← Quay lại trang sách

- 3 -

Tôi được sinh ra để làm gì? Cuộc sống phải có lý do, ý nghĩa của nó. Mục đích cuộc đời một con người là chi, nếu cuộc đời chỉ là quãng thời gian sống chờ chết thì được sinh ra, tốn công sức tranh đua kéo dài sự sinh tồn, quả là vô nghĩa. Dù cho có được nhà cao cửa rộng, ra giày vào dép, vợ đẹp, con khôn, được cuộc đời ưu đãi sinh ra trong bọc điều, dù ăn uống cao sang, địa vị chức quyền oai phong đến mấy thì cuối cùng cũng ra đi với đôi bàn tay trắng. Tất nhiên, không mang vào đời bất cứ gì thì ra đi cũng chẳng còn chi để mang theo. Giá trị cuộc sống của tôi là gì? Tại sao phải sống, bị sống, hay được sống?

Được hay bị sinh ra, chưa kịp sống đã phải khoác lên mình án tử, và cho dù chưa có bất cứ ý nghĩ, ước mơ nào thì đã bị tròng vào cổ công ơn nuôi nấng, dưỡng dục, công lao vô biên, bao bọc của cha mẹ, của mọi người chung quanh. Những bài học vỡ lòng, tình cảm, yêu thương của gia đình, nơi trường lớp, những lý thuyết, chủ thuyết, yêu thương dân tộc, bổn phận với quốc gia, xóm giềng, mang mang phủ lấp tâm trí tôi. Chỉ vì cuộc sống vô nghĩa, không mục đích, chủ đích mà tôi phải mang trên mình trách nhiệm, công ơn nặng nề, bao la như thế phỏng là mục đích cuộc sống chăng. Tại sao tôi được sinh ra, sinh ra để làm gì? Cuộc đời phải có ý nghĩa, giá trị của nó. Giá trị cuộc sống là gì? Sống để làm chi? Nếu chỉ vì miếng ăn, chỉ vì mơ ước, chỉ để thỏa mãn nhu cầu nhân sinh và chờ chết thì ước vọng, tham vọng, hy vọng cho đến mấy cũng là không khi cái chết ập tới.

Nhà cao cửa rộng, quyền hành mênh mang, có làm tôi cảm thấy oai vọng hơn không? Tiền rừng bạc bể có thay thế được thực phẩm lấp cho đầy cái bụng đang kêu gào chăng. Vẫn biết tiền có thể mua được thực phẩm, nhưng không thể thay thế thực phẩm làm yên cái bụng. Người ta vô tình thiếu nhận định đã cho rằng “Có tiền mua tiên cũng được,” nhưng khi chiếc bụng đói meo, một bó tiền kề bên một chén cơm nguội giữa cảnh mênh mông trời đất; phỏng có ai nhai bó tiền thay vì chén cơm nguội được chăng? Thế ra điều kiện sống định giá tất cả. Tuy nhiên, thực thể cuộc sống minh chứng nhận định, “Khi con vật ăn no, chúng ngủ; lúc không phải lo miếng cơm manh áo, con người suy nghĩ.” Suy nghĩ, suy nghĩ mới có thể nhận định để rồi thực hiện đúng đắn những việc hầu cải thiện cuộc sống.

Dĩ nhiên, ai không muốn có cuộc đời dễ thở hơn, và cũng bởi vì “Có tiền mua tiên cũng được,” nên người ta đã thiếu ý thức, chạy theo phương tiện, biến phương tiện và những liên hệ, cơ hội, thành mục đích cuộc sống, thay vì suy nghĩ để có nhận định rõ ràng đâu là mục đích cuộc đời của một người. Hèn chi, những thể chế độc tài kiếm đủ mọi cách ngăn cản con người suy nghĩ bằng lối khuynh đảo điều kiện sống của dân chúng. Làm tập thể thì “Cha chung không ai khóc,” tất nhiên kết quả dần suy yếu, đồng thời trở thành cơ hội cho kẻ có quyền hành bòn rút càng khiến cuộc sống dân chúng lầm than, thiếu thốn. Dĩ nhiên, khi chiếc bụng đói meo thì mục đích cuộc sống chỉ là an định chiếc dạ dày, tối ngày mò mẫm vì miếng ăn chẳng khác chi loài thú.

Đã có vị “triết da, triết thịt” nào đó hô lên, “Con người là sinh vật có, hay biết, suy nghĩ.” Cái vị triết da, triết thịt này tuy nhận ra điểm khác biệt giữa người và thú, nhưng đã vô tình không đào sâu cho biết suy nghĩ phát xuất từ đâu, chẳng khác chi các nhà khoa học, cho tới ngày nay, cuối thế kỷ 20, vẫn nhắm mắt, bịt tai, liều lĩnh, thiếu suy tư, công bố mọi tư tưởng, suy tư phát xuất từ bộ óc. Bộ óc chỉ là vật chất sao có thể phát sinh suy nghĩ? Nếu vật chất có thể phát sinh suy nghĩ thì cuộc đời này chẳng khác gì nồi cám heo, con vật, cây cối, nhà cửa, tất cả lộn tùng phèo. Nếu cái nhà, cái giường mà có thể suy nghĩ được thì coi chừng sẽ hất người ở hay đang ngủ bay ra đường. Con vật cũng có bộ óc nhưng chúng sinh hoạt theo bản năng; chả thế mà có câu, “Người ta có thể dạy cho con khỉ đánh một bản nhạc piano tuyệt vời, nhưng không thể biến con khỉ thành nhạc sĩ.”

Miên man suy nghĩ cho tới khi ông Tầm dừng xe nơi sân một căn nhà gạch lợp ngói ẩn sau đám rừng được con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn tới. Sân được lát bằng gạch thẻ. Lối xếp gạch hơi lạ đối với tôi vào thời ấy. Những hàng gạch không theo hàng lối bình thường, nhưng có những hàng ngang chạy xéo xéo đối nghịch với hàng dọc của những viên gạch cũng được xếp xéo theo những hình chữ V mở. Có sáu ô gạch hình vuông cách đều, xếp thành hai hàng theo chiều ngang của sân dọc theo chiều dài của căn nhà. Sân gạch vuông vắn, rộng rãi hòa với mặt đường đất; phía trước sát với rừng cây và phía sau tiếp giáp với bậc hè tương đồng với nền nhà được láng xi măng.

- Anh đứng tạm đây để tôi cất xe. Ông Tầm lên tiếng ngắn gọn, đoạn tiếp tục chạy xe tới đầu nhà phía trước, nơi đó mái nhà được nối thấp xuống làm chỗ để xe. Sau này tôi mới biết nơi đó cũng là bếp, có cửa ra vào phía trước sân và cửa ngang hông lên nhà.

Nghe tiếng mở chốt cửa trước đồng thời cửa bật mở và tiếng ông Tầm vang lên,

- Mời vô, ông bật lửa với hộp quẹt que và châm vào ngọn đèn dầu trên bàn, loại đèn có bấc bản lớn cuộn thành vòng tròn và lắp bóng đèn vô. Cầm đèn tiến về phía đầu nhà nơi ông cất xe, mở gói giấy vừa được đem vô để trên bàn ăn, ông lấy ra hai ổ bánh mì, một gói nhỏ thịt xá xíu và một gói nhỏ rau thơm, một trái dưa leo nhỏ hơn cổ tay dài cỡ một gang. Lấy con dao nhỏ rạch một ổ bánh mì, đưa cho tôi, đồng thời đứng lên, lấy đôi đũa đưa cho tôi và một chai xì dầu nơi đầu bàn.

- Tối nay, mình ăn tạm bánh mì cho tiện rồi còn tắm rửa, nghỉ ngơi. Anh có cần ăn ớt không? Nếu muốn, phía sau nhà có lẽ may ra có ớt tươi.

- Thưa không đâu, tôi trả lời ngắn gọn, lấy con dao nhỏ xắt dọc theo chiều dài trái dưa leo thành những thanh nhỏ và chuẩn bị phần bánh mì, thịt xá xíu đã được thái mỏng cùng với rau thơm, xì dầu cho mình và bắt đầu ăn.

Tôi giữ im lặng, không nói gì dẫu lòng đầy thắc mắc, chỉ âm thầm thả nổi tâm tư trôi theo ngoại cảnh diễn tiến. Suốt ba năm, gần chục lần thay đổi nơi ở, làm đủ mọi công việc, từ cuốc đất làm rẫy, chặt cây làm nhà nơi Tân Hữu, kéo lưới rùng ở vùng biển Bà Rịa, mua bán đồ cũ dọc vùng Hố Nai, Gia Kiệm, mua, cắt dây lang khu rẫy rờ Tam Bung, phía sau Túc Trưng bán cho người nuôi heo miền Gia Kiệm, xay củ tróc ngái (giong tây), và đóng dàn lọc bột, làm công trên ghe te đánh tôm, phụ làm hàng đáy vùng Chu Hải, v.v…, vẻ bên ngoài, tôi có vẻ dễ thương, đơn sơ gần như ngờ nghệch, không bon chen, cởi mở, ruột ngựa, lễ độ, chí thú kiếm miếng cơm, chấp nhận hoàn cảnh, phận số sống qua ngày, bởi lúc đói, đầu gối phải bò, không dám hẹn hò, yêu đương cho dù hình hài và thái độ không đến nỗi tệ. Hơn nữa, vào thời đó, cái “mác” sinh viên, sinh hòn cũng khá ăn khách.

Cũng phải nói thêm, vẻ bên ngoài tôi ngoan và hiền lắm cộng thêm tính chất thật thà, dám chấp nhận nói lên những gì mình chưa biết, chưa có kinh nghiệm, đồng thời canh cánh biết ơn những người đã giúp tôi về bất cứ phương diện nào. Sáng hôm đó, sau cỡ sáu tuần đi ghe te đánh bắt tôm cá vào một đêm nước lừng nên về sớm, tôi ghé vô thăm ông bà cụ bố mẹ vợ chủ ghe với ý định nhờ cụ đan cho chiếc sảo tôm lỗ hơi lớn hơn bình thường.

- Sảo mà đan lỗ lớn sẽ lọt mất tôm, cụ nói.

- Thưa cụ, khi đãi tôm, những tép nhỏ sẽ chìm xuống trước, nếu lỗ sảo bình thường, phải lắc qua lắc lại nhiều lần tép mới lọt hết, sầy suộc cả tôm. Đàng này, nếu lỗ sảo lớn hơn bình thường một phần ba, chỉ cần lắc nhẹ một lần, các tép nhỏ sẽ lọt xuống hết và một số tép lớn còn sót lại được bán theo giá tôm vẫn có lợi hơn.

- Thế chú định tính công xá ra sao để tôi bảo em nó đưa cho chú.

- Thưa cụ, mới có ít bữa, cứ hãy để đó rồi tính sau cũng không sao.

- Không được, làm te thì ngày nào tính công xá ngày đó. Chú làm te với em đã sáu tuần rồi mà công xá vẫn chưa thanh toán. Mọi sự cần phải được dứt khoát, rõ ràng.

- Nói cho đúng, thưa cụ, cuộc đời của con mang ơn rất nhiều người mà vẫn chưa biết sao trả ơn họ. Thôi thì để đến khi nào anh chị ấy trả hết nợ ghe hãy nói tới công xá cũng chưa muộn mà.

- Chú đã nói vậy nghe cũng được, vậy thì cứ theo ý của chú.

Làm thuê, làm công, thường thì công xá được ngày nào xào ngày đó. Dẫu tôi ở nhà chủ ghe te, tiền ăn thì tính vào nửa ký tôm mỗi ngày, bởi mấy ai trong cuộc đời làm thuê không công. Hơn nữa, cuộc đời này nào có ai chê tiền, nhất là nơi thời buổi toàn dân chúng bị đổi tiền chẳng khác gì đương đường bị cướp bóc; khiến mọi người rơi vào cảnh bần cùng, khó khăn, khốn đốn, không phát sinh ý định đạo tặc là đã quá tốt lành. Cũng như mọi người nơi giai đoạn ấy, túi trống rỗng, thuộc dân học trò dẫu được liệt vào hạng “Chỉ mong cái bút, cái nghiên anh đồ,” nhưng gặp thời buổi “Hai tay vày lỗ miệng” vẫn khó khăn, đem mồ hôi, công sức đổi lấy miếng cơm qua ngày vẫn chẳng đủ, mà được trả tiền công lại chưa nhận thì chẳng khác chi tâm trí bị khùng, nếu không muốn nói là ngốc nghếch. Tiền là do công sức mình làm ra; mang ơn, nợ oán ai thì lo mà giải quyết với họ chứ mắc mớ gì dính líu tới người khác.

Bề ngoài, tôi có vẻ hiền lành, chân thật, tin tưởng người khác đến độ ngu ngốc như thế, nhưng thâm tâm tính toán hơn kém, không dốt nát như vài lời nói và biểu hiện phiến diện. Tôi nhiều lần thay đổi nơi ở với tâm trạng thách đố phận số. Vả lại, đã có thời gian cùng cực, suốt sáu tháng không biết cách nào xoay xở kiếm miếng cơm cho đầy bụng, sáng đã chẳng có gì ăn, trưa giả đò đạp xe đạp ghé ngang nhà ai đó, dẫu chẳng quen biết mấy, thăm hỏi đúng lúc gia đình họ đang dùng bữa trưa, cho dù được họ “chào dơi” thế là lại cũng giả đò ngại ngùng nhưng sà vô ăn được miếng nào hay miếng nấy, để rồi buổi tối uống nước lạnh đi ngủ. Nước được múc từ giếng cạn thì uống đâu sung sướng gì, nhưng vẫn phải uống; uống vì chiếc dạ dày kêu réo, để rồi mười hay mười lăm phút sau vẫn chưa ngủ được, nước lã thì đâu béo bổ chi, đâu đánh lừa được lòng ruột, nên coi thân xác tôi như ống cống chuyền qua, và rồi lại vẫn phải uống nước lã chẳng sạch sẽ gì nơi chiếc giếng cạn trước khi rơi vào giấc điệp.

Dẫu đang tuổi thanh niên, nhưng cả thời thanh xuân dưới lớp vỏ học trò thì làm lụng tay chân sao có thể so sánh với dân chuyên môn đâm hà bá, phá sơn lâm. Nếu tôi lấy tiền công như những người “đi ghe” khác, lỡ chủ ghe tính hơn thiệt lợi ích, thuê người khác, thì tôi biết làm chi, ăn nơi nao, ngủ ở đâu chốn đồng đất nước người, không ai quen biết. Tôi ngờ nghệch như thế đó và hiền lành, dốt nát không đáng cho người để tâm tính toán hơn thua, so sánh. Dân tộc mình có khuyên, “Một câu nhịn là chín câu lành;” riêng tôi, lòng luôn thèm khát có chút tiền đút túi đề phòng bất chợt, nhưng đành phải ngu ngơ nhịn vì chủ đích riêng tư. Dẫu cần tiền, ai không thế; tuy nhiên, tôi đi làm đâu phải để kiếm tiền, nên âm thầm chấp nhận dẹp nỗi thèm tiền trở thành giả đò ngu ngơ, ngốc nghếch, ngốc nghếch nhưng nào dám nói ra; nói ra bể mánh! Suy nghĩ, tính toán là một chuyện, đối diện với thực tại biến chuyển của cuộc đời đôi khi đành chấp nhận “Ngậm bồ hòn làm ngọt.” Điều gì muốn giữ kín, cần phải để tâm, ngậm miệng cho dẫu đôi khi miệng ngứa ngáy muốn phu ra, nhưng đành chấp nhận cắn răng, nín thở, ngậm tăm như không để tâm. Chẳng ai chấp kẻ dốt.

Sau khi ăn xong, ông Tầm nói,

- Anh đợi tôi chừng 10 phút rồi đi tắm; đoạn ông đi về phía đầu nhà bên kia lấy đồ đi xuống bếp.

Dù muốn cố gắng tưởng tượng hoặc đặt vấn đề tìm hiểu lý do tại sao ông Tầm đem tôi về đây, và rồi sẽ sinh sống ra sao, tôi không thể nào nghĩ được bất cứ lý lẽ hay nguyên nhân gì. Tự hỏi, tại sao tôi nhất thời quyết định đi theo ông, tôi chỉ có thể nghĩ mình đang thách đố với cuộc đời. Mấy năm nay, cho dù thế nào, tôi vẫn còn đang sống dẫu trong cảnh khó khăn nhất nên ít ra đã có nơi ở thì chẳng có gì để nói. Cùng lắm thì chỉ đôi ngày, tôi sẽ kiếm được chuyện nào đó kiếm tiền để sống qua ngày.

Và rồi sẽ ra sao, tôi tự hỏi. Nghe ông Tầm nói, chỉ cần tối đa sáu tháng, vấn đề sinh sống không còn là điều kiện khó khăn đối với tôi. Tại sao sáu tháng, ông Tầm có quen biết với trường dạy võ; nếu thế cần gì phải sáu tháng. Tôi đã được chứng thực đệ tam đẳng huyền đai, hai năm nay lại cố gắng tự luyện tập nên năng lực có phần tiến xa hơn. Những thế đánh, nhận thức tâm ý, thái độ, vận chuyển năng lực tôi nghĩ cũng gần tương đương với đệ tứ đẳng, nếu không muốn nói là trội hơn một chút bởi cố công tự luyện. Bài quyền của đệ tứ đẳng đã trở thành của tôi; tôi có thể vô ra bất cứ lúc nào.

Ai mà không biết, một thế đánh, một miếng võ, nếu luyện một ngàn lần, tất nhiên sẽ trở thành phản xạ. Sự khác biệt giữa các đẳng cấp chỉ là kết quả của suy tư, suy nghĩ qua thực hành, thực tập, để phát triển những thế đánh tương đồng trong những trường hợp khác nhau đồng thời phản ứng vận năng lực hợp lý, hợp tình hơn các đẳng cấp thấp hơn. Nói cho dễ hiểu, nếu đem so sánh sự cao thấp trong làng võ, chẳng khác gì sự khác biệt giữa sự viết chữ và tính toán của sự học hành và luyện tập viết lách của học sinh các lớp nơi học đường. Người ta thường nói chữ viết tháu như bác sĩ; vì học tới bác sĩ đã phải viết quá nhiều nên sinh ra viết tháu, viết tắt, viết ăn bớt nét, bớt chữ. Võ học cũng thế, càng luyện tập, càng rút ngắn được thế đánh. Tất nhiên, đánh sao thì đánh miễn trúng đích; còn năng lực cú đánh mạnh yếu thế nào lại tùy thuộc sức mạnh, nội lực. Thế đánh chuẩn, đầy đủ đường nét, trông thì đẹp cho những kẻ sơ cơ, nhưng khi đụng chuyện, nhanh, mạnh, chính xác mới đáng nói. Dẫu ai đó nói sao thì nói, nếu đã thua, đã bị đo ván thì lý thuyết, quy luật nào cũng đành sõng soài nhận bại.

Và sáng hôm sau, thức dậy, lúc đi ngang qua phòng ăn định rửa mặt, đánh răng, tôi đã thấy ông Tầm đang ngồi nhâm nhi cà phê; trên bàn cũng có thêm một phin cà phê đang nhỏ giọt. Ông lên tiếng,

- Anh đánh răng, rửa mặt, uống cà phê, rồi mình “Warm up” đôi chút cho thông máu.

Tôi không nói gì, chỉ nhìn ông, nhẹ gật đầu và tiếp tục đi tới. Sau đó trở lại uống cà phê, ông Tầm lại nói,

- Bởi tôi xa nhà đã hơn hai tháng nên không có gì để ăn sáng. Hôm nay mình ăn lúc 10 giờ vậy. Ly cà phê tôi pha cho anh đó.

Tôi lấy đường pha vào cà phê và mười lăm phút sau, ông Tầm nói,

- Bây giờ mình ra ngoài làm mấy cử động rồi đi chợ.

Tôi theo ông ra trước sân. Ông bước ra đứng vào khung gạch được xếp thành hình vuông giữa sân gần mép rừng đoạn lên tiếng.

-Tôi sẽ đứng tại đây; anh hãy dùng hết sức đấu bất cứ kiểu nào xem có thể đánh bật tôi ra khỏi khung gạch vuông này không.

Tôi thầm nghĩ, ông Tầm không có vẻ gì là cao ngạo; tất nhiên phải là người có năng lực và chuyên nghề võ nên đã biết tôi có đệ tam đẳng huyền đai, lại đã biết tôi hằng ngày luyện tập mà lại dám thách đố kiểu đó nên phải coi chừng. Ừ thử thì thử, do đó đơn giản lên tiếng hỏi,

- Bác đã sẵn sàng chưa.

Ông gật đầu, và tôi không nói không rằng, đưa tay phảitung thử cú dấm thẳng diện. Ông nhẹ nhàng hơi nghiêng và xoay thân mình né tránh trong khi đôi mắt vẫn tỉnh táo theo dõi cử động của tôi. Chưa xong cú đấm trước tôi đã ngưng, và tay trái chớp nhoáng bồi cú đấm tiếp theo nhắm vào vai vừa nghiêng tới gần. Ông Tầm chợt uốn người hơi ngả về phía sau khiến cú đấm của tôi trượt sát ngực; ngay khi ấy, chân phải tôi tung cú đá ngang đùi. Ông Tầm khẽ nhún chân xoay người ngược về phía trước. Người ta không thèm đánh trả mà vẫn bị hụt trong khi tôi ra đòn chớp nhoáng như trong cùng một lúc thì còn đấm đá kiểu gì. Tôi ngừng, nhẹ nói,

- Không đụng tới bác được.

- Thôi mình đi chợ, ông nhẹ nói, anh đi theo tôi, rồi tiến về phía bếp.

Mỗi người một chiếc xe đạp, tôi theo ông ra tới chợ, ghé vô tiệm thuốc bắc. Ông giới thiệu tôi là cháu với chủ tiệm đoạn hẹn hò gì đó sáu tháng sau. Tiếp đó mua ít trứng vịt, một miếng thịt heo. Trên đường về, ông nói,

- Từ ngày mai, mỗi buổi sáng sớm, anh đi chợ. Quãng đường từ nhà tới chợ chỉ hơn hai cây số. Tuần đầu, anh dùng xe đạp, rảo qua các hàng và nếu có thể càng làm quen với nhiều người càng tốt. Có ai hỏi về thân thế, cứ nói là cháu tôi mới về cư ngụ. Những ngày sau đó, thay vì đi xe đạp, anh chạy bộ. Trong khi chạy áp dụng nguyên tắc hít thở để tăng năng lực. Mỗi sáng chạy năm cây số cũng tạm ổn.

Chạy bộ năm cây số đối với con nhà võ nào có chi đáng nói nhưng sao lại có vấn đề hít thở để tăng năng lực, tôi tự hỏi, nhưng không nói gì.

Về tới nhà, ông dẫn tôi ra phía sau. Cảnh sắc làm tôi thích thú. Cỡ vài sào đất được viền bởi những tảng đá có lẽ được thu dọn từ sào đất. Nơi hai đầu nhà là hai chiếc giàn nho nhỏ mỗi cái vuông vắn, cạnh cỡ năm mét. Một đôi luống rau đủ loại được chia ra từng khu. Vài luống khoai nắm sát chân đồi; và từ trên đồi cây cối rậm rạp, một đường nối tiếp bằng những ống tre, được chống đỡ hoặc bằng cách buộc treo trên cây hoặc bằng hai cây buộc xéo dẫn nước vào bếp. Hèn gì tối qua thấy nước róc rách chảy vô chiếc đình sành, khi đầy lại trào cả ra ngoài nơi nền hồ. Phía ngoài chiếc giàn có một chiếc ao nhỏ, bề ngang cỡ chừng chục thước và bề dài hình như cả ba chục thước, lõm bõm đôi con cá đớp nước. Nước nơi ao hơi đục. Tôi lẩm bẩm, “Ao trong ít cá,” đoạn để ý nhìn thấy nơi góc ao có đám lục bình cỡ bằng chiếc chiếu trãi giường. Mặt ao, bèo tấm chiếm gần nửa vây quanh đám lục bình.

Thấy tôi để ý chiếc ao, ông giải thích,

- Chiếc ao này đón nước được chuyền tới từ trên đồi cao phía sau bằng ống tre tiếp nối. Khi bồn đầy, nước dư chày theo rãnh xuống ao. Tôi nuôi cá rô phi vì cá rô phi ăn bất cứ rong rêu gì dưới nước và cũng ăn bèo tấm nên không phải cho ăn, đồng thời những rau rợ, hoặc lá rau già cỗi, không ăn được, băm ra quăng xuống cũng là thực phẩm cho chúng. Anh có biết tại sao có đám lục bình ở góc ao kia không? Thứ nhất, lục bình là cây lọc nước, thứ hai, rễ lục bình là thuốc chữa bất cứ loại bệnh nào của cá. Hai tháng qua, tôi phải nhờ người tưới rau nên vừa rồi đi chợ tôi không mua rau.

- Thế nước từ đồi của ai.

- Của tôi. Mười lăm năm trước khi còn trong lính, lúc ấy tôi là thượng sĩ, có lần dẫn mấy anh em lên đồi đi săn, vô tình gặp đám cỏ xanh tươi dưới một vài cây lớn; nơi ấy thỏ rừng hay ra ăn. Ngay phía trên cao hơn đám cỏ có dòng nước rỉ ra mà không ai để ý. Tôi tìm hiểu xem đồi thuộc về ai và hỏi mua. Cũng như bây giờ, đất đâu thuộc của ai thế nên tôi rào dậu, cắm vè và về sau làm nhà, dẫn nước, đồng thời lại phải đào ao để thoát nước.

- Hôm nào bác đưa cháu đi coi nguồn nước được không; tôi nói.

- Đâu cần phải tôi đưa đón. Khi nào muốn, anh đi theo đường ống tre sẽ biết. Không chi lạ cả, nơi nguồn nước, tôi khoét thành một vũng sâu độ ba gang tay, ve bờ; nước chỉ lên tới gần miệng bờ nhưng không bao giờ cạn. Tôi lấy một ống nhuôm đặt vô và dẫn vào ống tre đưa nước về đây. Nước tưới rau này cũng là nước múc dưới ao nơi tôi xây mấy bậc xi măng để bước xuống.

- Tại sao bác không làm bồn chứa nước ngay trên này, đỡ phải múc từ ao?

- Có lẽ anh chưa bao giờ dùng nước rửa cá hoặc tôm để tưới rau. Rau tôi trồng không bao giờ phân bất cứ một thứ gì, chỉ nước dưới ao mà rau tốt như thế. Khi còn ở đây, bao giờ anh thử chia một đám rau đang lên tươi tốt như nhau thành hai phần; một bên anh tưới nước ao, và một bên tưới nước trong bồn đựng nước tắm trong vòng một tuần, anh sẽ biết. Nơi ao tôi còn thả thêm mấy con cá ngao để chúng đẻ trứng cho cá rô phi ăn. Trưa nay, mình ăn cơm với canh rau đay muồng, thịt xào với cải bẹ Đàlạt và thịt kho với trứng. Anh biết nấu ăn không?

- Chỉ e không có thực phẩm để nấu chứ. Luộc gạo và nấu ăn dĩ nhiên cháuphải biết. Nhà có tôm khôkhông thưa bác?

- Có cả tôm tươi và thịt gà nữa, trong tủ lạnh.

- Ở đây không có điện mà!

- Tủ lạnh chạy bằng gaz ở giáp với tường phòng tắm về phía bếp.

- Tối qua, lúc đi tắm, cháu trông thấy nhưng tưởng là tủ đựng đồ khô.

- Mấy luống khoai kia sao ít lá thế, tôi đưa tay chỉ về phía chân đồi nơi có mấy luống khoai lang và mấy luống khoai môn.

- Khoai sắp sửa đào được rồi, cắt bớt dây cho nó xuống củ. Anh có thấy chi khác biệt giữa mấy luống khoai lang cũng như mấy luống khoai môn không?

- Khoai lang cháu không nhìn rõ lắm, phải tới gần mới phân biệt được; tuy nhiên, khoai môn, hình như sự khác biệt khá rõ ràng vì mầu sắc và hình thức của lá. Nhưng tại sao hai loại khoai môn có tàu màu tím lại được trồng thành hai khu khác biệt.

- Tôi trồng năm loại khoai môn khác nhau. Loại có tàu màu tím phía đầu đàng kia là khoai sáp, ăn nó dẻo dẻo và ruột nó màu vàng hơi xanh. Loại rọc tím đầu đàng này củ hơi dài, ruột trắng, bở. Loại có bụi to lớn, tốt tươi, rọc giống rọc mùng (bạc hà). Củ của nó lớn như vốc tay và mùi vị đậm đà. Còn hai loại khác có tàu màu xanh, một loại củ dài, một loại củ tròn. Tôi định trồng mỗi thứ một luống nhưng ăn không hết nên chỉ trồng ba luống. Tuy nhiên, cầu xin không ăn hết.

- Tại sao bác phải cầu xin?

- Anh không nhớ cuối năm 1975, và cả năm 1976 sao? Khoai môn đào lên nếu biết cách giữ, có thể để được cả năm; lỡ trường hợp xảy đến như năm 76 thì còn đỡ hơn ăn bo bo.

Tôi thở dài; hình ảnh gia đình trẻ, hai vợ chồng và ba đứa con bên rổ đọt rau cứt lợn luộc, chấm muối sả ớt, hiện về trong tâm trí mà lòng quặn đau; dân Việt tôi, đất nước tôi. Đưa tay chỉ về cuối vườn giáp chân đồi, tôi đề nghị đến gần xem khoai lang. Đến gần, tôi chỉ thấy những đọt khoai lang hơi khác nhau. Khoai lang mỡ, da trắng, ruột vàng, ngọn đậm đà, luộc đọt chấm mắm tỏi ngon phải biết, nhuận trường, củ xắt phơi ghế độn với cơm tương đối dễ ăn. Đọt khoai lang vỏ tím ruột trắng dễ trồng nhưng đọt ăn hơi khô. Hai loại khác, đọt nhỏ và lá non màu hơi tím. Loại này có củ da màu tím và ruột cũng màu tím. Nếu hái đọt để luộc chỉ có thể hái khoảng một ngón tay tính từ ngọn. Nghe đâu loại khoai lang này người bị bệnh tiểu đường có thể dùng được. Còn một loại khoai lang khác, ngọn cũng nhỏ như khoai lang tím vỏ tím lòng nhưng đọt nó mầu xanh tươi, tôi không biết loại gì nên hỏi,

- Khoai lang có đọt nhỏ, xanh tươi kia là loại gì, cháu không biết.

- Đó là loại khoai lang Nhật, củ có vỏ màu trắng nhưng trong ruột, luộc lên màu tím lịm. Nó cũng giống như loại này, ông chỉ vô đám đọt và lá non màu hơi tím, nhưng được ưa chuộng hơn nên giá bán cao gấp đôi. Hai loại ruột tím này người bị bệnh tiểu đường có thể ăn được. Đoạn ông nói,

- Thôi mình vô nấu ăn.

- Để cháu hái nắm rau đay muồng nấu canh.

Ông Tầm tiến tới đám rau cải xanh, tiện tay, nhổ một cây, dũ đất dính nơi rễ.

- Sao bác không cắt lá ăn dần mà lại nhổ cả cây.

- Mai, tôi gieo thêm một đám, khi nó lên cỡ một gang mình ăn lẩu cá rô phi.

Trong khi hái đọt rau đay muồng, tôi hỏi,

- Bác muốn ăn canh rau đay nấu theo kiểu nào?

- Bắc, Trung, Nam, hoặc Tàu hay Tây, anh biết được mấy thứ?

- Dĩ nhiên, Tàu hay Tây, họ không ăn canh rau đay thì không có cách cho cháu biết. Hơn nữa, kiểu Bắc, hay Trung hoặc Nam cháu cũng không biết luôn. Cháu chỉ biết mấy kiểu không tên, nhưng thực hành thì gần giống nhau nhưng ăn lại có khác biệt.

- Nói lạ. những cái miệng khác nhau tất nhiên đâu thể cảm nhận giống nhau mà không khác biệt.

Tôi giật mình vì cũng một câu nói của tôi mà ông Tầm nêu lên thực trạng khác của vấn đề. Tôi nói về trạng thái của món canh rau đay được nấu cách khác nhau; ông nói về trạng thái của cũng một món canh đối với những chiếc miệng khác nhau. Tôi còn đang sửng người thì ông nói,

- Giật mình ah! Hèn chi dám cao ngạo đối đầu với cuộc sống. Thôi mình đi vào nấu ăn. Anh nấu theo kiểu đắc ý nhất của anh; vì dẫu sao nó vẫn hơn không có canh.

Câu nói của ông gợi về nơi tâm trí tôi lời thơ của Nguyễn Tất Nhiên được phổ thành nhạc, “Có còn hơn không, có còn hơn không.” Đã nhiều lần tôi lặp lại câu này trong quá khứ và không đồng ý với câu nói một chiều trong trạng thái đặc biệt tâm tư, mà ghép câu thơ vào vị thế độc lập của cuộc sống; bởi phỏng có món nợ, hay thất bại, thì có hơn không có? Tại sao không thấy tác giả văn chương, triết lý nào hoặc bất cứ ai viết tiểu luận nhận định về những lối nói, phát biểu, được chấp nhận một cách thường tình; trong khi tôi lại thấy phần nào đó có những nghịch lý? Tôi khác người hay muốn trở thành khác người? Tất nhiên, tôi có nhiều điểm khác với bất cứ ai dẫu có chung thân phận làm người. Tại sao người đời dễ chấp nhận nói năng, “Đi khám bác sỹ,” ngay cả trong văn chương, hay luận bàn xã hội; nhưng lại được hiểu ngược lại với lời phát biểu, và được chấp nhận đó là chuyện thường, thường vì thuận miệng; trong khi tôi lại nhận ra câu nói nghịch thường. Tôi muốn chẻ sợi tóc làm tư? Tôi không muốn nhưng tâm trí thường hay có những phản biện, trực diện nhận định hầu mong thấu triệt vấn đề nào đó khi đối diện với nó.

Tôi lấy dao thớt, cẩn thận thái thật nhỏ nắm đọt rau đay muồng, bỏ vào chiếc rá “nylon mau” (lỗ nhỏ) đem rửa đoạn bỏ lên một chiếc đĩa gum gủm tránh nước rửa rau chảy ra bàn bếp. Lò bếp của ông được xây bằng xi măng, có một miệng chụm củi và phía trên được chia làm bốn khoảng trống, hai to, hai nhỏ, để đặt nồi nấu nướng. Phi hành mỡ, xào tôm tươi được xắt nhỏ, tra mắm muối, tôi lấy thêm đùi gà lóc thịt bỏ vô xào với tôm, đổ thêm nước nấu canh rau đay.

- Vậy là có thêm món gà luộc. Món canh rau đay ngon là phải. Lần đầu tiên tôi sẽ được ăn canh đặc biệt chưa bao giờ có thể nghĩ tới.

- Nhà mình có cây chanh nào không? Tôi hỏi?

- Cây chanh làm gì?

- “Con gà cục tác lá chanh; con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi; con chó khóc đứng khóc ngồi; mẹ hời, mẹ hỡi, mua tôi đồng riềng.” Ăn thịt gà cần lá chanh.

- Nơi đầu nhà bên kia có cây chanh cao hơn đầu người ngay sát bên giàn mướp.

- Bác có ăn canh rau đay với mướp không?

- Nhà có mướp hương mà tôi quên không nghĩ tới.

- Mướp hương thì thơm hơn, nhưng không ngọt bằng mướp trâu.

Tôi thu dọn bàn ăn và rửa chén xong, trở lại bàn ăn, định ngồi uống nước trà thì đã thấy mấy cuốn sách, có vẻ cũ kỹ, được xếp chồng lên một tập giấy hình như được “Copy” để sẵn. Trong khi tôi rót nước trà ra ly, ông Tầm lên tiếng,

- Nội trong vòng một tháng, ngoài giờ tập luyện và ăn uống, anh đọc cho xong tập bản thảo và những cuốn sách này. Tuy nhiên, phương cách đọc sách không giống như đọc truyện hoặc nghe giải thích để hiểu biết, mà tâm tình, tâm ý của mình phải hòa vô sự thể, sự việc được viết, được diễn tả; sao cho cảm nhận, cảm nghiệm được sự thể, sự việc có thể xác minh ngay nơi bản thân mình. Nói cách khác, anh cần suy tư, suy nghĩ, hay còn gọi là thực nghiệm, nghiệm xét những gì đọc được cho đến tận cùng, hầu biến sự thể, sự việc được giãi bày trở thành sự việc diễn tiến nơi chính anh. Tất nhiên, có những điều tác giả viết ra không phù hợp hoặc không hợp lý, hợp tình, không thể áp dụng được theo nhận định, nhận thức của anh thì cứ việc bỏ qua; nhưng những gì hợp với nhận thức, suy luận của anh, hãy thực nghiệm để chúng trở thành của mình. Cũng giống như đánh võ, miếng võ phải trở thành phản ứng tự nhiên của mình thì những nguyên tắc, thực hành được viết nơi sách cũng phải trở nên phản ứng tự nhiên nơi anh. Dĩ nhiên, khi đọc, tâm trí, tâm tư của anh sẽ làm việc tối đa, chìm tâm tưởng nơi những thực nghiệm được giãi bày; đồng thời cũng cần dùng phản biện phân tích để biến sự nhận thức thành hiện thực những gì có thể chấp nhận được. Tôi nghĩ, một tháng là thời gian quá đủ đối với anh. Hãy đọc cho hết rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Vấn đề cơm nước, chi phí tối thiểu trong cuộc sống, yên trí, anh không cần lo ngại vì phải nhờ và tôi đâu. Tôi rất sòng phẳng và cũng không để anh chịu thiệt. Nếu cần giải tỏa căng thẳng đầu óc bằng cách nấu nướng thì cũng nên, nếu không, tôi nấu ăn không sao. Một tháng đọc sách này, chủ đích chỉ là để anh cảm nghiệm phương pháp thực tập kiến tạo nội lực bằng cách suy nghĩ, nhận định để áp dụng nơi bản thân. Tôi nhắc lại, đọc sách không giống như đọc truyện giết thời giờ mà thực nghiệm những gì có thể được viết nơi sách vô bản thân. Nếu có gì khúc mắc cứ việc hỏi, tôi sẽ giải thích cho dù nhận thức của anh đối nghịch với nhận định thực nghiệm của tôi. Nói vậy quá đủ, tất cả đều tùy thuộc nhận thức và thực nghiệm, thực chứng nơi anh.

Tôi vừa uống trà vừa im lặng nghe. Giọng ông Tầm nhẹ nhàng, trầm trầm nhưng xác quyết, đầy tự tin, gây áp lực mạnh mẽ. Khi ông so sánh thực nghiệm sự thể, sự việc được giãi bày trong sách với sự luyện tập các ngón đòn nơi sự luyện tập võ nghệ, tôi hiểu ngay ông muốn nói gì. Vì theo học ban C nơi trung học, và cũng vì cố gắng học cho giỏi để bố mẹ được vui, tôi đã đọc khá nhiều truyện, sách chẳng những nơi tiếng Việt, mà còn sách tiếng Anh, sách tiếng Pháp, để thăng tiến ngôn ngữ. Hơn nữa, trời cũng ban cho tôi có trí nhớ khá tốt. Thế nên, đọc sách đối với tôi chẳng những là món giải trí chẳng khác gì du lịch nơi tâm tưởng, biết thêm nhiều điều chưa bao giờ có cơ hội đối diện nơi cuộc sống mà còn có thể nói chưa bao giờ tôi có thể tưởng tượng trong tâm trí. Bởi thực tập luyện võ nên phản ứng của tôi khi đọc sách đều được ứng nghiệm phân định nơi tâm trí những gì tác giả sáng tác qua trí tưởng tượng hay những gì kinh nghiệm hoặc sự thể, sự việc diễn tiến nơi cuộc đời. Do đó, tôi đọc sách rất nhanh, có thể vì có trí nhớ khá tốt, lại quen luyện võ, nhận thức diễn tiến sự thể, sự việc được tác giả ghi lại dường như hiện hiện trước mắt nên có thể phân định chân giả, thực hư dễ dàng.

Có điều lạ, đó là bất cứ những sách nào đã đọc xong, tôi đều quăng vô thùng rác vì thấy không có gì đáng cất giữ lại dù sách tiếng Anh hay sách tiếng Pháp; bởi chúng thường chỉ là những loại biên khảo hoặc ghi lại những gì đã được viết lan man nơi diễn trình tư tưởng hoặc luận bàn đây đó, thế thì có chi đáng để giữ lại, chỉ chật nhà. Bởi vậy, khi nghe ông Tầm nói về phương cách đọc sách, tôi hơi ngỡ ngàng nên định bụng để xem những sách ông nói tôi đọc, viết về những chuyện gì rồi quyết định sau.

Tôi cẩn thận bê chồng sách, hơn kém hai mươi cuốn, và tập giấy copy để lùi gần về phía mình, đồng thời đặt chồng sách sang một bên, nhìn thấy ngay trang đầu của tập giấy copy có hàng chữ ghi chú, “Cẩn chú: Xin chân thành cảm nhận cảm nghiệm của quý bậc thức ngộ và ghi ơn quý tác giả, dịch giả, với những câu nói được trích từ các tác phẩm.” Liếc đọc sơ qua lời cẩn chú đồng thời thấy cả dãy tên sách ghi tên tác giả, dịch giả, nhà in, cùng năm tháng, tôi tự hỏi, bảng danh hiệu các tên sách được trích dẫn thường thì được ghi nơi cuối của cuốn sách, thế sao lại được để ngay đầu bản copy này. Hình như thấy tôi để ý đến trang đầu của bản copy, ông Tầm nói,

- Đó chỉ là bản copy của bản thảo cuốn sách chưa có tên và cũng chưa viết xong của một tác giả nào đó mà ông chưa biết tên. Nhân một hôm ghé vô thăm một người bạn, thấy để tập bản thảo trên bàn, ông mượn về muốn đọc qua xem có gì hay. Đọc xong, ông thấy quá hay nên xin được copy một bản. Người bạn nói tác giả của bản thảo nói còn đang viết tiếp, chỉ mới xong mấy phần lược qua đạo học gồm có Phật học, Ấn học, Điểm Đạo Ai Cập, Lão học. Tác giả còn đang viết tiếp phần Tân Ước của Kinh Thánh nên nhờ ông duyệt qua dùm nếu có điều gì cần nhuận sắc thì cho tác giả biết. Những cuốn sách tôi đưa cho anh cũng được liệt vào danh sách được trích dẫn.

- Theo bác nhận thấy, cháu nên đọc cuốn nào trước, tôi hỏi.

- Đọc cuốn nào trước, cuốn nào sau không quan trọng; điều quan trọng là anh lãnh hội được những gì. Có điều, như tôi đã nói, mục đích đọc sách của anh là kiếm ra phương thức thực nghiệm để phát triển nội lực, năng lực nơi mình. Theo tôi nhận thấy, tập bản thảo chỉ ghi lại những điều cốt yếu nơi hành trình suy tư, nghiệm chứng của một người trong diễn trình nhận thức về thực thể hiện hữu của người đó. Nói cho đúng ngôn từ, điều diễn xuất trong tập bản thảo viết về diễn trình và nguyên tắc suy nghĩ nơi phương diện tâm linh. Tôi không muốn nói nhiều về nó bởi nếu nói ra sẽ có thể chặn đứng suy nghĩ, hoặc ảnh hưởng nhận thức của anh. Đó là điều tối kỵ bởi nhận thức của tôi không phải là nhận thức của anh. Sự thể này cũng giống như trái ớt, đối với người này thì cần thiết và ngon, nhưng đối với những người không ăn được ớt thì sao. Do đó, tôi nghĩ, sau khi đọc xong những cuốn sách, hãy đọc tập bản thảo. Tuy nhiên, anh cũng nên nhận định cho rõ, quan điểm và nhận định của bất cứ tác giả nào đều không phải là của anh, nhưng suy nghĩ và đặt mình vào trường hợp và vị thế cũng như trạng thái nhận định của tác giả hầu thăng tiến nhận thức của anh mới quan trọng. Tôi muốn nói, sách vở chỉ là phương tiện giải thích cách nấu và sự lợi ích cũng như nguy hại hoặc mùi vị của món canh rau đay nấu với mướp, chứ không thể khiến cho anh no bụng và cảm nhận được hương vị ngon ngọt lúc ăn. Nên phân biệt, ăn món canh và đọc hoặc nghe giải thích về cách nấu cũng như sự bổ ích của món canh là hai thực thể hoàn toàn khác nhau. Đọc mà không suy nghĩ, không thực nghiệm để áp dụng thành của mình chẳng khác gì đọc sách các chiêu thức võ học mà không luyện tập, thực hành. Nói vậy quá đủ, bởi có nói thêm chỉ làm hại anh mà thôi.

Trên cùng của chồng sách là cuốn Tân Ước nhỏ, được in ra để phát cho những người lính nơi chương trình “Mỗi quân nhân một Tân Ước.” Tôi cũng có một cuốn; hơn nữa, tôi là người Công giáo; từ nhỏ cho tới lớn, tôi theo học tại các trường Công giáo. Đặc biệt hơn, nơi bậc trung học, tôi theo học nơi tiểu chủng viện thì hằng ngày đi lễ, nghe các cha giải thích Phúc âm đến chán cả tai; thế sao nó lại được đặt nơi đây làm một trong những mục tiêu tôi cần phải tìm hiểu. Nghĩ thế, tôi hỏi,

- Thưa bác là người Kytô giáo?

- Không, tôi theo đạo Cao Đài.

- Cháu theo đạo Công giáo, lại cả đời học hành nơi trường Công giáo, hơn nữa, còn học trong chủng viện Công giáo, nghe các cha giảng giãi nên quá quen với cuốn Tân Ước, sao còn cần phải đọc nó?

- Tôi biết anh là người Công giáo, và hầu như cả đời theo học nơi những trường Công giáo. Nhưng hãy nói cho tôi làm sao có thể áp dụng vào cuộc đời mình câu nói, “Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham với Nước Thiên Chúa”? Hoặc câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta không đáng là môn đệ Ta”? Đức Giêsu dạy anh bất hiếu hoặc trở thành người cha bỏ bêgia đình, con cái à? Những câu ấy nói gì về sự việc nào trong cuộc đời anh; áp dụng thế nào vào hành trình thăng tiến nơi anh; đó mới là vấn đề, và chỉ anh có thể trả lời cho chính anh. Tôi hy vọng, những cuốn sách này sẽ đem lại cho anh lợi ích không nhỏ, nhưng tất cả đều tùy thuộc suy tư, nhận thức nơi anh. Và như anh đã nói thế, tôi nghĩ, tốt nhất, cuốn Tân Ước anh nên đọc sau cùng.

- Cảm ơn bác, nếu có gì khúc mắc, nhờ bác chỉ bảo. Thôi, từ giờ, cháu bắt đầu đọc, hy vọng trong một tháng, cháu sẽ đọc hết.