← Quay lại trang sách

CHƯƠNG XXVIII

GIỜ THÌ CHỈ CÒN VÀI TUẦN NỮA THÔI là mẹ sẽ thấy tôi đeo lon thiếu úy và người ta có thể hình dung ra cả hai mẹ con tôi hồi hộp chờ cái ngày chúng tôi được vào quân ngũ như thế nào. Chúng tôi vội lắm: bệnh tiểu đường của mẹ càng ngày càng trầm trọng và, dù các bác sĩ đã cố kê đủ loại chế độ dinh dưỡng, lượng đường trong máu mẹ vẫn có lúc tăng cao hết sức nguy hiểm. Một lần nữa, mẹ bị hôn mê do insulin ngay tại chợ Buffa, và chỉ hồi tỉnh trên quầy rau của ông Pantaleoni khi ông ấy nhanh tay đổ nước đường vào miệng mẹ. Cuộc chạy đua với thời gian của tôi bắt đầu trở nên tuyệt vọng, văn của tôi chịu ảnh hưởng rất rõ từ điều này. Với quyết tâm gióng lên hồi chuông kỳ diệu nào đó khả dĩ khiến cả thế giới câm lặng vì thán phục, tôi ép giọng mình vượt quá khả năng; nhắm vào điều gì đó cao cả, tôi không tránh khỏi sự cay cú và thói kênh kiệu; nhón chân lên để khoe với tất cả mọi người tầm vóc của mình, tôi chỉ để lộ ra tham vọng của mình; quyết tâm chứng tỏ tài năng, tôi chỉ có thể tỏ ra bất tài. Khi bị dao kề cổ thì khó mà hát cho đúng. Trong chiến tranh, được mời nhận xét một trong những bản thảo của tôi khi người ta tưởng tôi đã chết, Roger Martin du Gard đã không sai khi cho tôi là một “chú cừu non phát khùng”. Chắc mẹ đoán ra tôi đang nỗ lực trong lo sợ nên làm mọi cách để giúp đỡ tôi. Trong khi tôi trau chuốt những câu văn của mình thì mẹ phải vật lộn với nhân viên, với các hãng du lịch, với đám hướng dẫn viên, đương đầu với những khách hàng đồng bóng; trong khi tôi đòi cảm hứng bộc lộ trong tôi bằng một chủ đề sâu sắc và độc đáo nào đó khiến người ta ngất ngây thì mẹ lo âu canh chừng để không có gì đến quấy nhiễu cảm hứng sáng tạo của tôi. Tôi viết những dòng này mà không hề xấu hổ, không hề hối hận cũng không hề oán ghét bản thân: tôi chỉ làm mỗi việc là nghiêng mình trước ước mơ của mẹ, trước lẽ sống và lẽ đấu tranh duy nhất của mẹ. Mẹ muốn trở thành một nghệ sĩ vĩ đại còn tôi thì cố gắng hết mình. Vì vội làm cho mẹ yên tâm và chứng tỏ cho mẹ thấy giá trị của mình, nhưng trên hết, có lẽ là để tự trấn an và tìm cách thoát khỏi sự kinh hoàng đang chiếm lấy mình, thỉnh thoảng tôi xuống bếp, nơi tôi thường xuất hiện đúng lúc để chen ngang vào cuộc cãi cọ gay cấn giữa mẹ và bếp trưởng, rồi lập tức đọc cho mẹ nghe đoạn văn chưa ráo mực mà tôi tâm đắc. Mẹ nguôi giận ngay, vẻ bề trên ra hiệu cho bếp trưởng im lặng và chú ý, rồi lắng nghe tôi đọc, vẻ rất vừa lòng. Đùi mẹ đã lỗ chỗ vết kim tiêm. Mỗi ngày hai lần, mẹ ngồi vào một góc, miệng ngậm thuốc lá, chân bắt tréo, cầm cái xi lanh insulin rồi chọc thẳng vào thịt da, miệng vẫn giao việc cho nhân viên. Như thường lệ, với nghị lực phi thường, mẹ lo cho việc kinh doanh được suôn sẻ, không bao giờ bỏ bê công việc, cố gắng học thêm tiếng Anh để có thể xoay xở dễ dàng hơn với những sở thích, lo âu vô căn cứ, ý ngông và tính khí bất thường của các vị khách từ bên kia biển Manche tới. Những cố gắng để tỏ ra dễ mến, niềm nở, luôn đồng tình với du khách đủ mọi hạng của mẹ trái ngược hoàn toàn với bản chất chẳng kiêng nể ai và bốc đồng trong bà, vì vậy càng khiến tình trạng căng thẳng của bà trở nên trầm trọng hơn. Mỗi ngày mẹ hút hết ba gói Gauloise. Đúng là mẹ không bao giờ hút hết một điếu thuốc, mới châm lửa bà đã dụi đi rồi châm ngay điếu khác. Mẹ đã cắt từ một tạp chí bức ảnh duyệt binh rồi đưa cho khách hàng, đặc biệt là các khách hàng nữ xem, cho họ chiêm ngưỡng bộ quân phục đẹp đẽ mà vài tháng nữa tôi sẽ được mặc. Tôi khó mà xin được mẹ cho phép tôi giúp đỡ bà ở nhà hàng, phục vụ bàn ăn, đưa bữa điểm tâm lên các phòng như trước đây tôi đã từng làm: mẹ thấy những công việc đó không thích hợp với cương vị sĩ quan của tôi. Mẹ thường tự tay xách lấy va li của khách và cố đẩy tôi ra khi tôi định giúp mẹ. Mặc dù thế, với một niềm vui mới và đôi khi với nụ cười gần như hoan hỉ mỗi lần nhìn tôi, rõ ràng là mẹ có cảm giác đã chạm đến đích, rõ ràng là mẹ không thể tưởng tượng trong đời mình lại có một ngày nào đẹp hơn cái ngày mà tôi trở về Khách sạn-Nhà nghỉ Mermonts, trên người mặc bộ quân phục nổi tiếng.

Tôi nhập ngũ tại Salon-de-Provence vào ngày bốn tháng Mười một năm 1938. Tôi ngồi trên con tàu chở tân binh, có rất đông người thân và bạn bè tiễn thanh niên ra ga, nhưng chỉ có mẹ tôi là cầm lá cờ tam tài phất liên tục, thỉnh thoảng hô vang “Nước Pháp muôn năm!”, khiến một số người nhìn tôi vẻ chống đối hay nhạo báng. “Lớp lính” nhập ngũ lần đó bộc lộ rõ sự thiếu nhiệt tình và niềm tin sâu sắc, những sự kiện năm 40 hẳn lý giải được trọn vẹn điều ấy, họ như bị ép phải tham gia “cuộc chơi của những kẻ ngu xuẩn”. Tôi còn nhớ một anh tân binh, nổi cáu vì những biểu hiện yêu nước cực đoan và quân phiệt của mẹ tôi, những biểu hiện trái ngược với truyền thống chống chủ nghĩa quân phiệt tốt đẹp đang thịnh hành vào thời đó, đã càu nhàu:

– Cái mụ ấy, rõ ràng mụ ta không phải là người Pháp.

Vì bản thân cũng bực mình và phẫn nộ trước hành động bồng bột trơ trẽn của bà già cầm cờ tam tài nên tôi thấy vui mừng khi được lấy lời nhận xét này làm cớ để húc đầu vào gã đối diện một cái ra trò hòng cho mình được nhẹ lòng. Vụ xô xát lập tức lan ra, đâu đâu cũng nghe những tiếng kêu “đồ phát xít”, “đồ phản bội”, “đả đảo quân đội” trong khi con tàu bắt đầu rung chuyển, lá cờ tam tài được phất lên phía trên bậc thềm một cách tuyệt vọng còn tôi thì tranh thủ ló ra cửa tàu và giơ tay chào, trước khi kiên quyết lại xông vào mớ nhốn nháo trời cho mà nhờ đó tôi mới có thể thoát khỏi giờ phút chia tay.

Khi đã nhập ngũ những thanh niên có bằng tốt nghiệp Lớp sĩ quan dự bị cao cấp được đưa đến Trường Không quân Avord. Tôi được giữ lại Salon-de-Provence gần sáu tuần. Tôi có hỏi thì các sĩ quan và hạ sĩ quan chỉ nhún vai: chưa có chỉ thị nào liên quan đến tôi. Tôi viết hết đơn này đến đơn khác gửi lên cấp trên, đơn nào cũng bắt đầu bằng “Tôi viết đơn này kính xin…” như người ta đã bày cho tôi. Không có hồi đáp. Cuối cùng, một trung úy rất tốt bụng, trung úy Barbier, đã để ý đến trường hợp của tôi và kháng nghị cùng với tôi. Tôi được dẫn đến Trường Không quân Avord, muộn một tháng trong khi khóa học chỉ kéo dài ba tháng rưỡi. Tôi không để việc phải bắt kịp khoảng thời gian chậm trễ này làm mình nản chí. Tôi đã ở đây, cuối cùng thì tôi cũng đã ở đây. Tôi bắt đầu học hành với tinh thần hăng say mà tôi cũng không ngờ mình có được, và, ngoài một vài khó khăn trong môn lý thuyết com pa, tôi đuổi kịp các bạn cùng lớp, không đặc biệt xuất sắc trong những môn học linh tinh ngoài các thao tác trên không như đúng tên gọi thực sự của nó và công tác chỉ huy trên mặt đất, ở lĩnh vực này, tôi bỗng phát hiện thấy ở mình toàn bộ quyền uy của mẹ trong mỗi cử chỉ, lời nói. Tôi mừng lắm. Tôi rất thích máy bay, nhất là máy bay của thời đã qua ấy, máy bay hồi đó còn dựa vào con người, cần đến con người chứ không có vẻ phi nhân cách như máy bay bây giờ khi người ta cảm thấy máy bay không người lái chỉ là vấn đề thời gian. Tôi yêu mến hàng giờ dài chúng tôi trải qua trên sân tập trong bộ áo liền quần bằng da - xỏ được nó vào mình, người ta tưởng như đã trải qua tất cả những khó khăn cực nhọc trên đời -, lội bì bõm trong bùn Avord, mình mặc đồ da, đầu đội mũ cát, tay đeo găng, trán quàng kính, chúng tôi leo vào khoang những chiếc máy bay hiệu Potez-25 dũng mãnh, nom chúng giống như những con ngựa Percheron, thơm mùi dầu ô liu mà đến giờ tôi hãy còn nhớ da diết. Các bạn hãy tưởng tượng cảnh một sĩ quan tập sự trườn nửa người ra khỏi khoang chiếc máy bay cúc cu đang bay với vận tốc một trăm hai mươi kilômét một giờ, hay đứng trước mũi máy bay, dùng tay hướng dẫn cho viên phi công đang điều khiển chiếc máy bay hai lớp cánh hiệu Léo-20, kiểu máy bay này có những cái cánh dài màu đen đập gió với tất cả sự duyên dáng của một con bọ rùa già nua, các bạn sẽ hiểu trước khi xảy ra sự kiện Messerschmidt-110 một năm và trận đánh Anh quốc mười tám tháng, mảnh bằng quan sát viên hàng không đã chuẩn bị cho chúng tôi một cách chu đáo và hiệu quả theo kiểu cuộc chiến tranh năm 1914, mà kết quả của cuộc chiến này thì các bạn đã biết.

Thời gian qua nhanh với những trò giải trí này, và cuối cùng, cũng sắp đến ngày trọng đại, cái ngày chúng tôi phải ra “giảng đường quân đội đồn trú”, nơi chúng tôi được trịnh trọng thông báo cấp bậc tốt nghiệp và vị trí bổ dụng.

Anh thợ may quân đội đã đi hết các phòng lính và quân phục của chúng tôi đã sẵn sàng. Để trang trải chi phí quân bị cho tôi, mẹ gửi cho tôi năm trăm quan mượn của ông Pantaleoni ở chợ Buffa. Gay go nhất đối với tôi vẫn là mũ cát két. Mũ cát két có thể được đặt với hai kiểu lưỡi trai: kiểu ngắn và kiểu dài. Tôi không tài nào quyết định nổi. Kiểu lưỡi trai dài thì giúp tôi nom có vẻ ác chiến hơn, vẻ này rất độc, nhưng lưỡi trai ngắn lại hợp với tôi hơn. Tuy nhiên rốt cuộc tôi cũng chọn cho mình vẻ ác chiến. Sau hàng nghìn lần thử mất công tốn sức, tôi đã tự thiết kế cho mình một bộ ria mép rất được phi công thời ấy ưa chuộng cùng với đôi cánh mạ vàng trên ngực - suy cho cùng thì người ta có thể tìm thấy thứ đẹp hơn ở chợ, tôi không phủ nhận, nhưng tôi không hề thấy phật lòng chút nào, còn lâu mới thế.

Buổi tiếp quân đội đồn trú diễn ra trong bầu không khí rộn ràng vui vẻ với những dự đoán. Tên các đơn vị quân đội đồn trú được viết lên bảng đen - Paris, Marrakech, Meknès, Maison Blanche, Biskra… Theo xếp loại tốt nghiệp, học viên có thể lựa chọn. Lính nào tốt nghiệp loại giỏi thì chọn Maroc như thường lệ. Tôi khao khát xếp loại khá khẩm một chút để có thể được bổ dụng về miền Nam, hòng được về Nice thường xuyên hết mức có thể mà ôm mẹ tôi ra mắt thiên hạ trên đại lộ Promenade des Anglais và ở chợ Buffa. Căn cứ không quân tại Faience có vẻ thích hợp với ý đồ của tôi nhất, và, khi học viên lần lượt đứng dậy bày tỏ nguyện vọng của họ, tôi lo lắng rình rập căn cứ không quân này trên bảng.

Tôi tràn trề hy vọng có được cấp bậc như mong muốn nên tin tưởng nghe anh đại úy đọc tên từng người.

Mười tên, năm mươi tên, bảy mươi lăm tên… Tất nhiên là tôi có nguy cơ vuột mất Faience rồi.

Chúng tôi gồm hai trăm chín mươi học viên tất cả.

Anh lính thứ tám mươi đã đớp mất Faience. Tôi lại chờ đợi. Một trăm hai mươi cái tên, một trăm năm mươi cái tên… vẫn không có gì. Những căn cứ quân sự lầy bùn và buồn chán ở miền Bắc lao về phía tôi với vận tốc đáng sợ. Thế này không được xuất sắc lắm, nhưng dù sao tôi cũng không buộc phải thú nhận với mẹ cấp bậc tốt nghiệp của mình.

Hai trăm năm mươi, hai trăm sáu mươi cái tên… Một linh cảm ghê gớm bỗng làm tim tôi buốt giá. Giờ đây tôi hãy còn cảm thấy trên thái dương mình mồ hôi lạnh bắt đầu nhỏ thành giọt… Nhưng không, đó không phải ký ức: tôi vừa lấy tay chùi giọt mồ hôi ấy, sau hai mươi năm. Phản xạ Pavlov mà, tôi nghĩ thế. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn không thể nhớ lại thời điểm tồi tệ đó mà trên thái dương không rịn mồ hôi.

Trong số gần ba trăm học viên-quan sát viên, tôi là người duy nhất không được phong sĩ quan.

Thậm chí tôi còn không được phong trung sĩ, cũng chẳng được phong viên đội, trái với thông lệ và ngược với quy định, tôi chỉ được phong hạ sĩ.

Những giờ phút tiếp theo lễ phong cấp bậc cho lính đồn trú, tôi vật vã trong cơn ác mộng, trong cảm giác mịt mù ghê gớm. Tôi đứng ở cửa, bạn bè trong lớp vây quanh tôi, im lặng và ngao ngán, cố gắng hết sức tôi mới đứng vững được, mới giữ được gương mặt người, mới không khụy xuống. Thậm chí tôi còn nghĩ khi ấy mình mỉm cười.

Thông thường vì lý do kỷ luật thì chỉ huy mới bắt một học viên có bằng Sĩ quan dự bị cao cấp và đã kết thúc khóa tập huấn phải trả giá đắt như thế. Có hai học viên lái đã bị “đình chỉ” vì lý do này. Nhưng đó không thể là trường hợp của tôi: tôi không hề bị phê bình. Đúng là tôi đã bỏ mất phần đầu khóa tập huấn, nhưng đó là việc ngoài ý muốn của tôi, vả lại chỉ huy lữ đoàn tôi, trung úy Jacquard, một cựu sinh viên Saint-Cyr[*] lạnh lùng nhưng tốt bụng, đã nói với tôi, và sau này đã khẳng định bằng thư cho tôi, rằng dù các cấp chỉ huy gửi tôi đến Avord muộn, nhưng tôi vẫn hoàn toàn đủ điểm để được phong cấp bậc sĩ quan. Chuyện gì đã xảy ra? Chuyện gì đang xảy ra vậy? Tại sao người ta lại giữ tôi sáu tuần ở Salon-de- Provence, bất chấp cả quy định?

[*]( Trường võ bị nổi tiếng của Pháp)

Tôi đứng đó, cổ họng thắt lại, hoàn toàn mất hồn trước bức tượng nhân sư lần này chỉ mang mặt người, tôi cố hiểu, cố tưởng tượng, cố diễn giải, trong khi bạn bè cùng khóa im lặng hay phẫn nộ chen nhau đến bắt tay tôi. Tôi mỉm cười; tôi vẫn trung thành với chính mình. Nhưng tôi chết mất. Tôi thấy gương mặt mẹ trước mặt mình, tôi thấy mẹ tôi đứng trên bậc thềm ga Nice đang hãnh diện phất lá cờ tam tài.

Vào ba giờ chiều, khi tôi đang nằm dài trên nệm, mắt chăm chăm nhìn trần nhà, thì trung sĩ Piaille - hay Piaye? Paille? - đến gặp tôi. Tôi không quen biết gì anh ta. Trước đó tôi chưa bao giờ gặp anh ta. Anh ta không phải là nhân viên bay, thường ngồi trong phòng viết lách gì đấy. Anh ta đứng đó, trước giường tôi, tay thọc túi quần. Anh ta mặc một chiếc áo vest da. “Anh ta không được phép, tôi nghiêm khắc nghĩ bụng, áo vest da chỉ dành cho nhân viên bay?”

– Mày muốn biết vì sao mày bị đánh trượt không?

Tôi nhìn anh ta.

– Vì mày đã nhập quốc tịch. Mày mới nhập quốc tịch. Ba năm thì nhằm nhò gì. Vả lại, về lý thuyết, để được phục vụ trong phi hành đoàn thì bố mẹ phải là người Pháp hoặc đã nhập quốc tịch ít nhất mười năm rồi. Nhưng quy định này chưa bao giờ được áp dụng.

Tôi không nhớ đã nói với anh ta những gì. Có lẽ tôi đã nói “Tao là người Pháp” hay gần như thế, bởi anh ta bỗng nhiên nói với tôi, vẻ thương hại:

– Mày thật ngu ngốc.

Nhưng anh ta không bỏ đi mà tỏ ra tức tối và phẫn nộ. Có lẽ anh ta cũng giống tôi, không thể chịu đựng được bất công dưới bất kỳ hình thức nào.

– Cám ơn nhé, tôi nói.

– Người ta giữ mày một tháng ở Salon để điều tra về mày. Sau đó họ đã bàn bạc với nhau để quyết định xem sẽ cho mày vào phục vụ trong phi hành đoàn hay vào bộ binh. Cuối cùng, ở Bộ Không quân người ta đồng ý nhưng ở đây người ta lại phản đối. Họ đã đánh giá mày theo điểm phẩm chất.

“Điểm phẩm chất” là điểm quyết định, không cần giải thích, độc lập với các kỳ thi, được cho theo độ tin cậy đối với học viên, không ai có quyền kêu ca.

– Thậm chí mày cũng không được chống cãi: đó là quy định.

Tôi vẫn nằm ngửa. Anh ta đứng đó một lúc nữa. Đó là một người không biết cách thể hiện sự cảm thông của mình.

– Mày đừng giận làm gì, anh ta bảo tôi.

Rồi nói thêm:

– Kiểu gì chúng cũng thua thôi.

Đây là lần đầu tiên tôi nghe một người lính Pháp nói về quân đội Pháp như vậy: thế mà tôi cứ tưởng câu nói đó chỉ dành cho người Đức. Tôi thì tôi không cảm thấy hận thù hay hằn học, tôi chỉ buồn nôn, và để chống lại cơn buồn nôn, tôi cố nghĩ về Địa Trung Hải và những cô gái đẹp ở đó, tôi nhắm mắt ẩn mình trong vòng tay họ, nơi ấy không gì có thể tác động đến tôi, mà tôi cũng không bị chối từ bất cứ điều gì. Xung quanh tôi, gian phòng tuy trống trải nhưng tôi vẫn có bạn đồng hành. Các ông thần thuở ấu thơ mà mẹ từng khó nhọc dứt ra khỏi tôi và bà tưởng như đã bỏ được chúng ở Ba Lan hay ở nước Nga xa xôi, nay bỗng sừng sững hiện ra trước mặt tôi, trên mảnh đất Pháp mà tôi những tưởng chúng không bao giờ bén mảng tới được, và giữa xứ sở của lý trí này, tôi lại nghe tiếng cười ngớ ngẩn của chúng vang lên. Trong cái vố đau đớn mình vừa phải hứng chịu, tôi dễ dàng nhận ra bàn tay của Totoche, thần ngu dốt, kẻ hẳn đã sớm biến Hitler thành chủ nhân của cả châu Âu, và mở cửa đất nước đón chào những cỗ xe tăng Đức sau khi đã thuyết phục Bộ Tham mưu của chúng ta rằng thuyết quân sự của vị đại tá de Gaulle nào đó chỉ là thứ lộn xộn không nuốt nổi. Đặc biệt tôi nhận ra Filoche, thần tiểu tư sản, biểu tượng của sự tầm thường, sự khinh bỉ và những định kiến, điều khiến tôi đau xé ruột gan là vị thần này để hợp với hoàn cảnh lại mặc bộ quân phục và đội mũ cát két có đính lon Không Quân của chúng ta. Bởi vì, như mọi khi, tôi không thể biết trong nhân loại những người nào là kẻ thù của mình. Một cách mơ hồ và khó lý giải, tôi cảm thấy mình là đồng minh và là người bảo vệ những kẻ này dù chúng đã đánh tôi từ phía sau lưng. Tôi hoàn toàn hiểu hoàn cảnh xã hội, chính trị và lịch sử đã khiến mình nếm mùi sỉ nhục, và, nếu tôi quyết tâm chống lại tất cả những độc tố này, thì đó là bởi tôi mong ngóng một chiến thắng cao cả hơn. Tôi không biết trong mình có yếu tố nguyên sơ, tà giáo nào đang ngủ yên hay không, nhưng mỗi khi bị khiêu khích tí chút thôi là tôi luôn hướng về phía ngoài, nắm tay siết lại; tôi nỗ lực tối đa để vẻ vang giữ vị trí của mình trong sự phản kháng già nua của chúng ta; tôi thấy cuộc đời như một cuộc chạy tiếp sức lâu lắc trong đó mỗi người, trước khi ngã xuống, luôn phải mang theo thách thức làm người đi xa hơn; tôi không nhận ra bất kỳ đặc tính nào có thể gọi là cuối cùng trong những hạn chế về sinh học, về trí tuệ, về thể chất của chúng ta; hy vọng của tôi thì gần như vô hạn; tôi tin tưởng vào kết cục của cuộc đấu tranh đến mức máu đồng loại thỉnh thoảng bắt đầu ngân nga trong lòng tôi và với tôi tiếng ầm ầm của người anh em Đại dương dường như trào ra từ tĩnh mạch tôi; thế là tôi thấy vui sướng, thấy hy vọng trào lên và thấy tin chắc vào chiến thắng, đến nỗi mà, trên mảnh đất còn đầy kiếm gãy khiên vỡ, tôi như thấy mình vẫn đang ở buổi đầu của cuộc chiến đầu tiên. Có lẽ điều ấy xuất phát từ một sự ngớ ngẩn hay ngây thơ, sơ đẳng, sơ khai nhưng không thể cưỡng lại được, tôi giống mẹ tôi ở điểm này, tôi hoàn toàn nhận thức được điều đó, nó khiến tôi phát khùng nhưng không thể làm gì chống lại nó, nó khiến tôi khó mà thất vọng nổi. Có thể nói tôi không bao giờ thất vọng được và tôi buộc phải giả vờ. Một tia sáng của niềm tin và của sự lạc quan di truyền luôn âm ỉ trong lòng tôi, và để nó cháy bùng lên, chỉ cần bóng tối xung quanh tôi dày đặc hơn. Dù người ta ngu dốt một cách thê lương, dù bộ quân phục sĩ quan Pháp có thể làm tổ cho thói ti tiện và sự dốt nát, dù bàn tay con người, bàn tay người Pháp, người Đức, người Nga, người Mỹ, bỗng lộ ra bẩn thỉu một cách kỳ lạ, thì dường như với tôi bất công lại đến từ một nơi khác, và tôi thấy con người càng trở thành nạn nhân hơn khi họ chính là công cụ. Trong mớ nhốn nháo chính trị và quân sự đó, tôi luôn mơ được chung chiến hào với chính kẻ thù của mình. Vì vị kỷ mà tôi hoàn toàn không có khả năng lao vào những cuộc chiến huynh đệ tương tàn, tôi không thấy mình có thể tước được thắng lợi nào từ tay những người về cơ bản đang cùng chung số phận với tôi. Tôi cũng không thể hoàn toàn là một con vật chính trị bởi vì tôi luôn nhận ra chính tôi trong số những kẻ thù của mình. Đó là một sự tàn phế thực thụ.

Tôi nằm dài ở đó, ưỡn căng mình trong tuổi trẻ, và mỉm cười, giờ tôi hãy còn nhớ là lúc ấy, một nhu cầu thể xác mạnh mẽ nào đó nhấc bổng người tôi lên và trong hơn một tiếng đồng hồ, tôi chống lại tiếng gọi hoang sơ của máu mình.

Còn những vị đại úy đẹp mã và cú đâm của họ, tôi đã gặp lại họ năm năm sau đó, họ vẫn làm đại úy, nhưng không đẹp như trước nữa. Trên ngực họ không có tấm huân chương nào, họ nhìn vị đại úy đối diện đang tiếp họ trong phòng làm việc của anh ta với thái độ rất lạ. Khi đó tôi đã được thưởng Huân chương Giải phóng, Bắc đẩu Bội tinh hạng Kỵ sĩ và Huân chương Chiến tranh, tôi cần gì phải giấu giếm: tôi dễ đỏ mặt vì giận dữ hơn là vì khiêm nhường. Tôi nói chuyện với họ một lúc, gợi lại những kỷ niệm ở Avord - những kỷ niệm vô hại. Tôi không ác tâm gì với họ. Giờ thì họ đã chết và được chôn cất từ lâu rồi.

Thất bại của tôi tạo ra một hậu quả khác khá bất ngờ, đó là từ thời điểm ấy, tôi cảm thấy mình là người Pháp đích thực, như thể cây gậy thần phang vào trán đã khiến tôi thật sự bị đồng hóa.

Cuối cùng tôi cũng nghĩ rằng người Pháp không phải là một chủng tộc đặc biệt, họ cũng chẳng hơn gì tôi, họ cũng có thể ngu dốt và nực cười - tóm lại chúng tôi là anh em với nhau, không ai có thể chối cãi.

Cuối cùng tôi cũng ngộ ra rằng nước Pháp được tạo ra từ hàng nghìn gương mặt, có những gương mặt đẹp và những gương mặt xấu, thanh cao và gớm ghiếc, tôi phải chọn gương mặt nào giống với mình nhất. Tôi ép mình trở thành một con vật chính trị mà hoàn toàn không thành công. Tôi chọn lập trường, chọn những điều mà mình trung thành, tin tưởng, không để cờ tổ quốc khiến mình mù quáng nhưng tìm cách nhận ra gương mặt của người mang nó.

Nhưng vẫn còn mẹ tôi.

Tôi không quyết định được có nên báo cho mẹ biết thất bại của mình hay không. Tôi tự nhắc đi nhắc lại một cách vô ích là mẹ đã quen nhận những cú đá vào mặt, dù sao thì tôi cũng tìm cách nương chân đá mẹ như thế. Chúng tôi có tám ngày nghỉ trước khi trở lại đơn vị, thế là không quyết định mà tôi vẫn lên tàu. Khi đến Marseille, tôi muốn xuống tàu, đào ngũ, leo lên tàu chở hàng để nhập Lính lê dương, rồi biến đi mãi mãi. Cứ nghĩ đến gương mặt hao mòn, nhăn nheo, nghĩ đến đôi mắt tròn xoe ngước lên nhìn tôi, vẻ rụng rời và khó hiểu, là tôi không thể chịu nổi. Tôi buồn nôn, may mà kịp lê người vào phòng vệ sinh. Từ Marseille đến Cannes, tôi nôn như chó. Chỉ đến khi cách cổng ga Nice mười phút tôi mới đột nhiên nảy ra một ý tưởng thật sự. Lúc này điều cần phải chừa ra bằng mọi giá là hình ảnh nước Pháp “tổ quốc của tất cả những điều công bằng và những gì đẹp đẽ “trong tâm trí mẹ tôi”. Tôi quyết tâm làm như thế, bằng bất cứ giá nào. Nước Pháp phải được nương tay - mẹ tôi không thể chịu nổi nỗi thất vọng đến mức ấy. Vì hiểu mẹ như tôi đã từng hiểu, tôi nghĩ ra một lời nói dối rất đơn giản, rất dễ chấp nhận, không những an ủi được mẹ mà còn làm cho niềm tin cao cả của mẹ đối với tôi thêm vững chắc.

Khi đến phố Dante, tôi thấy lá cờ tam tài phấp phới trên mặt trước vừa mới sơn lại của Khách sạn-Nhà nghỉ Mermonts. Dù thế, hôm đó không phải là ngày quốc khánh: chỉ cần liếc qua mặt tiền trống trơn của những ngôi nhà bên cạnh cũng đủ biết điều này.

Bỗng nhiên, tôi hiểu lá cờ ấy muốn nói điều gì: mẹ tôi đã treo cờ để mừng đứa con trai mới được thăng cấp bậc thiếu úy Không Quân về nhà.

Tôi bảo taxi dừng lại. Vừa trả tiền xong tôi đã lại phát ốm ngay. Tôi thở sâu, chân mềm nhũn cố đi nốt quãng đường còn lại.

Mẹ chờ tôi ở tiền sảnh khách sạn, sau cái quầy nhỏ cuối phòng.

Liếc qua bộ quân phục lính quèn, với lon hạ sĩ đỏ chót mới vá vào vai áo, mẹ tôi há hốc miệng rồi nhìn tôi bằng ánh mắt thú tính câm lặng không hiểu gì, ánh mắt mà tôi chưa bao giờ chịu đựng nổi ở đàn ông, thú vật hay trẻ em… Tôi đội sụp chiếc mũ cát két xuống mắt, ra vẻ cứng rắn, cười một cách bí ẩn rồi vừa mới ôm hôn mẹ tôi đã nói:

– Mẹ lại đây. Con có chuyện này kỳ lắm. Nhưng không nên để người ta nghe thấy.

Tôi kéo mẹ vào quán ăn của khách sạn, tới góc quen thuộc của chúng tôi.

– Con không được phong thiếu úy. Trên tổng số ba trăm người chỉ mình con không được phong. Biện pháp kỷ luật tạm thời…

Gương mặt đáng thương của mẹ chờ đợi, tin tưởng, sẵn sàng tin, sẵn sàng chấp thuận…

– Biện pháp kỷ luật. Con phải chờ sáu tháng. Mẹ thấy đấy…

Liếc mắt nhìn để xem mẹ có lắng nghe hay không.

– Con đã quyến rũ vợ của Chỉ huy Trường. Con đã không làm chủ được mình. Lính tùy tùng đã tố giác con. Ông chồng đòi trừng phạt…

Gương mặt đáng thương lưỡng lự một chốc. Rồi bản năng lãng mạn xưa cũ và ký ức về Anna Karenine đã chiến thắng tất cả những gì còn lại. Mẹ tôi mỉm cười, vẻ rất tò mò.

– Cô ta đẹp không?

– Mẹ không tưởng tượng được đâu, tôi chỉ nói với mẹ đơn giản thế. Con biết mình mạo hiểm như thế nào.

Nhưng con không hề ngần ngại.

– Con có ảnh cô ta không?

Không, tôi làm gì có ảnh.

– Cô ấy sẽ gửi ảnh cho con.

Mẹ nhìn tôi, chưa bao giờ mẹ hãnh diện như thế.

– Don Juan! mẹ kêu lên. Casanova! Mẹ đã bảo mà!

Tôi mỉm cười, khiêm tốn.

– Ông chồng lẽ ra có thể giết con đấy!

Tôi nhún vai.

– Cô ta yêu con thật à?

– Thật.

– Còn con?

– Ô! Mẹ biết đấy, tôi nói, vẻ tinh quái.

– Không nên thế, mẹ nói, không tỏ vẻ gì là nghiêm túc. Hãy hứa với mẹ là con sẽ viết thư cho cô ta đi.

– Ồ! Con sẽ viết thư cho cô ấy.

Mẹ tôi suy nghĩ một lúc. Trong đầu bà nảy ra ý khác:

– Người duy nhất trong tổng số ba trăm người không được phong thiếu úy! mẹ nói, vẻ thán phục và hãnh diện vô bờ.

Mẹ chạy đi lấy trà, mứt, sandwich, bánh trái. Mẹ ngồi vào bàn và hít hà sảng khoái vô cùng.

– Kể hết cho mẹ nghe đi, bà ra lệnh cho tôi.

Mẹ tôi thích những câu chuyện thú vị. Tôi đã kể cho bà nghe rất nhiều.