CHƯƠNG XXX
SƯ ĐOÀN HUẤN LUYỆN CỦA TÔI được chuyển đến Bordeaux–Mérignac và mỗi ngày, tôi phải huấn luyện bay trên chiếc Potez-540 năm đến sáu tiếng đồng hồ. Tôi sớm được phong quân hàm trung sĩ, đồng lương cũng đủ tiêu, nước Pháp cầm cự tốt và tôi cùng quan điểm với đồng đội của mình, đó là phải tận hưởng cuộc sống và có những giây phút dễ chịu bởi chiến tranh sẽ không kéo dài mãi được. Tôi có một căn phòng ở thành phố và ba bộ pyjama bằng lụa mà tôi rất hãnh diện. Trong mắt tôi, ba bộ quần áo này là biểu hiện của cuộc sống xa xỉ và khiến tôi có cảm giác rằng sự nghiệp làm người thượng lưu của mình đang ngày càng tiến triển theo chiều hướng thuận lợi; một cô bạn cùng lớp ở Trường Luật đã cố tình ăn cắp ba bộ quần áo đó để tặng tôi, sau khi một cửa hàng lớn, nơi chồng chưa cưới của cô làm việc, bị hỏa hoạn. Quan hệ giữa tôi và Marguerite hoàn toàn trong sáng và vì thế, luân lý đã được tuân thủ triệt để. Những bộ pyjama đó hơi bị sém, mãi vẫn ám mùi cá hun khói, nhưng có phải cứ muốn cái gì là được cái ấy đâu. Thỉnh thoảng, tôi cũng tự tặng cho mình một hộp xì gà, thời gian đó tôi đã có thể hút thuốc mà không buồn nôn, điều này khiến tôi rất an lòng vì nó chứng tỏ rằng tôi thực sự đang trở nên dạn dày. Nói chung là cuộc đời tôi đang dần lộ diện. Dù thế, hồi ấy tôi đã bị một tai nạn máy bay khá nghiêm trọng, suýt nữa thì mất mũi, và giả sử mũi tôi có làm sao thì tôi khó mà tự an ủi mình được. Tất nhiên, đây là lỗi của những người Ba Lan. Quân đội Ba Lan thời kỳ đó không được lòng dân Pháp cho lắm: người ta hơi khinh họ bởi vì họ từng bại trận. Họ đã thua liểng xiểng và thế là người ta không giấu giếm chuyện người ta nghĩ sao về họ. Hơn nữa, nạn gián điệp đang bắt đầu hoành hành, như ở tất cả các tổ chức xã hội bệnh hoạn, và mỗi lần có một người lính Ba Lan châm thuốc lá là người ta lập tức buộc tội anh ta đang trao đổi mật hiệu ánh sáng với kẻ thù. Vì rất giỏi tiếng Ba Lan nên tôi phải làm phiên dịch viên trong những chuyến bay có hai nhóm điều khiển, cốt để cho các phi hành đoàn Ba Lan làm quen với thiết bị bay của chúng tôi. Đứng giữa hai phi công, tôi dịch những lời khuyên và những mệnh lệnh của huấn luyện viên người Pháp. Kết quả của thứ công việc trên không độc đáo này không được như mong đợi. Khi hạ cánh, viên phi công người Ba Lan tiếp đất mất nhiều thời gian quá, thế là huấn luyện viên hoảng hốt hét lên với tôi:
– Mày nói với thằng ngốc này là nó sẽ bị hất ra ngoài đấy! Bảo nó dận ga lại đi!
Tôi dịch ngay. Tôi có thể khẳng định, lương tâm thanh thản, là mình không mất một giây khi nói:
– Prosze dodac gazu bo za chwile zawalimy sie w drzewa na koncu lotniskai
Khi tôi định thần lại thì máu đã chảy đầy mặt tôi rồi, đám y tá cúi xuống chúng tôi, và thượng sĩ nhất người Ba Lan, trong tình trạng thảm hại nhưng luôn luôn lịch sự, cố chống khuỷu tay ngồi dậy để xin lỗi viên phi công Pháp:
– Za pozni mi pan przytlumaczyl!
– Anh ấy nói… tôi ấp úng.
Viên chánh đội, cũng trong tình trạng sức khỏe nguy khốn, kịp thì thào với chúng tôi:
– Mẹ kiếp! rồi ngất xỉu.
Tôi dịch một cách trung thành, sau đó, khi nhiệm vụ hoàn thành thì tôi buông xuôi. Mũi tôi bị dập, nhưng ở bệnh xá, những chấn thương bên trong được đánh giá là không nghiêm trọng lắm. Ở đây người ta đã nhầm. Tôi bị đau mũi suốt bốn năm trời và tôi đã phải giấu tình trạng của mình cùng những cơn đau nửa đầu khủng khiếp luôn hành hạ tôi không ngớt để tránh bị gạch tên khỏi danh sách nhân viên bay. Mãi đến năm 1944 mũi của tôi mới được làm lại hoàn toàn trong một bệnh viện thuộc Không lực Hoàng gia Anh. Nó không còn là tuyệt tác có một không hai như trước đây nữa, nhưng nom nó rất hợp, và tôi hoàn toàn tin tưởng rằng nó sẽ bền như nó phải bền.
Ngoài những giờ tôi bay với cương vị hoa tiêu, xạ thủ súng máy và phi công ném bom, đồng đội còn thường nhường cho tôi cầm lái trên không, nên mỗi ngày tôi được lái trung bình một tiếng. Song thật không may, những giờ phút quý báu đó lại chẳng được coi là chính thức, thậm chí còn không được ghi vào nhật ký bay của tôi. Thế là tôi lén lút ghi một cuốn nhật ký khác, thận trọng hợp pháp hóa từng trang bằng con dấu của sư đoàn, nhờ sự giúp đỡ ân cần của viên trưởng phòng. Tôi tin chắc là sau những tổn thất đầu tiên trong chiến tranh, quy định sẽ được nới lỏng, và những giờ bay trộm của tôi, khoảng trên dưới một trăm, sẽ cho phép tôi trở thành phi công chiến đấu.
Ngày bốn tháng Tư năm 1940, vài tuần trước khi nổ ra cuộc tiến công của quân Đức, khi tôi đang bình thản hút xì gà trên sân tập thì một anh lính chạy giấy chìa cho tôi một bức điện: “Mẹ ốm nặng, về ngay?”
Tôi đứng chôn chân tại đó, điếu xì gà ngớ ngẩn vẫn ở trên môi, khi ấy tôi mặc chiếc áo vest da, mũ cát két đội sụp xuống mắt, vẻ đau khổ, tay bỏ túi quần, trong lúc cả trái đất bỗng trở thành một chốn không người. Giờ đây đó là điều tôi nhớ nhất: một cảm giác lạ lẫm, như thể những nơi chốn quen thuộc nhất, đất đai, nhà cửa và tất cả mọi niềm tin bỗng trở thành một hành tinh xa lạ bao quanh tôi, nơi trước đó tôi chưa bao giờ đặt chân đến. Cả hệ thống cân đong đo đếm của tôi bỗng đổ sụp. Tôi hão huyền tự nhủ là những mối tình đẹp đẽ thường kết thúc tồi tệ, dù sao tôi cũng từng tin rằng mối tình của tôi rồi sẽ kết thúc tồi tệ, nhưng chỉ sau khi công bằng đã được lập lại. Việc mẹ tôi có thể qua đời trước khi tôi kịp xông lên bàn cân mà dựng lại cán cân, mà tái lập sự cân bằng và nhờ vậy mà chứng minh được một cách rõ ràng, một cách không thể bác bỏ, sự tôn nghiêm của thế giới, chứng tỏ được sự tồn tại của một ý đồ chân thật và bí mật trong lòng sự vật, việc đó đối với tôi chẳng khác nào sự phủ nhận phẩm cách khiêm nhường nhất, sơ đẳng nhất của con người, chẳng khác nào đưa ra lệnh cấm người ta thở. Tôi không cần phải nhấn mạnh với độc giả của tôi rằng thái độ ấy chứng tỏ sự trẻ trung tột độ thế nào. Giờ đây, tôi là một người có kinh nghiệm. Tôi không cần nói thêm nữa, ai cũng hiểu rồi.
Tôi phải mất bốn mươi tám giờ để về đến Nice trên một chuyến tàu chở quân nhân về phép. Tinh thần của con tàu màu xanh ghi này đang ở lúc sa sút nhất. Chính nước Anh đã kéo chúng tôi vào đó, chúng tôi phải chịu đựng đến cùng, Hitler là một gã không tồi như người ta tưởng, chưa có ai hiểu y và nhẽ ra nên nói chuyện với y, nhưng dù sao trên trời cũng có một điểm sáng: người ta đã sáng chế ra một loại thuốc mới, loại thuốc này có thể chữa khỏi bệnh lậu trong thời gian vài ngày.
Mặc dù vậy, tôi không hề tuyệt vọng. Thậm chí đến giờ tôi cũng không tuyệt vọng. Tôi chỉ làm bộ làm tịch thế thôi. Nỗ lực lớn lao nhất đời tôi luôn là làm thế nào để tuyệt vọng được hoàn toàn. Nhưng có được đâu. Khi nào trong tôi cũng có cái gì đó luôn tiếp tục mỉm cười.
Tôi đến Nice vào sáng tinh mơ và vội vàng về khách sạn Mermonts. Tôi leo lên tầng tám rồi gõ cửa. Mẹ tôi ở trong căn phòng nhỏ nhất của khách sạn: mẹ rất quan tâm đến quyền lợi của ông chủ. Tôi bước vào. Căn phòng bé xíu, hình tam giác, cái vẻ ngăn nắp và không có người ở của nó làm tôi vô cùng khiếp đảm. Tôi lao xuống tầng dưới, đánh thức người gác cổng và được biết là mẹ tôi đã được chở đến bệnh viện Saint-Antoine. Tôi nhảy lên một chiếc taxi. Về sau mấy cô y tá mới nói với tôi rằng lúc thấy tôi bước vào họ cứ ngỡ đang phải đối mặt với một cuộc tấn công có vũ trang.
Đầu mẹ tôi vùi sâu trong gối, gương mặt mẹ hốc hác, lo lắng và bối rối. Tôi ôm hôn mẹ rồi ngồi lên giường. Tôi vẫn khoác chiếc áo vest da còn chiếc mũ cát két vẫn đội sụp xuống mắt: tôi cần cái vỏ bảo vệ này. Trong lần nghỉ phép ấy, có lúc tôi ngậm một mẩu thuốc lá suốt nhiều giờ liền: tôi cần thu mình lại quanh một cái gì đó. Trên chiếc bàn đặt ở đầu giường, nổi bật trong hộp tư trang màu tím là tấm huy chương bạc có khắc tên tôi, tấm huy chương tôi đã giành được ở giải vô địch bóng bàn năm 1932. Hai mẹ con tôi ngồi bên nhau một vài giờ mà không nói gì. Sau đó mẹ bảo tôi ra kéo ri đô. Tôi bèn ra kéo ri đô. Tôi lưỡng lự một lúc rồi ngước mắt nhìn trời để mẹ không phải yêu cầu tôi làm việc đó. Tôi đứng như vậy một lúc lâu, mắt ngước nhìn trời. Đây gần như là tất cả những gì tôi có thể làm cho mẹ. cả ba chúng tôi ở đó, không nói một lời nào. Không cần quay về phía mẹ tôi mới biết bà đang khóc. Thậm chí tôi cũng không chắc có phải mẹ khóc vì tôi hay không. Rồi tôi lại ngồi lên chiếc ghế bành đối diện với giường. Tôi đã sống trên chiếc ghế này bốn mươi tám giờ. Gần như khi nào tôi cũng đội mũ, mặc áo vest và ngậm mẩu thuốc lá: tôi cần có bạn. Rồi mẹ hỏi tôi có tin gì về Ilona, cô gái người Hungary của tôi không. Tôi trả lời là không.
– Con cần có một người phụ nữ bên cạnh, mẹ nói chắc như đinh đóng cột.
Tôi nói với mẹ là đàn ông con trai đều thế cả.
– Con sẽ khó khăn hơn những người khác đấy, mẹ nói.
Hai mẹ con tôi chơi bài bơ lốt một lúc. Mẹ vẫn hút thuốc nhiều như thế, nhưng mẹ bảo tôi là các bác sĩ không cấm bà nữa. Rõ ràng là không việc gì phải tiếp tục tự làm khổ mình. Mẹ vừa hút thuốc, vừa chăm chú nhìn tôi, tôi cảm giác rất rõ là bà đang lên kế hoạch. Nhưng tôi không thể biết mẹ trù tính những gì. Bởi vì tôi tin chắc rằng đó chính là lúc lần đầu tiên mẹ có được sáng kiến của mình. Tôi bắt gặp trong mắt mẹ một biểu hiện nào đó của mưu mẹo, tôi biết rõ là mẹ có ý gì đấy trong đầu, nhưng không tài nào đoán ra được mẹ có thể đi xa đến vậy, ngay cả khi tôi hiểu mẹ hơn ai hết. Tôi nói chuyện một lúc với ông bác sĩ: ông ta biết cách trấn an. Mẹ tôi còn có thể trụ được vài năm nữa. “Bệnh tiểu đường, anh biết đấy…”, ông ta nói với tôi, vẻ thông cảm. Ngày thứ ba, vào buổi tối, tôi đi ăn ở nhà hàng Masséna và gặp một anh chàng Hà Lan, anh này đi máy bay đến Nam Phi để “tránh cuộc xâm lăng mà người Đức đang chuẩn bị”. Dù tôi không khiêu khích gì, nhưng chắc là tin vào bộ quân phục phi công của tôi, anh ta hỏi tôi liệu có thể giới thiệu cho anh ta một cô nào đó không. Nghĩ lại về chuyện này thì trong đời tôi số người từng đưa ra cho tôi lời thỉnh cầu tương tự không phải là không đáng lo. Thế mà tôi luôn nghĩ mình có vẻ cao nhã. Tôi nói với anh ta là tối nay tôi không được khỏe. Anh ta báo với tôi rằng tất cả tài sản của anh ta đã ở Nam Phi và chúng tôi sẽ đi ăn mừng sự kiện này ở nhà hàng “Mèo Đen”. Anh chàng Hà Lan là một người gan dạ; còn tôi, rượu luôn làm tôi ghê sợ, nhưng tôi biết tự kiềm chế mình. Thế là hai chúng tôi uống hết một chai whisky, rồi chuyển qua uống rượu cognac. Ngay sau đó trong quán, người ta đồn ầm lên rằng tôi là chiến binh “cự phách nhất nước Pháp”, thế là hai hay ba cựu chiến binh Thế chiến thứ nhất đi đến xin được vinh dự bắt tay tôi. Sung sướng vì được mọi người nhận ra, tôi cho chữ ký, bắt tay và chấp nhận hầu rượu mọi người. Anh chàng Hà Lan giới thiệu cho tôi cô nàng mà anh ta mới làm quen. Một lần nữa, tôi có thể đánh giá được uy tín của bộ quân phục phi công trước nhân dân lao động ở hậu phương. Con bé đề nghị giúp tôi kiếm sống trong suốt thời gian chiến tranh, bằng cách đi theo tôi từ đồn trú này đến đồn trú khác, nếu cần. Nó đảm bảo với tôi là có thể tiếp được hai mươi khách trong một ngày. Tôi cảm thấy mình suy sút và buộc tội nó muốn làm điều đó không phải vì tôi mà là vì Không Quân nói chung. Tôi nói với nó rằng nó quá viện cớ tình yêu tổ quốc và rằng tôi muốn được yêu vì chính bản thân tôi chứ không phải vì bộ quân phục của tôi. Anh chàng Hà Lan mở rượu sâm banh ăn mừng và đề nghị cầu phúc cho quan hệ của chúng tôi bằng việc đặt viên đá đầu tiên, nói theo cách nào đó. Ông chủ quán đưa thực đơn ra xin tôi ký vào, tôi đang định chiều theo ý ông ta thì thấy một ánh mắt giễu cợt nhìn mình. Gã này không mặc áo vest da, không mang huy hiệu trên ngực nhưng dù sao gã ta cũng đeo huân chương chiến tranh một sao, vào thời đó như thế đối với một lính bộ binh là được lắm rồi. Tôi trấn tĩnh một chút.
Anh chàng Hà Lan đã sẵn sàng lên giường với vợ chưa cưới của tôi, con bé này bắt tôi phải thề là hôm sau sẽ đến chờ nó ở quán Cintra. Một chiếc mũ cát két có hình đôi cánh mạ vàng, một chiếc áo vest da, một vẻ mặt dữ dằn và thế là tương lai của bạn được bảo đảm. Tôi bị cơn đau nửa đầu giày vò kinh khủng, mũi tôi như nặng tới cả ký; tôi rời hộp đêm và lao vào bóng đêm, giữa hàng nghìn bó hoa muôn màu ở chợ.
Ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa, như tôi được biết sau này, ngày nào từ sáu giờ tối đến hai giờ sáng, cô bé đầy thiện ý ấy cũng chờ viên hạ sĩ quan phi công của mình ở quán rượu Cintra.
Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn có lúc tự hỏi phải chăng mình đã bỏ lỡ mối tình lớn nhất trong đời mà không hề hay biết.
Một vài ngày sau, tôi đọc thấy tên anh chàng Hà Lan tốt bụng trong số những nạn nhân của một thảm họa máy bay ở vùng Johannesburg, điều này chứng tỏ người ta không bao giờ cất giấu nổi vốn liếng của mình một cách an toàn.
Kỳ nghỉ phép của tôi kết thúc. Tôi qua một đêm nữa trên ghế bành ở bệnh viện Saint-Antoine, và buổi sáng, khi tấm ri đô vừa hé mở, tôi lại gần mẹ chào từ biệt.
Tôi không biết phải làm sao để tả được cuộc chia tay này. Chẳng có từ ngữ nào diễn đạt nổi. Nhưng tôi đã đương đầu một cách dũng cảm. Tôi còn nhớ rất rõ những điều mẹ bày dạy tôi trong cách cư xử với phụ nữ. Mẹ tôi đã sống hai mươi sáu năm trời không có đàn ông và có thể nói là mãi sẽ như thế, tôi muốn để lại cho mẹ hình ảnh của một người đàn ông hơn là hình ảnh của một thằng con trai.
– Tạm biệt mẹ.
Tôi vừa mỉm cười vừa hôn lên má mẹ. Cái giá của nụ cười này chỉ có mẹ mới biết được, và mẹ cũng cười.
– Khi nó quay lại thì hai con cưới nhau đi, mẹ nói. Nó rất xứng với con. Nó rất đẹp gái.
Hẳn mẹ tôi đang tự hỏi là tôi sẽ như thế nào nếu không có một người đàn bà bên cạnh. Mẹ có lý: tôi chưa bao giờ quen sống cảnh đó.
– Con có ảnh của nó không?
– Đây ạ.
– Con có nghĩ là gia đình nó có tiền không?
– Con có biết gì đâu.
– Khi đi xem hòa nhạc của Bruno Walter, ở Cannes, nó không đi xe khách mà đi taxi. Gia đình nó chắc có nhiều tiền.
– Con không quan tâm đâu mẹ. Con không quan tâm.
– Trong nghề ngoại giao thì phải thường xuyên tiếp khách. Phải có người hầu, ăn mặc phải tươm tất. Bố mẹ nó phải hiểu điều đó.
Tôi cầm tay mẹ.
– Mẹ, tôi nói. Mẹ.
– Con cứ yên tâm, mẹ sẽ nói với bố mẹ nó cho, nói một cách tế nhị thôi.
– Mẹ, nào…
– Con không phải lo lắng cho mẹ. Mẹ là một con ngựa già: mẹ đã cầm cự được đến đây thì mẹ sẽ cầm cự thêm một thời gian nữa. Con bỏ mũ ra đi.
Tôi bỏ mũ ra. Mẹ đưa tay làm dấu chữ thập trên trán tôi.
– Blagoslavliayoutiebia. Mẹ cầu phúc cho con.
Mẹ tôi là người Do Thái. Nhưng điều đó không quan trọng. Phải biết diễn đạt rõ ràng. Bằng ngôn ngữ nào không quan trọng.
Tôi ra cửa. Hai mẹ con tôi mỉm cười nhìn nhau thêm một lúc nữa.
Giờ thì tôi cảm thấy hoàn toàn điềm tĩnh.
Có gì đó trong nghị lực của mẹ đã đi vào lòng tôi và ở đó mãi mãi. Đến tận bây giờ, ý chí và lòng dũng cảm của mẹ vẫn tiếp tục ám ảnh tôi và khiến cuộc sống của tôi trở nên rất khó khăn, không bao giờ cho phép tôi được tuyệt vọng.