dám hé môi giải tỏa nỗi bứt rứt, thao thức kiếm tìm cơ hội, ít nhất có thể giảm bớt chút nào niềm đau phận số của con người, của dân tộc tôi. Ôi vận trời, ôi phận người!

Còn đang luẩn quẩn với cảm ứng hiện trạng thực tại hoang vắng của nhà máy thì ông Tầm lên tiếng bảo tôi, sau khi đã đổ xăng xong, đoạn đẩy chiếc xe tiến về phía trước,

- Lại đàng kia, chúng ta ăn rồi đi tiếp.

Tôi lững thửng bước theo ông. Tới gần một bàn cưa mâm chỉ còn trơ mặt gỗ, ông dựng xe, bước tới bụi chuối cắt hai tàu lá trãi lên mặt bàn cưa, đoạn mở chiếc “Ba lô” được gắn khéo léo ngang hông phía sau xe như một phần của kiểu cách tiện ích thời đại. Ông lấy ra hai gói lá chuối chứa đựng bánh ướt, một gói lá chuối khác, trong đó bao gồm rau răm, mùi ta (ngò), rau diếp, và những miếng giò lụa. Hai chiếc đĩa sành kèm theo hai đôi đũa, một chai nước mắm được pha hành, tỏi, ớt, và hai chiếc bi đông, một chiếc bằng nhôm và một chiếc bằng mủ nhựa màu xanh. Tất cả được đặt trên bàn cưa mâm phủ hai tàu lá chuối; ông nói,

- Mình tạm ăn trưa xong rồi đi tiếp.

- Ông mua bánh cuốn ở đâu?

- Gọi tôi bằng bác; có lẽ tôi lớn hơn ba của anh đôi năm.

- Bác mới cỡ năm mươi mấy sao lớn tuổi hơn ba cháu được.

- Anh nói đúng, nhiều người cũng cho rằng tôi cỡ năm mươi mấy tuổi. Thật ra, tôi đã 67 tuổi.

- Bác nói đúng, ba cháu năm nay mới năm mươi tám tuổi. Sao bác có thể trông trẻ, khỏe mạnh như thế.

- Tại tôi tập võ Taekwondo và luyện nội công theo phương pháp Hatha Yoga.

- Ủa! Yoga là phương pháp tôi luyện thân xác của Ấn học mà.

- Nói cho đúng, mọi phương pháp luyện nội công đều tùy thuộc nguyên tắc ý dẫn khí; khídẫn huyết đến đả thông kinh mạch. Tuy nhiên, người ta thường chỉ cứ như con vẹt lặp đi lặp lại lý thuyết “Ý dẫn khí; khí dẫn huyết đả thông kinh mạch,” nhưng đã không biết áp dụng nó thế nào để phát triển nội công; chẳng khác gì những nhạc công đều biết l‎ý thuyết chuyển âm từ ngàn xưa là 1-4-5, nhưng không biết cách ứng dụng, không biết áp dụng luật 1-4-5 vào hành trình chuyển âm của một bản nhạc.

- Thế nghĩa là sao, thưa bác?

- Anh có biết gì về âm nhạc không?

- Cháu tự học Guitar Classic khoảng hơn kém một năm, nhưng thấy mình không có khả năng phát triển theo ý muốn nên bỏ.

Ông Tầm lấy chai nước mắm tỏi ớt rưới lên đĩa bánh cuốn đã được bỏ thêm mấy miếng giò lụa, rau thơm đoạn mỗi tay cầm một chiếc đũa đảo đĩa bánh cuốn trong khi tiếp tục,

- Thế anh có viết bản nhạc nào không?

- Cháu có viết vài bản nhạc và đôi khi buồn buồn dùng guitar nghêu ngao chứ không đặt vấn đề chuyển âm vì nghe và để ý những bản nhạc được ghi nơi CD, cứ thấy người ta đánh âm bass trùng với âm cung giọng hát nên cũng cứ theo như vậy.

- Thế anh có hiểu chuyển âm là gì không và luật chuyển âm 1-4-5 là thế nào không.

- Đọc sách dạy về âm nhạc, cháu cũng chỉ đọc được như thế, nhưng không có phần nào chỉ về sự áp dụng của luật chuyển âm vào âm nhạc nên không để tâm đến chuyện chuyển âm. Tuy nhiên, nếu cháu không lầm, thì nhạc sĩ là người viết ra bản nhạc; ca sĩ là người hát bản nhạc; còn phần hòa âm thì đã có ban nhạc. Nơi trường hợp trình diễn nhạc sống, ban nhạc lại cần người phối âm. Đã một đôi lần xem được bản phối âm của ban nhạc thì thấy cứ nốt nào nơi bản nhạc thì hòa âm được viết với hợp âm của cung ấy. Chẳng hạn, nốt La thì hợp âm được viết là La trưởng hay thứ, Đô thì cũng được viết là Đô trưởng hay Đô thứ. Nhiều khi cầm cây guitar, luật chuyển âm 1-4-5 cũng được gợi về nơi tâm trí, nhưng thấy mấy người trẻ học dương cầm cũng chỉ được dạy, đụng nốt nào dùng hòa âm của nốt đó tùy thuộc bản nhạc nên không biết nghĩ gì thêm, đành cứ lờ đi trong nỗi thắc mắc mờ mờ ảo ảo không để tâm kiếm tìm câu giải đáp.

- Nếu cứ gặp cung hay nốt nào thì dùng hòa âm của cung ấy thì đâu cần luật chuyển âm 1-4-5. Thí dụ nơi nốt La của bản nhạc, theo nhận định của anh, làm sao để biết phải dùng hòa âm La trưởng, hay La thứ, hoặc La dim? Chẳng những thế, lại còn có La4, La7, La9, La13 v.v… nữa.

- Sao bác biết lắm thứ thế. Cháu có bao giờ thấy ai phối âm những thứ ấy cho ban nhạc chơi bao giờ đâu. Vô tình, một hôm ghé qua nhà một anh đang phối âm một bản nhạc cho ban nhạc chơi nhạc sống, cháu thấy anh ta phối âm khổ sở lắm. Nào phải căn cứ trên bảng tìm hòa âm, nào gạch gạch, xóa xóa để thay đổi hòa âm nọ, hợp âm kia.

- Thế anh có biết hợp âm hay hòa âm chính của bản nhạc là gì không?

- Nơi trung học đệ nhất cấp, cháu được dạy rằng phải nhìn vào nốt cuối của bản nhạc. Nốt cuối cùng của bản nhạc là nốt nào thì hợp âm của nốt đó là hòa âm chính của bản nhạc.

- Vậy anh có biết thế nào là hợp âm trưởng, thế nào là hợp âm thứ, thế nào là hợp âm dim không? Rồi thêm nữa, hợp âm 7, hợp âm 9, 11, 13. Tôi nói thẳng và thật, không có bất cứ ý đồ khen thưởng hay chê bai gì. Duy nhất chỉ với một mục đích nhưng tôi sẽ không nói lên cho đến khi nào anh tự nhận ra. Anh đã biết về guitar; anh thử tưởng tượng đang cầm cây đờn, tay trái bấm hợp âm và tay phải gẩy dây đàn. Nói cho tôi biết, đối với hợp âm Đô trưởng, anh bấm ra sao? Anh cứ đơn giản trả lời, có sao nói vậy, không cần giải thích.

- Thì cháu bấm nốt Đô, nốt Mi, và nốt Đồ.

- Vậy trên sáu dây của cây đàn sẽ bao gồm những nốt nào?

- Nốt Mì, nốt Đô, nốt Mi, nốt Sol, nốt Đố, và nốt Mí. Tựu trung, gồm ba nốt Đồ, Mi, Sol, nơi những cung bậc khác nhau.

- Anh thử tưởng tượng bấm hợp âm Fa trưởng.

- Hợp âm Fa trưởng bao gồm các cung bậc Fa, La, Đô.

- Thế hợp âm Đô thứ?

- Hợp âm Đô thứ bao gồm các cung bậc Đô, Mi giảm, Sol.

- Và hợp âm Fa thứ?

- Hợp âm Fa thứ bao gồm các cung bậc Fa, La giảm, Đô.

- Anh có thấy gì khác biệt giữa hợp âm trưởng và hợp âm thứ của hợp âm Đô không?

- Trưởng thì Đô, Mi, Sol; thứ thì Đô, Mi giảm, Sol.

- Thế còn sự khác biệt giữa trưởng và thứ của hợp âm Fa?

- Fa trưởng thì Fa, La, Đô; Fa thứ thì Fa, La giảm, Đô.

- Qua sự phân tích trưởng và thứ của hai hợp âm Đô và Fa, anh có nhận thấy sự gì khác biệt giữa hợp âm trưởng và thứ không?

- Đô trưởng, Đô, Mi, Sol; Đô thứ, Đô, Mi giảm, Sol; chẳng lẽ…

- Chẳng lẽ sao?

- Hình như hòa âm trưởng và thứ chỉ khác nhau nửa cung ở nốt thứ nhì?

- Nghĩa là thế nào?

- Từ nốt Đô đến nốt Mi là hai cung và từ nốt Mi đến nốt Sol là một cung rưỡi. Từ nốt Đô đến nốt Mi giảm là một cung rưỡi, và từ nốt Mi giảm đến nốt Sol là hai cung. Ủa, cháu chưa bao giờ để ý đến sự khác biệt này.

- Thế nếu anh so sánh giữa trưởng và thứ của hai hợp âm Đô và Fa, anh có thể đưa ra công thức cho hợp âm trưởng và thứ được không?

- Khoan, khoan, bác đợi cháu suy nghĩ ít phút. Đô – Mi = 2; Mi – Sol = 1.1/2; Fa – La = 2; La – Đô = 1.1/2. Công thức của hợp âm trưởng là 2, 1.1/2. Khoan, khoan, Đô – Mi giảm = 1.1/2; Mi giảm – Sol = 2; như vậy công thức của hợp âm thứ là 1.1/2 – 2. Sao…

- Sao thế nào?

- Chuyện chỉ đơn giản có thế mà sao bao lâu nay cháu không để ý?

- Có biết nguyên nhân không? Ông Tầm hỏi ngắn gọn.

Tôi chầm chậm gắp miếng bánh cuốn kẹp thêm rau từ từ đưa lên miệng trong khi tâm trí bận suy nghĩ tìm nguyên nhân. Mà tại sao ông Tầm lại nhắc đến nguyên nhân! Xưa nay, chuyện gì cũng thế, tôi chỉ thường học theo dẫu lòng ruột khó chấp nhận những lý thuyết, quan điểm đối nghịch hoặc khác với nhận thức của mình, trong khi không đặt vấn đề kiếm tìm nguyên nhân, hay phương pháp của những sự việc thực nghiệm, thực hành.

- Thiếu suy nghĩ, thiếu nhận định, thiếu đặt vấn đề.

- Thế có bao giờ anh để ý đến sự liên hệ của hợp âm chính của bản nhạc với bản nhạc không?

- Nghĩa là sao, thưa bác?

- Nghĩa là không cần phải nhìn nốt cuối vẫn có thể biết bản nhạc đó sẽ được dùng những hợp âm nào không? Tôi chỉ muốn nói tới hợp âm, chưa nói tới chuyển âm.

- Bản nhạc chưa có nốt thì sao có thể viết hợp âm, phương chi chuyển âm.

- Thử tưởng tượng và nói lên anh biết một đôi bản nhạc nào?

- Ồ, Ngậm Ngùi, Lời Tri Ân, Phận Người.

- Bản Ngậm Ngùi có hợp âm chính là gì?

- Đô trưởng.

- Nếu không nhìn nốt cuối, chỉ nhìn đầu hàng thứ nhất, anh sẽ thấy gì?

- Không thăng, không giảm. Nhưng cũng có những bản nhạc không thăng, không giảm, mà hợp âm chính lại là La thứ.

- Sẽ có câu giải đáp tại sao. Bây giờ chỉ xét hợp âm trưởng của bản nhạc đã. Vậy hợp âm chính của bản Lời Tri Ân là gì?

- Là Sol trưởng.

- Khóa nốt cho bản nhạc là gì?

- Khóa nốt, bác nói sao?

- Khóa nốt chỉ về những dấu thăng, giáng hay giảm, ngay đầu của bản nhạc. Những dấu thăng được xếp theo thứ tự, Fa, Đô, Sol, Rê, La, Mi, Si; Những dấu giáng thì theo thứ tự ngược lại, Si, Mi, La, Rê, Sol, Đô, Fa.

- Như vậy, khóa nốt của bản nhạc Lời Tri Ân là gì?

- Thưa một dấu thăng ở hàng Fa, trên cùng của khuông nhạc.

- Câu trả lời có tiến bộ.

- Sao bác nói có tiến bộ?

- Bởi anh đã để ý nhận xét đầy đủ vị trí của dấu thăng, dù cho người không biết gì về nhạc cũng có thể định vị nó được. Anh để ý thêm chút nữa, vị trí của một dấu thăng nơi bản nhạc là Fa thì hợp âm trưởng của bản nhạc là Sol trưởng. Nếu bản nhạc có hai dấu thăng, dấu thăng thứ hai sẽ đứng vào vị trí Đô, và hợp âm trưởng của bản nhạc sẽ là Rê trưởng. Nếu bản nhạc mang ba dấu thăng, vị trí thứ ba của dấu thăng sẽ là Sol; bản nhạc sẽ có hợp âm trưởng là La trưởng. Nhận định như thế, nơi một bản nhạc mang những khóa nốt thăng, sẽ có hợp âm trưởng mang tên tiếp theo tên của vị trí nốt thăng cuối. Thí dụ, nơi bản nhạc có bốn dấu thăng, vị trí các dấu thăng sẽ là, Fa, Đô, Sol, Rê, và lẽ đương nhiên, hợp âm trưởng của bản nhạc sẽ là Mi trưởng. Và nếu bản nhạc mang năm dấu thăng, thử đếm coi xem sao, Fa, Đô, Sol, Rê, La; hợp âm trưởng của bản nhạc sẽ là Si trưởng. Anh có thể tính được hợp âm Si trưởng bao gồm những cung bậc nào không?

- Si, Rê, Fa.

- Tại sao lại Si, Rê, Fa?

- Xin lỗi, cháu nói theo quen miệng nên quên tính toán. Hợp âm Si trưởng bao gồm ba nốt, Si, Rê thăng, và Fa.

- Tại sao lại Si, Rê thăng, và Fa.

- Xin lỗi, cháu nói sai, nó là Si, Rê thăng, và Fa thăng.

- Đã biết mục đích tôi nói chuyện về âm nhạc với anh chưa?

- Bác muốn nhắc nhở cháu đặt vấn đề và suy nghĩ, tính toán cho kỹ càng hơn.

- Đúng, tôi muốn khuyến khích anh từ nay để tâm đặt vấn đề về bất cứ chuyện gì dẫu đã quá thường nơi cuộc đời.

- Thưa bác, những chuyện quá thường sao lại còn phải đặt lại vấn đề?

- Vậy tôi thử hỏi, mắt anh có đang nhìn thấy tôi; tai anh có đang nghe tôi nói?

- Thưa bác, chẳng lẽ cháu đang trong cơn mơ?

- Thế anh có biết con mắt nào nơi anh nhìn trong giấc mơ không?

- Bác nhắc tới con mắt nhìn trong giấc mơ cháu mới nhớ. Số là ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cháu có đi theo một nhóm người lập cư ở Tân Hữu, trên đường đi Võ Đắc, Võ Xu. Một hôm, cháu cùng hai người khác tạo thành một nhóm chặt những bộ cây để bán cho người ta làm nhà nơi những vùng kinh tế mới khác. Khi vừa qua khỏi một khúc quanh của đường xe be ngày trước, cháu chợt giật mình, tự hỏi mình đã đến đây tự bao giờ. Để tâm lục lại ký ức, cháu mới nhận ra sự kiện trước mặt cháu đã nhìn thấy nó trong một giấc mơ ba năm về trước. Tuy nhiên, vì đã không để tâm đặt vấn đề, cho tới lúc này, cháu cũng chưa có câu trả lời, có chăng, đôi khi tâm trí lãng đãng chợt nhớ lại, và rồi cũng chỉ thoáng qua, không gì hơn kém.

- Nói như vậy, chứng tỏ anh đã nhận biết mình có con mắt nhìn trong giấc mơ nhưng đã bao ngày tháng không để tâm tìm hiểu. Sự thể này được gọi là thực chứng, và sự việc suy tư, suy nghĩ về sự thực chứng này được gọi là nghiệm xét để nhận thức thực thể sự vật và sự việc. Đại khái, cho dù dùng ngôn từ nghiệm xét hay suy tư, tìm hiểu, thì cũng chỉ là suy nghĩ cho đến tận cùng của sự thể hay sự việc nào đó dẫu nhận thấy bình thường hay nơi trường hợp đặc biệt nào đó. Kết quả của sự suy nghĩ, suy tư chính là sự thấu hiểu thâm trầm, hay còn được gọi là nhận thức; mà sự nhận thức này chỉ đúng và hợp với chính mình mà thôi, không thể chia sẻ hay giãi bày với bất cứ ai hầu mong họ cảm nghiệm được như mình. Thế anh có biết con mắt nhìn trong giấc mơ phát xuất từ đâu trong anh không?

- Cháu đâu thấy sách vở nào viết về nó.

- Nó ở nơi anh sao ai biết mà viết về nó; nếu anh đã không viết nó ra! Bởi đó, chỉ có anh mới biết về nó sao lại chờ người khác viết. Và giả sử có người nào viết về con mắt nhìn trong giấc mơ thì họ chỉ có thể viết về con mắt nhìn trong giấc mơ của họ, chứ sao có thể viết về con mắt nơi anh! Họ viết về con mắt nơi họ sao anh có thể nhận biết về con mắt nơi anh. Như thế, tất cả những gì nơi sách vở chỉ là phương tiện gợi cảm ứng hay khuyến khích hoặc kích thích anh tự nhận biết nơi chính mình chứ không thể nói chi về mình. Họ làm sao biết mình mà nói, mà viết. Anh chưa đọc được tác giả nào viết về con mắt nhìn trong giấc mơ vì chưa gặp được tác giả đã nghiệm chứng được như anh. Thực ra, cũng đã có nhiều tác giả viết về chuyện này nơi các sách đạo học; mà có lẽ anh chưa có cơ hội đọc được chăng.

- Dĩ nhiên, cuộc đời này còn rất nhiều điều cháu chưa biết.

- Điều căn bản là mình đã biết còn rất nhiều điều chưa biết nên khi đối diện với cuộc đời cần phải suy nghĩ, cần phải nghiệm xét; bởi nếu không suy nghĩ, không nghiệm xét thì suốt đời ngu muội, được nhà Phật gọi là vô minh. Hơn nữa, có câu nói, “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra.” Ngôn từ tội lỗi ở đây có nghĩa những thiệt hại, lầm lẫn, bởi sự thiếu suy xét, thiếu suy nghĩ chín chắn, thiếu nghiệm xét mà ra. Tuy nhiên, cuộc đời một người ngắn ngủi trong khi, ai cũng thế; khát vọng nhận biết có thể nói là vô cùng; thế nên, cho dù cố gắng đến mấy, hoặc cho dù một người được sinh ra trong cảnh bọc điều, tiêu pha cả đời để đọc sách cũng không thể nào thỏa mãn được khát vọng nhận biết mọi sự được.

- Bác nói như thế thì ai cũng đành chấp nhận ngu muội mà thôi.

- Có thể nói như thế; bởi vậy đã có câu, “Đa thọ, đa nhục.” Ngày xưa khi mới nghe câu này, tôi chỉ cho rằng người càng già càng dễ cảm thấy tổn thương tự ái, nhưng năm tháng trôi qua, tôi có cảm nghĩ câu này có nghĩa càng già, càng nhận biết nhiều điều mình còn chưa biết. Anh có biết mấy câu thơ, “Càng trẻ, càng biết nhiều; càng già, càng u tối. Cuộc đời luôn thay đổi, che khuất nẻo đi về. Lối nào thoát bến mê, dẫn đường về tự thể. Càng tìm, càng vọng tưởng; không kiếm lại ngu ngơ; thánh nhân vốn khù khờ”?

- Thực tại cuộc sống luôn luôn biến chuyển không ai biết trước được. Nhưng chẳng lẽ con người được sinh ra để sống đợi cái chết? Bác có tin vào phận số không?

- Có gì mà nói đến tin hay không! Những gì thực hữu, hiện thực, thì tin hay không, chẳng chi thay đổi. Nó đã là sự thực thì dẫu không tin, nó vẫn hiện hữu. Nguyên ngôn từ tin đã tự chất chứa nghi ngờ; vì nếu không nghi ngờ thì đâu cần chi nói đến tin hay không tin. Thế nên, nói rằng tin vào điều gì thì đã thực sự chứng tỏ có sự nghi ngờ về điều đó. Vấn đề được đặt ra và cần thiết lại chỉ là khi mình đối diện một vấn đề nào đó mình có suy nghĩ, suy tư, hay đặt vấn đề để nghiệm xét hay không! Chẳng hạn nơi trường hợp của anh, cũng như bao người khác, đã thực chứng được con mắt nhìn trong giấc mơ nhưng chưa bao giờ, nếu không muốn nói là biết bao người đã qua đi không bao giờ đặt vấn đề tự tìm hiểu con mắt nhìn trong giấc mơ nơi mình là gì, phát xuất từ đâu, tại sao có hoặc làm cách nào để sử dụng con mắt ấy. Có chăng, ai khao khát lắm thì lại tin tưởng nơi những lời giải thích mù mờ, đầy thiếu sót của những nhà nhân danh khoa học; cho rằng những gì chúng ta nhìn thấy trong giấc mơ là phát xuất từ ảnh hưởng hay tác động của tâm sinh lý; chẳng khác gì người mù hung hăng tuyên bố mặt trời không chiếu sáng, dẫu cảm thấy nóng bức khi đứng dưới ánh mặt trời. Con người được sinh ra để sống chờ cái chết hay không tùy thuộc người đó dám suy nghĩ hay không.

- Tại sao bác lại nói dám suy nghĩ hay không?

- Hình như trận bề hội đồng giúp anh chẳng những trầm tĩnh hơn mà còn khôn ngoan và thâm trầm hơn. Hèn chi anh không có bất cứ hành động nào trả thù họ. Phỏng anh có chút ý định nào trả thù họ sau này không?

- Bác có quen biết với người nào trong bọn họ không?

- Hỏi câu này, anh có mang ẩn ý nào không? Anh nghĩ gì mà đánh đồng tôi với bọn họ.

- Cháu cảm ơn bác đã nói thẳng và nói thật. Nói cho đúng với tâm trạng chẳng những lúc này mà còn ngay lúc lê lết về bóp thuốc suốt hai tuần lễ, cháu chưa bao giờ có dẫu chỉ ý nghĩ thoáng qua về sự trả thù, mà có chăng phải cảm ơn họ. Thực ra, nếu trực tiếp nói lên lời cảm ơn đối với họ coi chừng chỉ làm phiền họ, nếu không muốn nói rằng khuyến khích họ trở nên hư hỏng. Thế nên, sở dĩ hỏi bác có quen biết với họ hay không, cháu chẳng hề có ý nghĩ đánh đồng bác với họ, nhưng bởi vì cháu chưa biết rõ thực lực của bác như thế nào; bởi đã bị giật mình khi nghe bác nói đến luyện nội công và luyện tập Teakwondo tới đệ thất đẳng huyền đai.

- Thế sao anh phải cám ơn họ?

- Vì họ, cháu đã học được bài học lễ độ cuộc đời thì có chi mà thù với oán.

- Bài học gì?

- Nổ, huênh hoang, tự mãn, không mở mắt để nhận biết trong thiên hạ này kẻ tài giỏi vẫn còn có người tài giỏi hơn.

- Vậy anh nghĩ gì hay suy tính thế nào khi quyết định đi với tôi?

- Bác thử tính coi, mấy năm nay cháu thay đổi chỗ ở không ít, làm đủ mọi việc hầusống qua ngày. Cháu đang định thay đổi nơi ở, có thể là vùng Hố Nai. Thực ra, sống ở đâu thì cũng thế thôi, nên khi nghe bác nói đi theo bác, cháu muốn thử chính mình, cho mình một cơ hội. Nếu cùng lắm, chỉ sáu tháng hay một năm, cháu sẽ có quyết định sau.

- Như vậy anh vẫn chưa biết mình muốn gì?

- Thực tâm, cháu vẫn cảm thấy có điều gì đó lôi cuốn mình theo đuổi, nhưng cũng chẳng biết điều đó là gì; nên vẫn mở rộng lòng cho mình cơ hội thử. Cháu biết lòng mình muốn gì nhưng sao có thể biết cuộc đời mình được sinh ra để làm gì. Ý muốn, ước mơ là một chuyện, nhưng cuộc đời biến chuyển, thay đổi không biết đâu mà lường; đâu ai biết ngày mai sẽ thế nào.

- Anh có thể lược qua và phân tích những viễn tượng ước mơ để nhận định cho chính xác sự việc nào hay điều gì đó lôi cuốn tâm trí mình theo đuổi không?

- Đã nhiều khi cháu tự hỏi điều gì khiến tâm hồn mình thao thức, khắc khoải, nhưng vẫn chưa phân định được rõ ràng. Mấy tháng kỳ ở vùng kinh tế mới Tân Hữu, có lần ghé vô một gia đình, vừa gặp họ đang dùng bữa trưa, chỉ một rổ đọt rau cứt lợn luộc, chấm muối sả ớt; hai vợ chồng và ba người con nhỏ chừng 7, 9, và 12 tuổi, mà cháu cảm thấy lòng ruột vượng lên nỗi đau khó tả. Dẫu vào thời kỳ đó cháu cùng với hai người khác đang đi chặt cây bán cho người làm nhà nơi kinh tế mới nào đó, nhưng hình ảnh bữa ăn của gia đình ấy cứ luôn ám ảnh tâm tư, cho dù càng cố quên thì hình ảnh ấy lại chỉ càng in đậm thêm. Không biết vận trời giáng xuống dân Việt mình cho đến bao giờ. Trước năm 75, cháu có đôi lần ghé ngang vùng Gia Kiệm; những hình ảnh sinh hoạt dân chúng thời đó quả thật đối nghịch với hiện trạng ngày nay. Nghĩ tới, cháu chỉ biết thở dài. Đôi tay mình quá ngắn, sức lực giới hạn, nhưng lòng ruột cứ xôn xao, luôn tự hỏi mình có thể làm được gì trong khi ngày ngày vất vưởng, chỉ biết kiếm miếng ăn cho qua chẳng khác gì loài thú.

- Tôi nghĩ anh biết anh đang muốn gì nhưng chưa tìm ra cách giải quyết thế nào. Hãy kiên nhẫn giải quyết những gì cần thiết cho cuộc sống hôm nay; ngày mai, việc đến sẽ đến và cơ hội cũng đang chờ kẻ kiếm tìm. Vấn đề chỉ là cần đào tạo bản thân mình trước. Tayngắn thì kiếm cách, kiếm phương tiện, nối cho dài ra; sức lực yếu kém thì lo đào luyện bản thân cho vững mạnh. Thời nào, lúc nào cũng tràn đầy những cơ hội để thực hiện ý nguyện; chỉ sợ lúc cơ hội đến, ý chí không còn hoặc tâm hồn lại đam mê chuyện khác mà bỏ lỡ hay buông xuôi; đó mới là điều đáng nói. Nhìn vào thực trạng dân chúng, tôi nhận thấy cần phải làm gì thay vì để lòng ruột đau đớn, xót thương, dằn vặt, biến mình thành kẻ chủ bại. Tất nhiên, dù đường dài đến đâu, cuộc hành trình cũng phải bắt đầu bằng một bước chân. Nếu cứ cho rằng một bước chân thì quá nhỏ bé khi đem nó so sánh với đường dài vạn dặm, cuối cùng cũng sẽ chết tại chỗ không hơn không kém. Cuộc đời cũng thế, giá trị cuộc đời không phải chỉ là ước mơ mà là những hành động biến ước mơ thành hiện thực. Thử đối diện với chính mình, một bữa ăn so với cả cuộc đời không là gì cả nhưng có trường hợp thiếu một bữa ăn, coi chừng bao mơ ước, bao công trình sẽ bị sụp đổ; bao công sức, tiền tài đã đổ vào tan thành mây khói. Thế nên, phân tách hiện thực để có nhận định rõ ràng, phân chia diễn tiến của diễn trình sự việc dự định thành những phần có thể thực hiện và bắt tay vào việc. Muốn có được một dinh thự nguy nga, phải mua xi măng, gạch hay đá, vẽ lập lăng, đào chân móng, trộn xi măng với nước, xây từng viên gạch. Nên nhớ rằng, bản vẽ đinh thự không phải là dinh thự, không thể nào bước chân vào bản vẽ được, nhưng muốn bước chân vào dinh thự lại cần bản vẽ. Mơ ước cũng cần được suy nghĩ và phân tích, xác định giống như dàn bài một bản văn, hoặc bản vẽ rõ ràng, khúc chiết. Những bước chân của diễn trình kiến tạo ước mơ thành hiện thực chẳng khác gì những viên gạch được xây chồng chất theo lập trình bản vẽ tạo thành dinh thự. Do đó, tôi nghĩ, hãy phân định bước chân đầu tiên của mình là gì và bắt đầu thực hiện. Thực tế cuộc đời minh chứng, có sẵn thực phẩm nhưng muốn có bữa ăn lại cần phải nấu nướng. Thêm vào đó, thức ăn đã được dọn sẵn trên bàn, muốn no bụng thì phải ăn; cho dù lười nhai thì cũng phải kiếm máy xay thực phẩm thành sinh tố để nuốt. Đã không còn là lúc chúng ta ngồi đặt vấn đề mà cần thực hiện bất cứ gì chẳng những thăng tiến cho mình đồng thời thực hiện dự tính thì mới may ra có thể hoàn thành phần nào đó của mơ ước.

Tôi trầm ngâm suy nghĩ những lời đơn sơ, mộc mạc, nhưng không kém nhận thức thực tiễn ông Tầm nêu lên, trong khi chầm chậm ăn nốt phần bánh cuốn còn lại trong đĩa. Tôi thầm nghĩ, những chuyện thường tình ai không biết, ai không thực hiện và đã quá quen với chúng, nhưng khi để tâm phân tích mới thấy mọi sự đều cần có những lập trình không thể thiếu. Thế vì lý do gì ông Tầm để tâm theo dõi tôi; ông muốn gì nơi tôi; ông muốn sử dụng tôi vào việc gì. Tự hỏi tôi có gì để ông lợi dụng, tứ cố vô thân, chẳng quen biết ai, bơ vơ, lạc lõng, không danh vọng, không tiền tài, khả năng, trên răng dưới dép thì có thể mang lại lợi ích gì cho ông. Dẫu không thể tưởng tượng ngày mai sẽ ra sao nhưng tôi muốn thử, muốn thử như một sự thách đố với chính mình, với phận số; cùng lắm chỉ sáu tháng hay một năm, nếu không thuận tiện, tôi có thể kiếm nơi khác. Một thân một mình, mấy năm nay, cho dù gặp hoàn cảnh túng quẫn nhất, tôi vẫn có thể vượt qua được mà. Vấn đề chỉ là tôi có thể làm được gì để giải quyết nỗi thao thức trong lòng triền miên đè nặng bất cứ lúc nào nhìn thấy cảnh khốn khổ của những người chung quanh, người dân của đất nước tôi, dân tộc tôi sau những ngày bị mệnh danh giải phóng. Giải phóng khỏi cuộc sống thịnh vượng sang cảnh đói khổ, thiếu thốn, mờ mịt, không dám nghĩ tới ngày mai. Ngày mai, ngôn từ thần thánh đã chìm vào quá khứ khi đối diện với bữa ăn chỉ toàn đọt cây cứt lợn luộc, hoặc may mắn lắm mới có được nồi cơm độn khoai lang khô. Tại vận trời hay tại con người?

Rút trong túi tấm giấy và chiếc bút bi đưa cho tôi, ông Tầm nói,

- Đây là giấy phép thông hành đã được ký‎ sẵn, anh điền tên và chi tiết vô. Và từ nay, anh sẽ là cháu họ của tôi, gọi tôi bằng bác. Dẫu không cần thiết nhưng giữ sẵn lỡ có trường hợp cần dùng đến, bởi thường thì không có chuyện gì xảy ra đâu.

- Cháu luôn có giấy phép thông hành mà, còn có thêm mấy cái “xơ cua” đã được ký sẵn, chỉ cần điền tên và ngày tháng, nơi đến cũng như địa chỉ ăn ở.

- Vậy là được, bỏ tấm giấy vào túi quần, giặt bút vô túi áo ngang ngực, ông tiếp, mình chuẩn bị lên đường, đoạn mở nắp bi đông nhựa hớp thêm ngụm nước.

Tôi uống miếng nước nơi bi đông nhuôm, cuộn hai tấm lá chuối quăng vô bụi rậm gần đó và leo lên phía sau chiếc Honda ông đã nổ máy chờ sẵn.

Xe rẽ qua quốc lộ 22 nối tiếp với quốc lộ 1, và được đổ thêm một bình xăng trước khi tiến vô đoạn đường lưa thưa đây đó những căn chòi chơ vơ giữa khoảnh rừng hay vườn tược để rồi tiến sâu vô một đoạn đường chung quanh chỉ là rừng cây rậm rạp. Tôi chẳng cần biết mình sẽ theo ông đi tới đâu, cũng không thèm nghĩ đến ngày mai sẽ sống thế nào trong tâm trạng thách đố với đời. Tôi nghĩ, con người sống chết có số, vào đời không do ước muốn, ý định của mình, được nuôi dưỡng tới ngày lớn khôn, lo kiếm ăn, thỏa mãn nhu cầu cuộc sống, và rồi chết, rồi sẽ chìm vào quên lãng như chưa từng hiện diện trên cõi đời này thì ngày mai nào có chi phải lo.

Bao nhiêu năm qua, dày công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ, tôi muốn sống gần để giúp đỡ gia đình, nhưng thế cục thay đổi; vận trời khiến toàn dân chẳng khác gì trên lưng voi rót xuống thân phận loài thú, chỉ tối ngày luẩn quẩn với miếng cơm manh áo, thua cuộc đời những con chó ngày xưa. Gọi là ngày xưa nhưng nào đã bao lâu, mới chỉ một đôi năm mà tâm trạng mọi người đã trở nên hụt hẫng, không dám nghĩ tới tương lai, không dám mang trong mình bất cứ hoài bão ước mơ, dù chỉ là mơ ước đơn sơ về một bữa ăn thịnh soạn. Đã một thời gian tôi sống nơi Bà Rịa, kéo lưới rùng mong kiếm đường vượt biên như bao người đã ra đi. Ra đi để làm gì? Ra đi cho vinh thân phì da, chạy trốn đối diện cảnh dân chúng lầm than, cơ cực? Rồi sao? Rồi cũng chết đi như những con vật, cả đời chỉ biết kiếm tìm thực phẩm lấp đầy chiếc dạ dầy như bao kẻ khác.