PHẦN III CHƯƠNG XXXI
TÔI CHƯA BAO GIỜ MẢY MAY NGHĨ ĐẾN chuyện nước Pháp có thể bại trận. Tôi biết người Pháp chúng tôi đã thất trận một lần, vào năm 1870, nhưng thời ấy tôi chưa ra đời, và mẹ tôi cũng vậy. Nên đó là chuyện khác.
Ngày mười ba tháng Sáu năm 1940, khi mặt trận khắp nơi đổ vỡ, tôi trở về sau một chuyến hộ tống trên chiếc máy bay hiệu Bloch-210 và bị thương bởi một mảnh bom ở trên vùng đất Tours, giữa một trận ném bom. Vết thương nhẹ nên tôi để nguyên viên trái phá trong đùi: tôi đã hình dung ra được ngay sự hãnh diện của mẹ tôi lúc bà sờ nắn viên trái phá, trong lần tôi về phép đầu tiên. Tôi vẫn luôn giữ nó. Dù đúng là bây giờ tôi có thể cho người lấy nó ra.
Những chiến thắng sấm sét trong cuộc tiến công của quân đội Đức không tác động tới tôi là mấy. Chúng tôi đã từng chứng kiến điều đó hồi Thế chiến thứ nhất. Người Pháp chúng tôi nổi tiếng là luôn biết cách chiếm lại ưu thế vào thời điểm cuối cùng. Những cỗ xe tăng của Guderian xông qua lỗ hổng ở phòng tuyến Sedan khiến tôi thấy nực cười, tôi nghĩ đến việc Bộ Tham mưu của chúng tôi đang xoa tay ung dung chứng kiến kế hoạch bậc thầy của mình được thực hiện từng điểm một và những tên lính Đức đần độn to béo bị mắc bẫy một lần nữa. Tôi nghĩ rằng thậm chí máu tôi cũng đang lưu chuyển một niềm tin như đinh đóng cột vào số phận tổ quốc, có lẽ tôi được kế thừa niềm tin này từ những tổ tiên người Do Thái và Tác ta của mình. Các chỉ huy quân sự của tôi ở Bordeaux-Mérignac đã nhanh chóng nhận ra trong tôi những phẩm chất di truyền này như sự tôn trọng truyền thống và sự mù quáng, chính vì thế mà tôi được chỉ định tham gia một trong ba phi hành đoàn trinh thám phụ trách tuần tra phía trên các khu phố công nhân ở Bordeaux. Người ta bí mật giải thích cho chúng tôi rằng làm thế để bảo vệ thống chế Pétain và tướng Weygand, những người quyết tâm tiếp tục chiến đấu, trước đội quân thứ năm của cộng sản đang lăm le cướp chính quyền và ký kết với Hitler. Tôi không phải là nhân chứng duy nhất, và cũng không chỉ mình tôi bị lừa bằng lời bêu riếu xảo trá này: những lữ đoàn học viên-sĩ quan, trong đó có Christian Fouchet, giờ là đại sứ của chúng tôi tại Đan Mạch, đã được đặt ở các ngã ba, ngã tư thành phố để bảo vệ ông già uy nghiêm khỏi bàn tay của những kẻ cầu hòa hay những kẻ chủ trương ký hiệp ước với kẻ thù. Mặc dù thế, tôi vẫn tin chắc rằng sự khôn khéo này chẳng qua là hành động của đám thuộc hạ cấp dưới, và những người ấy đã hành động như vậy một cách bột phát, trong sự hứng khởi chính trị và tình yêu tổ quốc nhất thời. Thế là tôi lái máy bay bay tầm thấp tuần tra trên thành phố Bordeaux, cùng súng máy nạp đạn, sẵn sàng xông vào bất kỳ đám người tụ tập nào được báo. Tôi làm chuyện đó mà không hề lưỡng lự hay nghi ngờ về việc đội quân thứ năm, chúng tôi được cho là chịu trách nhiệm phá vỡ kế hoạch của đội quân này, đã thắng, cũng không hề nghi ngờ việc đội quân ấy không phải là một trong những đội quân thường đi nghênh ngang trên phố với cờ xí rợp trời mà nó len lỏi âm ỉ trong tâm hồn, ý chí và tinh thần. Tôi không tài nào tưởng tượng được rằng một vị tướng đứng đầu đội quân lâu đời nhất và vinh quang nhất thế giới lại bỗng nhiên lộ diện là một kẻ cầu hòa, một trái tim kém được tôi luyện, hoặc thậm chí là một kẻ ma mãnh sẵn sàng đặt lòng căm thù, nỗi oán hận và đam mê chính trị của mình lên trước cả số phận dân tộc. Về mặt này, vụ Dreyfus không giúp gì tôi: trước hết, Esterhazy không thực sự là người Pháp, đó là một người đã được nhập quốc tịch, hơn nữa, mục đích sâu sa của sự kiện ấy là hạ thấp danh dự của một người Do Thái và ai cũng biết rằng, trong những trường hợp đó, người ta có thể sử dụng bất cứ phương tiện nào: các vị tướng có dính vào vụ Dreyfus cứ tưởng đã làm tốt mọi việc. Tóm lại, tôi giữ niềm tin của mình nguyên vẹn cho đến phút chót và rõ ràng là tới tận bây giờ tôi vẫn không thay đổi nhiều về mặt ấy: một thất bại như thất bại ở Điện Biên Phủ, những lời thóa mạ bên lề cuộc chiến Algérie khiến tôi ngạc nhiên vì rối loạn và khó hiểu. Cho nên, mỗi khi kẻ thù tiến thêm một bước, mỗi khi có thêm một mặt trận thất thủ là tôi lại mỉm cười tinh quái rồi chờ tình hình bất ngờ xoay chuyển, chờ chiến sự nhanh chóng bớt gay go, chờ tiếng “Và xem này!” đầy mỉa mai và hùng hồn của các chiến lược gia của chúng ta - những kẻ thích đấu kiếm có một không hai. Tôi là kẻ không có khả năng tuyệt vọng, sự bất lực mang tính di truyền này tồn tại trong tôi như một dị tật mà tôi không thể làm gì để chống lại, rốt cuộc nó lại có vẻ ngoài của sự ngu dốt bẩm sinh và may mắn nào đó, có thể sánh ngang sự ngu dốt xưa kia từng thúc đẩy loài bò sát không phổi bò ra khỏi đại dương gốc, rồi không những giúp loài bò sát này hít thở, mà một ngày kia còn biến chúng thành mối nghi ngờ đầu tiên của nhân loại, mối nghi ngờ mà ngay giờ đây ta còn thấy lội bì bõm quanh ta. Tôi đã từng ngu và tôi vẫn luôn như thế - tôi giết ngu, sống ngu, hy vọng ngu, chiến thắng ngu. Tình hình chiến sự càng trở nên nghiêm trọng thì sự ngu dốt của tôi càng thăng hoa, đến mức chỉ còn thấy đó như một cơ hội đúng tầm chúng ta, và tôi mong chờ tinh hoa của tổ quốc bỗng nhiên thể hiện trên một gương mặt thủ lĩnh nào đấy, theo như những truyền thống tốt đẹp nhất của chúng ta. Tôi luôn có chiều hướng bám vào từng câu từng chữ trong những câu chuyện thú vị mà con người tự kể về mình trong những thời khắc hứng khởi, và về khoản này, nước Pháp chưa bao giờ thiếu cảm hứng. Tài năng chói sáng của mẹ tôi, khi cần phải tin tưởng, phải tiếp tục tin tưởng và hy vọng, bỗng thức tỉnh trong tôi và thậm chí còn đạt đến những đỉnh điểm bất ngờ. Tôi lần lượt tin vào tất cả các thủ lĩnh của chúng ta, và ở ai tôi cũng nhận ra bóng dáng của cứu tinh. Rồi khi họ lần lượt biến mất trong cái hố sâu của trò hề hay sa lầy vào thất bại ê chề, tôi vẫn không hề cảm thấy thất vọng và không hề đánh mất niềm tin nơi họ; tôi chỉ đơn giản chuyển sang vị tướng khác mà thôi. Tôi luôn mặc cả đến cùng, luôn là kẻ bị lừa và mãi mãi là kẻ đi mua, và mỗi khi một vĩ nhân nào đó sụp đổ thì tôi chuyển sang vĩ nhân khác với niềm tin nhân đôi. Vì thế, tôi lần lượt tin vào tướng Gamelin, tướng Georges, tướng Weygand - tôi còn nhớ mình đã hết sức xúc động khi đọc bài báo của hãng thông tấn nào đó miêu tả đôi ủng da thuộc màu vàng hung và chiếc quần chẽn bằng da của vị tướng đang nắm quyền chỉ huy tối cao này lúc ông ta đi xuống bậc thang đại bản doanh - tôi tin vào tướng Huntziger, tướng Blanchard, tướng Mittelhauser, tướng Noguès, đô đốc Darlan, và tin vào thống chế Pétain - tôi cần phải nói như vậy. Thế là lẽ tất nhiên tôi tin cả tướng de Gaulle, người có thói quen để ngón tay út trên đường chỉ quần và luôn đưa tay chào theo kiểu quân đội. Các bạn có thể tưởng tượng tôi nhẹ nhõm thế nào khi sự ngu dốt bẩm sinh và tình trạng không đủ khả năng thất vọng của tôi bỗng nhiên gặp được người đáng mặt, và khi mà từ dưới đáy sâu vực thẳm, đúng như tôi chờ đợi, cuối cùng cũng nhô lên một gương mặt thủ lĩnh khác người, vị thủ lĩnh này không những làm chủ được các sự kiện mà còn mang một cái tên rất quen thuộc. Mỗi lần đứng trước de Gaulle, tôi lại thấy mẹ tôi không hề lừa dối tôi và dù sao bà cũng biết bà đang nói về cái gì.
Thế là tôi quyết định sang Anh cùng ba đồng đội khác trên chiếc máy bay hiệu Den-55, một loại máy bay hoàn toàn mới mà không ai trong chúng tôi đã từng lái trước đó.
Sân bay Bordeaux-Mérignac những ngày mười lăm, mười sáu và mười bảy tháng Sáu năm 1940 chắc chắn là một trong những nơi lạ nhất trước đấy tôi chưa bao giờ có dịp lai vãng.
Từ mọi vùng trời, vô số máy bay liên tục hạ cánh xuống đường băng và đậu kín sân bay. Những chiếc máy bay mà tôi không biết là loại gì, cũng không biết sử dụng như thế nào, đổ xuống bãi cỏ những hành khách không kém phần lạ lẫm, trong số đó có vài người có vẻ như chỉ đơn giản và thuần túy là gặp phương tiện giao thông nào trước tiên thì leo lên thế thôi.
Sân bay đã trở thành nơi triển lãm tất cả những nguyên mẫu của Không Quân từ hai mươi năm nay: trước khi chết, hàng không Pháp nhìn lại quá khứ của mình. Các phi hành đoàn đôi khi còn lạ hơn cả các phi cơ. Tôi thấy một viên phi công hạm đội từ khoang lái của một chiếc máy bay tiêm kích đi ra, tay bồng một bé gái đang thiêm thiếp ngủ, ngực đeo một trong những tấm huân chương chiến đấu đẹp nhất mà người ta có thể chiêm ngưỡng trên ngực một chiến binh. Tôi thấy một trung sĩ phi công đưa năm người chắc hẳn là những khách trọ đáng yêu của một “nhà chứa” tỉnh lẻ từ chiếc máy bay hiệu Goéland xuống. Tôi thấy, trong một chiếc máy bay hiệu Simoun, một trung sĩ có mái tóc bạc phơ và một phụ nữ mặc quần dài cùng hai con chó, một con mèo, một con chim hoàng yến, một con vẹt, những tấm thảm cuộn tròn và một bức tranh của Hubert Robert dựng vào thành. Tôi thấy một gia đình đáng yêu, bố, mẹ, hai đứa con gái, va li xách tay, đang mặc cả với một viên phi công về giá tiền sang Tây Ban Nha, pater familias, chủ gia đình, vốn là người đã được tặng thưởng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh hạng kỵ sĩ. Nhất là tôi đã thấy và tôi sẽ thấy suốt đời gương mặt của các viên phi công lái những chiếc Dewoitine-520 và những chiếc Morane-406 trở về từ những trận chiến cuối cùng, cánh các phi cơ này bị đạn bắn thủng lỗ chỗ, một trong những viên phi công đó giật huân chương chiến đấu ra và ném xuống đất. Tôi thấy khoảng ba mươi vị tướng đứng chờ, chờ, chờ mãi quanh tháp canh. Tôi thấy những viên phi công trẻ tuổi tự ý chiếm lấy những chiếc Bloch-151, bay lên trời cao mà không mang theo đạn dược, không có hy vọng nào khác ngoài hy vọng được lao mình vào những chiếc máy bay ném bom của kẻ thù, những chiếc máy bay mà còi báo động liên hồi báo sự xuất hiện nhưng chẳng bao giờ thấy đến. Và tôi luôn thấy hệ động vật kỳ lạ trên không đang cố chạy trốn cảnh trời sập và, trong đó, những chiếc Bloch-210, những chiếc quan tài bay nổi tiếng, lại như đang được tiếp đón niềm nở.
Nhưng tôi tin điều khiến mình nhớ nhất, với tình bằng hữu sâu sắc, vẫn là những chiếc máy bay hiệu Potez-25 yêu quý và những viên phi công nhiều tuổi, chưa bao giờ chúng tôi thấy họ xáp lại gần mà không ngân nga câu hát rất thịnh hành vào thời đó: “Ông ơi, ông, ông quên ngựa mất rồi.” Những con người đứng tuổi ấy trạc bốn mươi, năm mươi, tất cả đều là quân nhân dự bị, một số là cựu chiến binh Thế chiến thứ nhất, họ bị giữ lại trong suốt cuộc chiến tranh với cương vị “nhân viên mặt đất”, đầu bếp, ký lục, trưởng văn phòng, bất chấp những tấm huy hiệu phi công mà họ hãnh diện trưng ra trên ngực, cho dù người ta hứa đi hứa lại mà không bao giờ giữ lời là sẽ cho họ luyện bay. Giờ thì họ đang gỡ gạc lại. Họ gồm khoảng hai mươi người khỏe mạnh, trạc tứ tuần, và tận dụng lúc khắp nơi tình hình đang tồi tệ, họ đã đảm đương mọi việc. Trưng dụng tất cả những chiếc máy bay hiệu Potez-25 đang rảnh, thờ ơ trước mọi dấu hiệu thất bại ngày càng nhiều xung quanh mình, họ bắt tay vào luyện tập, tích lũy các giờ bay và bình thản thay nhau lượn vòng quanh đường băng, như những hành khách thỏa thích nghịch nước tạo thành những vòng tròn đồng tâm giữa một cuộc đắm tàu, lòng lạc quan vô bờ bến, họ tin chắc mình sẽ đến kịp “những trận đánh đầu tiên” đúng như họ nói, hết sức khinh khi những gì đã xảy ra trước lúc họ lao vào cuộc chiến. Đến nỗi mà giữa trận Dunkerque trên không kỳ lạ này, trong không khí của ngày tận thế, phía trên những vị tướng đang hoang mang, bối rối, lẫn vào hệ động vật trên không hỗn tạp nhất thế giới, những chiếc Potez-25 của các “phi công thế hệ đầu” vẫn tiếp tục say sưa gầm rú, hạ cánh rồi lại cất cánh, và từ các khoang lái, vẻ mặt vui sướng, đầy quyết tâm của những chiến binh tham gia cuộc chiến ấy cả trong giờ đầu lẫn phút cuối đáp lại những lời chào thân thiện của chúng tôi. Họ là nước Pháp, xứ sở của rượu vang và của cơn thịnh nộ rực ánh mặt trời, một nước Pháp mọc lên, lớn nhanh và hồi sinh từng mùa, bất chấp những gì xảy ra. Trong số họ có những chủ quán cơm tồi, có những anh công nhân, có những bác hàng thịt, có những nhà bảo hiểm, những kẻ vô gia cư và những tên buôn lậu, thậm chí còn có một cha xứ nữa. Nhưng tất cả họ đều có một điểm chung như chúng ta đã biết.
Ngày nước Pháp thất thủ, tôi ngồi dựa lưng vào tường nhà để máy bay, ngắm nhìn chiếc Den-55 đang nổ máy, chiếc máy bay này sẽ chở chúng tôi sang Anh. Tôi nghĩ đến sáu bộ pyjama bằng lụa tơ tằm mà tôi đã bỏ lại trong phòng ở Bordeaux, một mất mát kinh khủng nếu nghĩ đến việc phải thêm vào đó việc mất nước Pháp và mất mẹ tôi, người mà rất có thể tôi không bao giờ gặp lại nữa. Ba đồng đội, cũng trung sĩ như tôi, ngồi bên cạnh tôi, ánh mắt lạnh lùng, khẩu súng nạp đạn giắt ở thắt lưng - chúng tôi đang ở rất xa chiến trường, nhưng chúng tôi còn trẻ, thất bại đã khiến chúng tôi hoang mang về nam tính của mình, thế nên những khẩu súng trần trụi và đầy vẻ hăm dọa là cách duy nhất để thể hiện những gì chúng tôi cảm thấy: Chúng phần nào giúp chúng tôi bắt kịp tấn bi kịch đang diễn ra xung quanh, giúp chúng tôi ngụy trang và bù đắp cho cảm giác bất lực, rối loạn, vô dụng của mình. Không ai trong chúng tôi còn chiến đấu, và de Gaches, bằng giọng mỉa mai, đã diễn đạt rất trúng ý muốn đáng thương của chúng tôi, ý muốn thoát khỏi mọi ràng buộc, ý muốn trốn mình trong thái độ và ý muốn đứng cách xa thất bại:
– Điều này giống như kiểu người ta ngăn không cho Corneille và Racine cầm bút để sau đó nói rằng nước Pháp không có nhà thơ viết bi kịch.
Dù tôi cố gắng hết mình để chỉ nghĩ đến việc mất mấy bộ pyjama bằng lụa tơ tằm nhưng gương mặt mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn hiện ra trước mắt tôi giữa những ánh sáng khác của tháng Sáu không mây này. Tôi có nghiến răng cũng bằng thừa, có giương cằm ra và đặt tay lên súng cũng vô ích, mắt tôi bỗng chốc nhòa lệ, và tôi nhìn nhanh vầng dương trước mắt để đánh lừa đồng đội. Anh bạn Mặt Đẹp của tôi cũng có vấn đề về tinh thần, anh đã kể cho chúng tôi nghe: anh vốn là một tay ma cô còn “ái phi” của anh ở nhà tại Bordeaux. Anh có cảm giác mình không phải với nàng khi một mình ra đi như thế này. Tôi cố động viên tinh thần anh bằng cách giải thích rằng lòng trung thành với tổ quốc phải được đặt trên bất cứ lý do nào khác, và tôi cũng thế, tôi đã để lại đằng sau những gì quý giá nhất. Tôi cũng nêu thí dụ của anh bạn Jean Pierre, anh này không ngần ngại bỏ lại vợ và ba đứa con mình để tiếp tục chiến đấu. Thế là Mặt Đẹp nói một câu thật tuyệt vời, câu nói có khả năng trả tất cả chúng tôi về đúng vị trí của mình, và đến bây giờ, mỗi lần nghĩ đến câu nói này, tôi vẫn còn thấy mình vô cùng thấp kém:
– Ừ, anh nói, nhưng các anh không phải là tuồng trộm cắp, cho nên các anh không bị ép buộc.
De Gaches phải lái máy bay. Anh đã tích lũy được ba trăm giờ bay: cả một gia tài. Với bộ ria mép gọn gàng, bộ quân phục mác Lanvin, dáng vẻ thanh nhã, anh xuất thân từ một gia đình dòng dõi, và có thể nói là anh coi việc chúng tôi quyết định đào ngũ để tiếp tục chiến đấu là sự hiến thân của giai cấp tư sản Pháp theo đạo Thiên Chúa.
Như các bạn thấy, ngoài ý chí không thừa nhận mình là kẻ chiến bại, giữa chúng tôi không có gì chung cả. Nhưng từ tất cả những chuyện ngăn cách chúng tôi, chúng tôi khai thác được điều gì đó như là sự thăng hoa và một niềm tin còn lớn lao hơn nữa vào mối liên hệ duy nhất gắn kết chúng tôi. Không biết trong chúng tôi có kẻ sát nhân hay không, nhưng chúng tôi thấy bằng chứng của tính thiêng liêng, mẫu mực, trên tất cả mọi lý do khác, trong sứ mạng mà chúng tôi được giao phó, bằng chứng của cả tình bằng hữu sâu sắc.
De Gaches lên chiếc máy bay hiệu Den để nghe anh thợ máy hướng dẫn lần cuối cùng cách vận hành chiếc máy bay mà anh mù tịt. Chúng tôi phải bay thử một vòng để làm quen với các thiết bị, sau đó chúng tôi hạ cánh, thả anh thợ máy xuống sân bay rồi lại cất cánh hướng sang nước Anh. De Gaches chỉ máy bay ra hiệu, chúng tôi bắt đầu cài đai dù. Mặt Đẹp và Jean Pierre lên trước tiên: tôi vướng cái đai. Khi đã đặt một chân lên cầu thang thì tôi thấy một bóng người đạp xe đạp lao đến, vừa đạp hết tốc lực vừa vẫy tay ra hiệu. Tôi chờ.
– Trung sĩ, có người muốn gặp anh ở tháp canh. Anh có điện thoại. Gấp lắm.
Tôi sững người ra. Ngay giữa lúc tình hình suy sụp, trong khi mà đường sá, đường dây điện báo, hệ thống truyền thông tất cả đều đang ở lúc hỗn loạn nhất, trong khi mà các tướng lĩnh không biết tin gì về các đội quân của mình và trong khi mà tình trạng vô tổ chức lan tràn khắp nơi sau khi xe tăng Đức và quân Luftwaffe tràn tới, thì giọng mẹ tôi lại có thể tìm được đường đến với tôi, tôi thấy tất cả điều này gần giống như một hiện tượng siêu nhiên. Bởi vì không nghi ngờ gì nữa: đúng là mẹ tôi gọi điện cho tôi. Vào thời điểm phòng tuyến Sedan bị chọc thủng, và sau này, khi những chiếc mô tô đầu tiên của quân Đức lui tới các lâu đài sông Loire, nhờ một anh bạn trung sĩ điện báo ở tháp canh, đến lượt mình tôi đã cố gắng gửi cho mẹ một lời nhắn nhủ trấn an, nhắc lại với mẹ nào là Joffre, Pétain, Foch và tất cả những cái tên thiêng liêng khác mà mẹ từng nhắc đi nhắc lại cho tôi không biết bao nhiêu lần trong những thời khắc khó khăn của chúng tôi, khi tình hình tài chính khiến tôi vô cùng lo lắng hoặc khi mẹ bị hạ đường huyết. Nhưng hồi ấy, có tồn tại một thứ giống như kiểu quy định trong viễn thông và người ta còn tuân theo quân lệnh, nên tôi không thể gặp mẹ.
Tôi hét lên bảo de Gaches cứ bay thử đi rồi quay lại đón tôi ở trước nhà để máy bay; sau đó tôi mượn xe đạp của anh hạ sĩ và đạp thật nhanh.
Khi tôi chỉ còn cách tháp canh vài mét thì chiếc Den lao vào đường băng. Tôi xuống xe, và trước khi đi vào, tôi lơ đễnh liếc mắt về phía chiếc máy bay. Chiếc Den đã bay cách mặt đất khoảng hai mươi mét. Bỗng nhiên, nó có vẻ như lơ lửng bất động trên không trong một khoảnh khắc, lưỡng lự, rồi lồng lên, nghiêng hẳn về một bên, bổ nhào xuống và nổ tung trên mặt đất. Trong phút chốc, tôi nhìn cái cột khói đen sì mà sau này, tôi đã phải thấy không biết bao nhiêu lần phía trên những chiếc máy bay rơi. Lúc đó tôi cảm nhận được vết bỏng đầu tiên của nỗi cô đơn bất chợt và trọn vẹn, sau này, hơn một trăm đồng đội của tôi đã ngã xuống và khắc sâu nỗi cô đơn ấy trong tâm khảm tôi, đến nỗi để tôi lại trên đời với cái thiếu vắng của riêng mình. Dần dà, trong bốn năm ở phi đội, đối với tôi, sự trống vắng đã trở thành thứ gì đó cho đến nay vẫn ám ảnh tôi nhất. Tất cả mọi nỗ lực tìm bạn bè mới suốt từ hồi chiến tranh chỉ khiến tôi cảm nhận sâu sắc hơn sự trống vắng vẫn tồn tại bên tôi ấy. Đôi khi tôi quên gương mặt họ, nụ cười và giọng nói của họ đã rời xa, nhưng thậm chí những gì tôi quên về họ lại làm sự trống vắng này trở nên thân thiện hơn. Bầu trời, Đại dương, bờ biển Big Sur hoang vu đến tận chân trời: để lang thang trên trái đất này, tôi thường chọn những nơi có đủ chỗ cho những ai không còn nữa. Tôi luôn tìm cách lấp đầy khoảng trống ấy bằng thú vật, chim muông, và mỗi lần một con hải cẩu từ trên mỏm đá lao xuống rồi bơi vào bờ, hoặc mỗi lần những con cốc và nhạn biển siết chặt vòng vây quanh tôi, nhu cầu kết bạn của tôi lại có thêm một hy vọng nực cười và bất khả, tôi không thể ngăn mình nở một nụ cười và chìa tay ra.
Tôi rẽ một lối đi giữa khoảng hai mươi hay ba mươi vị tướng đang xoay vòng như diệc quanh tháp canh, rồi bước vào Tổng đài.
Tổng đài điện thoại Mérignac, vào thời ấy, cùng vớỉ Tổng đài của chính thành phố Bordeaux, là hơi thở đầu tiên của đất nước. Bordeaux từng là nơi phát đi các thông điệp của Churchill, người đã nhanh chóng tìm cách ngăn cản đình chiến, là nơi phát đi thông điệp của tướng lĩnh, những người đang cố sức định hướng trong tình cảnh thất bại tràn lan, là nơi phát đi thông điệp của các nhà báo và các vị đại sứ trên toàn thế giới, những người đi theo một chính phủ đang co vòi rụt cổ. Giờ đây, tất cả dường như đã kết thúc, các đường dây trở nên yên tĩnh một cách kỳ lạ, và trên khắp lãnh thổ, trong một quân đội bị chia năm xẻ bảy, vì quyền ra quyết định ở các đơn vị bị bao vây đã hạ xuống cấp đại đội, đôi khi là cấp phân đội, nên không nhất thiết phải ra lệnh nữa, dù những cú co giật cuối cùng của cơn hấp hối vẫn đang diễn ra trong tinh thần anh dũng thầm lặng và bi kịch của một số người, trong những trận đánh vài giờ hay vài phút ở thế một chống lại một trăm, những trận đánh không thể theo dõi trên bản đồ tác chiến, cũng không được ghi chép trong bất kỳ bản báo cáo nào.
Tôi gặp anh bạn trung sĩ Dufour đang ngồi trong Tổng đài nơi anh trực suốt từ hai mươi tư tiếng đồng hồ nay, mặt anh ướt đẫm mồ hôi, những giọt mồ hôi tháng Sáu chảy ra từ lỗ chân lông của chính tổ quốc. Với cái trán bướng bỉnh, mẩu thuốc lá đã tắt trên môi, mặt mọc ra một sợi lông đặc biệt ghê gớm và sắc nhọn, tôi tin rằng, anh cũng mang vẻ ngạo mạn và ranh mãnh như thế khi bị rơi vào ổ phục kích, ba năm sau đó, và gục xuống dưới súng đạn của kẻ thù.
Mười ngày trước đấy, khi tôi cố xin anh cho tôi được nói chuyện với mẹ tôi, anh trả lời với vẻ nhăn nhó hung hãn rằng “chưa phải lúc và tình hình không cho thấy là phải viện đến một giải pháp quá đáng như thế”. Giờ đích thân anh gọi tôi tới và động thái đơn giản này nói nhiều về thế cuộc hơn cả mọi lời đồn về hiệp ước đình chiến. Anh nhìn tôi, lúc ấy anh ăn mặc lôi thôi lếch thếch, quần không cài cúc, sự phẫn nộ, khinh bỉ và ương bướng lồ lộ ngay ở cửa quần để mở, với vầng trán thẳng có ba nếp nhăn hằn ngang - và mười lăm năm sau, tôi đã mượn những đường nét khó quên này, khi tìm kiếm một gương mặt cho nhân vật Morel trong tiểu thuyết Cội rễ bầu trời, một kẻ không biết thất vọng là gì. Anh nhìn tôi, ống nghe vẫn ở bên tai. Hình như anh đang nghe nhạc, trông có vẻ rất say sưa. Tôi chờ, trong khi anh nhìn tôi, và trong đôi mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ vẫn còn đủ chỗ cho một niềm vui nhỏ nhoi nào đó. Tôi tự hỏi anh đang chộp được cuộc nói chuyện nào. Phải chăng là cuộc nói chuyện của tổng tư lệnh với các đơn vị tiền tiêu? Nhưng tôi sớm được tỏ tường.
– Brossard đi chiến đấu ở Anh, anh bảo tôi. Tôi đã sắp xếp cho hắn ta tạm biệt vợ. Cậu không thay đổi ý định chứ?
Tôi lắc đầu. Anh ra hiệu đồng tình và thế là tôi được biết rằng nhiều giờ nay, trung sĩ Dufour đã chặn tất cả các đường dây điện thoại để cho phép một số người, trong số những người không chịu thua mà tiếp tục đi chiến đấu, được thốt lên tiếng kêu cuối cùng đầy yêu thương và can đảm với những người mà chắc hẳn họ phải rời xa mãi mãi.
Tôi không hề hận thù những người chấp nhận bại trận, chấp nhận hiệp ước đình chiến năm 40. Tôi hiểu rõ những người từ chối theo de Gaulle. Họ quá thích ở trong những căn nhà đầy đủ đồ đạc của mình, họ gọi đó là thân phận con người. Họ đã học và rao giảng “sự khôn ngoan”, bông cúc cam tẩm độc mà nếp sống đổ dần vào họng chúng ta, với hương vị ngọt ngào của sự nhún nhường, từ bỏ và chấp nhận. Những kẻ có học, những kẻ suy tư, mơ mộng, tế nhị, uyên bác, đa nghi, dòng dõi, học hành bài bản, say sưa cổ học, những kẻ đó, trong sâu thẳm lòng mình, một cách âm thầm, họ luôn biết con người là một cám dỗ bất khả, thế nến họ đã đón nhận chiến thắng của Hitler như một lẽ tất nhiên. Rõ ràng phụ thuộc về mặt sinh học và siêu hình, nên rất đỗi tự nhiên, họ chấp nhận gia hạn về xã hội và chính trị. Thậm chí tôi có thể khẳng định rõ hơn mà không hề có ý làm nhục bất cứ ai: họ có lý, chỉ điều đó thôi hẳn cũng đủ cảnh báo cho họ. Họ có lý, theo nghĩa khéo léo, cẩn trọng, theo nghĩa khước từ phiêu lưu, khôn ngoan thoát cảnh khó khăn, theo cái nghĩa đã tránh cho Jesus phải chết trên cây thánh giá, tránh cho Van Gogh phải cầm bút vẽ, tránh cho nhân vật Morel của tôi phải bảo vệ những con voi của mình, tránh cho người Pháp bị bắn, theo cái nghĩa quy tụ các nhà thờ và viện bảo tàng, các đế chế và nền văn minh trong cùng một thứ hư vô mà không cho chúng ra đời.
Và tất nhiên họ không bị níu giữ bởi ý nghĩ ngây thơ của mẹ tôi về nước Pháp. Họ không phải bảo vệ câu chuyện thời thơ ấu trong tâm trí của một bà già. Tôi không thể giận những người nhìn nhận nước Pháp bằng cái nhìn tĩnh tâm hơn, thận trọng hơn, họ nhìn nhận như thế là vì họ không sinh ra bên bờ thảo nguyên nước Nga rộng lớn, máu của họ không được trộn lẫn giữa máu Do Thái, Cô dắc và Tác ta.
Một lúc sau, tôi nghe giọng nói của mẹ trên điện thoại. Giờ đây tôi không tài nào diễn tả được những gì hai mẹ con tôi đã nói với nhau. Đó là một chuỗi những tiếng kêu gào, những từ ngữ, những tiếng nức nở, nó không phải thứ ngôn ngữ có cấu âm. Từ ấy trở đi, tôi luôn có cảm giác mình hiểu tiếng thú vật. Trong những đêm châu Phi, mỗi lần nghe thấy tiếng thú, lòng tôi lại quặn thắt khi nhận ra trong đó tiếng của nỗi đau, của sự khiếp sợ, của sự đau xé ruột gan, và sau cuộc nói chuyện điện thoại ấy, khi ở tất cả các cánh rừng trên thế giới, tôi luôn nhận ra tiếng của con cái bị mất đứa con yêu quý của mình.
Câu nói rõ ràng duy nhất, kỳ cục, được vay mượn từ vốn từ khiêm tốn nhất của ống nói thoại, là câu nói cuối cùng. Khi hai mẹ con đã im lặng, sự im lặng kéo dài, thậm chí không còn tiếng rè rè của điện thoại nữa, sự im lặng dường như muốn nuốt chửng cả đất nước, thì bỗng tôi nghe thấy một giọng nói kỳ cục nức nở từ xa xôi:
– Chúng ta sẽ đánh bại chúng!
Tiếng kêu ngớ ngẩn cuối cùng thể hiện lòng dũng cảm sơ đẳng nhất, ngây thơ nhất của con người đã đi vào tim tôi và ở đó mãi mãi - nó là trái tim tôi. Giờ tôi biết tiếng kêu ấy sẽ sống mãi trong lòng tôi và một ngày nào đó con người sẽ giành được một chiến thắng lớn lao hơn tất cả những chiến thắng mà họ từng mơ ước cho đến lúc này.
Tôi còn ở đó thêm một giây nữa, mũ cát két đội sụp xuống mặt, áo vest da vẫn khoác trên người, cô đơn như hàng triệu triệu con người đã từng cô đơn và sẽ mãi cô đơn trước số phận chung của họ. Trung sĩ Dufour nhìn tôi qua phía trên mẩu thuốc lá, trong mắt anh vẫn có niềm vui nho nhỏ ấy, mỗi khi thấy niềm vui nhỏ nhoi này trong mắt đồng loại tôi đều như thấy sự đảm bảo cho sự tồn tại mãi mãi.
Sau đó tôi lo đi tìm một phi đoàn khác và một chiếc máy bay khác.
Tôi lang thang nhiều giờ liền trên sân bay, đi từ máy bay này sang máy bay khác, từ phi đoàn này sang phi đoàn khác.
Tôi đã cố xúi nhiều phi công bỏ đi nhưng họ tiếp đón tôi rất đỗi lạnh nhạt, đúng khi đó tôi chợt nhớ ra chiếc máy bay bốn động cơ mang hiệu Farman màu đen mới đáp sân hôm trước, tôi thấy chiếc máy bay này đủ lớn để có thể đưa tôi sang Anh. Đó chắc hẳn là chiếc máy bay to nhất mà tôi được thấy cho tới lúc bấy giờ. Hình như không có ai trong cỗ máy khổng lồ này cả. Đơn giản là do phản xạ hiếu kỳ, tôi trèo lên thang và thò đầu vào phía trong xem chiếc máy bay ấy như thế nào.
Một vị tướng hai sao đang vừa viết gì đó trên cái bàn xếp vừa hút tẩu thuốc. Một khẩu súng lục to bự được đặt trong tầm tay, trên một tờ giấy. Vị tướng này nom mặt còn trẻ, tóc xám húi cua, và khi tôi đột ngột xuất hiện trong máy bay, ông lơ đễnh nhìn tôi rồi lại nhìn tờ giấy, sau đó tiếp tục viết. Phản xạ đầu tiên của tôi là chào ông, nhưng ông không trả lời.
Tôi hơi ngạc nhiên liếc nhìn khẩu súng rồi bỗng hiểu chuyện gì đang xảy ra. Vị tướng bại trận đang viết lời tuyệt mệnh trước khi tự sát. Thú thật tôi cảm thấy xúc động và biết ơn sâu sắc. Dường như khi có những vị tướng dám hành động như thế trước thất bại thì chúng ta có quyền hy vọng tất cả. Đó là một hình ảnh lớn lao, đó là óc bi kịch, những thứ mà vào thời đó, ở tuổi tôi, tôi rất đỗi nhạy cảm.
Thế là tôi chào thêm một lần nữa rồi lặng lẽ rút lui, bước vài bước trên đường băng, lòng vẫn chờ phát súng cứu danh dự. Sau khoảng mười lăm phút, tôi bắt đầu nôn nóng và quay lại chiếc Farman, thò đầu vào một lần nữa.
Vị tướng vẫn đang viết. Bàn tay thanh mảnh chạy trên giấy. Tôi để ý thấy hai hay ba phong bì gì đó đã dán tem đặt bên khẩu súng, ông lại liếc nhìn tôi, tôi lại chào ông rồi kính cẩn lui ra. Tôi có nhu cầu tin tưởng ai đó, và vị tướng này, với gương mặt quý tộc còn trẻ của mình, khiến cho tôi cảm thấy tin tưởng: thế là tôi kiên nhẫn chờ gần máy bay để ông động viên khích lệ tinh thần tôi. Vì không có gì xảy ra nên tôi quyết định ghé qua phân đội bay để xem dự định đáp xuống Bồ Đào Nha trước khi sang Anh của sư đoàn đến đâu rồi. Sau nửa tiếng tôi quay lại và leo lên cầu thang: vị tướng đó vẫn đang viết. Những tờ giấy kín đặc những dòng chữ đều đặn đã chất đống dưới khẩu súng đặt ngay trong tầm tay. Bỗng tôi hiểu ra là vị tướng trung hậu này không phải có ý định nào đó cao cả và xứng đáng với một người anh hùng trong bi kịch Hy Lạp, ông chỉ viết thư và dùng súng làm cái chặn giấy thôi. Xem ra ông ấy và tôi không sống chung một thế giới. Bực tức và thất vọng vô cùng, tôi rời xa chiếc Farman, đầu cúi gằm. Sau đó tôi gặp lại vị tướng này, ông bình thản đi về phòng ăn sĩ quan, khẩu súng để trong bao, tay cầm chiếc khăn, trên gương mặt bình thản của ông lộ rõ vẻ vừa hoàn thành một nhiệm vụ.
Ánh nắng mênh mang soi rọi hệ động vật khí sinh dị dạng trên sân bay. Những người Senegal mình mang vũ khí được bố trí xung quanh các máy bay để đề phòng các hành động phá hoại có thể xảy ra, họ ngắm nhìn những hình hài kỳ lạ và đôi khi gây chút lo ngại từ trên trời bay xuống. Tôi nhớ nhất một chiếc Bréguet sệ bụng, phía sau thân của nó có một cái xà, nom như cái chân gỗ, bất lịch sự và thô thiển như một số vật thờ châu Phi. Tại phân đội Potez, các ông lão của những năm 1914-1918, những kẻ bất bại và lòng đầy hận thù, tiếp tục thay nhau lái máy bay, luyện tập cho một điều kỳ diệu nào đó; họ chăm chỉ gầm rú trên trời xanh, và khi hạ cánh, họ cho tôi thấy hy vọng vững chắc của họ, hy vọng mình đã sẵn sàng khi thời cơ đến.
Tôi còn nhớ một người trong số họ, từ khoang của chiếc Potez chui ra, đó là hình ảnh hoàn hảo của chàng kỵ sĩ trên không vào thời của Reichthoffen và của Guynemer, áo com lê, tất lụa chít trên đầu, quần cụt kiểu kỵ binh, trong tiếng cánh quạt vù vù, ông nói to cho tôi nghe, vừa nói vừa thở sau khi từ khoang lái xuống, đối với một người có cân nặng như ông thì màn tiếp đất đó quả là một trò nhào lộn:
– Nhóc! Đừng lo! Có bọn tao đây!
Ông cương quyết đẩy hai người bạn đã giúp ông bước xuống ra rồi đi về hướng những chai bia đang chờ mình trên bãi cỏ. Hai người bạn, một người vận áo varơ kaki, huân chương đeo lủng lẳng, đầu đội mũ cát, chân đi ủng, còn người kia, mũ bê rê đội đầu, kính đeo trên trán, mặc áo vest Saumur, bắp chân quấn dải vải bông, vỗ lưng tôi thân mật rồi trấn an tôi:
– Chúng ta sẽ đánh bại chúng!
Rõ ràng họ đang sống những khoảnh khắc đẹp nhất trong đời. Họ vừa khiến người ta xúc động lại vừa khiến người ta buồn cười, và mặc dù vậy, với những dải vải bông, những cái tất lụa quấn đầu và bộ mặt phị ra nhưng đầy vẻ kiên quyết, khi từ máy bay đi xuống, họ đã gợi lại khá rõ những giờ phút vinh quang, và rồi, chỉ vào lúc đó, tôi mới thấy cần có một người cha hơn bao giờ hết. Cả nước Pháp đều có cảm giác ấy và việc cả nước Pháp đồng loạt đi theo vị thống chế già không có lý do nào khác. Thế là tôi cố gắng trở thành người có ích, tôi giúp họ bước lên buồng lái, tôi đẩy cánh quạt, chạy ra căng tin lấy thêm bia. Họ kể cho tôi nghe về trận sông Marne kỳ diệu, vừa kể vừa nháy mắt vẻ thông thạo, họ kể về Guynemer, về Joffre, về Foch, về Verdun, tóm lại, họ nói về mẹ tôi, và đó là tất cả những gì tôi cần. Đặc biệt, một người trong số họ, chân mang ghệt, đầu đội mũ cát, đeo kính, khoác dây đeo gươm bằng da và đeo đủ loại huy chương - không hiểu sao ông làm tôi nghĩ đến những câu từ bất hủ trong một bài hát học sinh quen thuộc: “Khi một cậu bé lái mô tô, tưởng lỗ… là cái lỗ ấy, chạy đi báo cho Bộ Tham mưu, rằng tướng kia đã chết không còn” - cuối cùng thốt lên bằng thứ giọng đủ át cả tiếng vù vù của cánh quạt máy bay:
– Mẹ kiếp, rồi sẽ biết tay ông!
Sau đó, tôi đẩy ông leo lên chiếc Potez, ông hạ kính xuống mắt, nắm lấy tay lái rồi lao đi. Có thể tôi hơi vô lý, nhưng tôi tin rằng những phi công đầu tiên đáng mến này đặc biệt đang trả thù bộ chỉ huy Pháp vì đã không cho họ bay, và tất cả những “rồi sẽ biết tay ông” ít nhất cũng hướng về cả bộ chỉ huy lẫn quân Đức.
Vào đầu giờ chiều, khi tôi quay lại văn phòng sư đoàn để xem có tin tức gì không, thì một đồng đội đến nói với tôi là một phụ nữ trẻ xin gặp tôi ở chòi canh gác. Trong tôi có một nỗi sợ đầy mê tín là phải rời sân bay, tôi cứ nghĩ rằng cả sư đoàn sẽ bay sang Anh ngay khi mình quay lưng lại, nhưng một phụ nữ trẻ là một phụ nữ trẻ, thế là trí tưởng tượng của tôi cháy bùng như mọi khi, tôi đến chòi canh gác ngay, ở đó, tôi khá thất vọng khi thấy một cô gái rất tầm thường, vai và eo mảnh khảnh nhưng bắp chân và hông lại rắn chắc, trên gương mặt và trong đôi mắt đỏ ngầu vì khóc lộ ra một nỗi buồn vô hạn và cả thái độ quyết tâm bướng bỉnh, bản năng, thái độ này được thể hiện ngay qua cách siết chặt quai chiếc va li ở tay bằng sức mạnh phi thường. Cô ta nói với tôi cô ta tên là Annick và là bạn của Trung sĩ Clement, còn gọi là Mặt Đẹp, người thường nói chuyện với cô về tôi như người bạn “nhà ngoại giao và nhà văn” của anh. Tôi gặp cô ta lần đầu, nhưng Mặt Đẹp cũng đã từng nói với tôi về cô ta, bằng những lời lẽ ngợi khen. Mặt Đẹp cũng có hai hay ba cô nàng gì đó “ở nhà”, tuy nhiên Annick mới chính là ái phi của anh, anh đã để cô lại Bordeaux sau khi được phiên chế tới Mérignac. Mặt Đẹp chưa bao giờ giấu giếm mình là một chàng trai hư hỏng, và, vào lúc quân Đức tấn công, anh đang bị người ta điều tra kỷ luật về vấn đề này, thậm chí người ta còn dọa gạch tên anh ra khỏi danh sách nữa. Anh và tôi sống khá hòa thuận với nhau, có lẽ chính bởi giữa chúng tôi không có điểm chung, và những gì ngăn cách chúng tôi lại trở thành một sợi dây liên hệ, thông qua sự tương phản. Tôi phải thừa nhận rằng sự ghê tởm mà cái “nghề” tồi tệ của anh gợi cho tôi lại đi kèm với nét quyến rũ nào đó và thậm chí là sự đố kỵ nữa, bởi tôi thấy dường như anh có khả năng vô cảm, thờ ơ và cứng rắn rất cao, những phẩm chất không thể thiếu đối với người nào muốn gắn bó với cuộc sống, trong khi tôi, tiếc thay, lại không có được. Anh hay khen ngợi đức tính nghiêm túc và tận tụy của Annick, người phụ nữ mà tôi nghĩ anh rất yêu. Vậy là tôi hết sức tò mò nhìn cô gái. Cô ta thuộc loại gái quê tầm thường vốn quen chịu thương chịu khó, nhưng dưới bờ trán ương bướng, có thêm cái gì đó trong đôi mắt trong, cái gì đó vượt qua cả bản chất và hành động của chúng ta. Tôi thấy thích cô ta ngay, đơn giản là bởi, trong lúc thần kinh tôi đang căng thẳng, sự hiện diện nào của phụ nữ cũng làm tôi cảm thấy yên tâm và vững tin hơn. Đúng thế, cô ta ngắt lời tôi, khi tôi bắt đầu nói về tai nạn, đúng thế, cô ta biết Clement đã tử nạn sáng nay. Anh đã nói đi nói lại với cô nhiều lần là anh sẽ sang Anh để tiếp tục chiến đấu. Cô định gặp lại anh sau, bằng cách đi qua Tây Ban Nha. Giờ Clement không còn nữa, nhưng dù gì thì gì, cô cũng muốn sang Anh. Cô sẽ không làm việc cho người Đức. Cô muốn ra đi cùng những ai tiếp tục chiến đấu. Cô biết mình sẽ có ích ở Anh, và như thế, ít nhất lương tâm cô sẽ yến ổn sau khi đã nỗ lực hết mình. Tôi có thể giúp gì được cho cô ư? Cô nhìn tôi với vẻ khẩn nài câm nín của một con chó, tay siết chặt quai chiếc va li nhỏ vẻ kiên quyết, trên bờ trán bướng bỉnh lõa xõa mớ tóc màu xám hung, trông cô có vẻ thiết tha làm tốt mọi việc và thực sự quyết tâm vượt qua mọi trở ngại. Không thể không thấy đây là một tấm lòng thuần khiết và cao thượng mà không vết nhơ vô nghĩa và phù du nào của cơ thể có thể làm lu mờ. Ở cô, hơn cả sự chung thủy với ký ức về bạn tôi, tôi tin đó là một sự tận tụy bản năng với cái gì đó hơn cả bản chất và hành động của chúng ta, và không gì có thể làm biến chất hoặc vấy bẩn. Trong sự buông thả và tuyệt vọng tràn lan, vẫn tồn tại một hình ảnh kiên định và quyết tâm làm tốt mọi thứ, hình ảnh ấy khiến tôi rất đỗi xúc động. Đối với tôi, người chưa bao giờ chấp nhận soi xét tiêu chí về cái xấu và cái tốt trong hành vi tình dục của con người, người luôn đặt phẩm cách con người phía trên chỗ thắt lưng, ở chỗ trái tim, khối óc và tâm hồn, nơi luôn là chỗ của những suy đồi ô nhục nhất của chúng ta, thì cô bé người Bretagne này dường như có vẻ có bản năng hiểu được cái gì quan trọng và cái gì không quan trọng hơn tất cả những người ra sức bảo vệ các truyền thống đạo đức. Chắc cô đọc được trong mắt tôi dấu hiệu của sự cảm thông vì cô đã cố gắng hơn nữa để thuyết phục tôi, như thể tôi cần phải được thuyết phục. Ở Anh, quân nhân Pháp sẽ cảm thấy rất cô đơn, cần phải giúp họ, còn cô, cô không ngại công việc, hẳn Clement đã nói với tôi điều này. Cô chờ một lúc, lo lắng không biết liệu Mặt Đẹp có tỏ lòng yêu mến cô như thế không hay anh đã không nghĩ đến điều ấy. Có, tôi vội trấn an cô, anh đã ca ngợi cô rất nhiều. Cô đỏ mặt vì vui sướng. Vậy là công việc thì cô quen rồi, cô là một người khỏe mạnh và tôi có thể đưa cô sang Anh bằng máy bay của mình, và vì tôi là bạn của Clement nên cô sẽ làm việc cho tôi, một phi công cần có người hậu thuẫn, dưới mặt đất, ai cũng biết như thế. Tôi cảm ơn cô và nói với cô là tôi đã có người rồi. Tôi cũng giải thích cho cô rằng việc tìm ra máy bay sang Anh gần như là điều không thể, tôi vừa trải qua kinh nghiệm đó, và một thường dân, một phụ nữ không nên mơ tưởng điều này. Nhưng đây là một cô gái không dễ thất vọng. Vì tôi cố gắng thoái thác bằng vài ba câu nói tầm phào rằng ở Pháp hay ở Anh thì cô cũng có thể là người có ích thôi, rằng ở đây người ta cũng cần những người như cô, cô mỉm cười hiền từ để chứng tỏ cho tôi thấy là cô không giận tôi, rồi cô lẳng lặng xách va li đi về phía sân bay. Mười lăm phút sau, tôi thoáng thấy cô ở các phi đoàn Potez-63, tranh luận vẻ rất quả quyết, rồi tôi không thấy cô nữa. Tôi không biết cô đã ra sao. Hy vọng cô vẫn còn sống, cô đã có thể sang Anh và làm một người có ích, rồi cô đã về Pháp và sinh được nhiều con. Chúng ta cần những chàng trai cô gái có trái tim được tôi luyện như trái tim cô.
Vào cuối buổi chiều, có tin đồn là căn cứ Mérignac sắp thiếu xăng, thế là các phi đoàn không chịu rời máy bay nữa, hoặc vì sợ mất lượt tiếp tế, hoặc vì sợ bị “hút” xăng, hoặc đơn giản vì sợ bị ăn cắp máy bay bởi một kẻ lang thang như tôi chẳng hạn, kẻ đang tìm cách thoát đi. Họ chờ lệnh, chờ chỉ thị, chờ được nói rõ về tình hình, họ tham khảo nhau, họ lưỡng lự, hỏi nhau nên quyết định như thế nào, hoặc không hỏi nhau gì hết mà chỉ chờ vậy thôi. Phần lớn trong số họ chắc mẩm chiến tranh sẽ tiếp tục ở Bắc Phi. Một số người hoang mang đến nỗi chỉ hỏi về ý định của họ thôi cũng đủ khiến họ phát khùng lên rồi. Đề nghị sang Anh của tôi luôn được đón nhận một cách rất lạnh nhạt. Thời đó, người Anh không được lòng người cho lắm. Họ đã lôi kéo chúng tôi vào cuộc chiến. Giờ họ lại tham chiến và đẩy chúng tôi vào tình cảnh rắc rối. Các hạ sĩ quan phụ trách ba chiếc Potez-63 mà tôi đã lỡ mồm chèo kéo đứng vây quanh tôi với những bộ mặt đầy hận thù, họ nói đến việc bắt tôi vì tôi có ý định đào ngũ. May thay, người có cấp bậc cao nhất, một thượng sĩ nhất, đã tỏ ra độ lượng và nhân văn hơn nhiều đối với tôi. Trong khi hai hạ sĩ quan giữ chặt tôi, ông ta chỉ đấm vào mặt tôi cho đến khi mũi, môi và mặt tôi bê bết máu. Sau đó, bọn họ đổ cả chai bia lên đầu tôi rồi thả tôi ra. Tôi vẫn đeo súng bên hông và cám dỗ sử dụng nó là rất lớn, đó là một trong những cám dỗ lớn nhất mà tôi phải đối mặt trong đời. Nhưng bắt đầu cuộc chiến của mình bằng cách giết người Pháp là một việc hồ đồ; thế nên tôi bỏ đi, vừa đi vừa chùi máu và bia trên mặt, lúc đó tôi tuyệt vọng như một kẻ không thể tự an ủi mình, vả lại, tôi luôn cảm thấy khó khăn khi giết người Pháp, và theo tôi biết, tôi chưa giết người Pháp nào cả; tôi sợ đất nước tôi không bao giờ có thể trông cậy vào tôi trong một cuộc nội chiến, và tôi luôn từ chối thẳng thừng việc chỉ huy một đội hành quyết, điều này chắc là vì mặc cảm khó hiểu nào đó của một kẻ nhập quốc tịch.
Từ ngày bị tai nạn khi làm thông ngôn trên máy bay, tôi chịu đựng rất kém những cú đánh vào mũi, thế nên tôi cảm thấy đau kinh khủng trong nhiều ngày liền. Mặc dù thế, tôi sẽ là kẻ vô ơn nếu không chịu công nhận rằng cơn đau thuần túy thể xác này có lẽ là một sự cứu rỗi đáng kể cho tôi, vì nó xóa nhòa chút ít và giúp tôi quên đi một nỗi đau khác, nỗi đau thực sự và hơn thế lại là một nỗi đau khó mà chịu đựng nổi nhất, nó giúp tôi ít cảm thấy sự suy sụp của nước Pháp hơn, nghĩ ít hơn về việc có thể tôi sẽ không gặp lại mẹ trong nhiều năm nữa. Đầu tôi như muốn nổ tung, tôi không ngớt tay lau máu trên mũi trên môi mình và luôn cảm thấy buồn nôn và nôn liên tục. Nói tóm lại tôi ở tình trạng như thể với tôi, vào thời điểm ấy, Hitler sắp chiến thắng đến nơi rồi. Tuy nhiên tôi vẫn tiếp tục lê người đi từ máy bay này sang máy bay khác để tìm một phi đoàn.
Một trong những phi công mà tôi cố gắng thuyết phục đã để lại trong tôi một kỷ niệm không thể phai nhòa. Anh ta là chủ nhân chiếc Amyot-372 vừa mới tiếp đất. Tôi nói “chủ nhân”, bởi vì anh ta ngồi trên bãi cỏ, bên cạnh máy bay của mình, nom như một ông chủ trang trại đa nghi đang trông con bò sữa của mình. Trước mặt anh ta, trên một tờ báo có đặt rất nhiều bánh mì kẹp nhân và anh ta đang ăn ngấu ăn nghiến hết cái này sang cái khác, về hình thức, anh ta hơi giống Saint-Exupéry, với khuôn mặt và đường nét tròn tròn cùng vóc người to lớn - nhưng sự giống nhau chỉ dừng lại ở đó thôi. Anh ta tỏ vẻ nghi hoặc, cảnh giác, bao súng đã mở cúc, chắc hẳn anh ta tin rằng sân bay Mérignac đầy những kẻ lái buôn gian giảo quyết chí ăn cắp bò của mình, về điều này anh ta không nhầm. Tôi nói thẳng với anh ta là tôi đang đi tìm một phi đoàn và một máy bay để sang Anh tiếp tục chiến đấu, tôi hết lời ca ngợi với anh ta sự vĩ đại và lòng dũng cảm của đất nước này bằng giọng điệu rất hào hùng.
Anh ta cứ để tôi nói và tiếp tục ăn, vừa ăn vừa nhìn cái mặt sưng phù của tôi cùng cái khăn mùi soa nhuốm máu mà tôi đang đắp trên mũi. Tôi đọc cho anh ta một bài diễn văn khá kêu - yêu nước, đầy cảm xúc và cảm hứng - cho dù lúc đó tôi buồn nôn kinh khủng - tôi đứng không vững còn đầu thì chất đầy sạn đá vỡ - tuy nhiên tôi cố hết sức, và cứ nhìn vào vẻ mặt sảng khoái của khán giả thì biết, sự tương phản giữa bộ dạng tệ hại và những lời lẽ đầy cảm hứng của tôi có lẽ khiến người ta cảm thấy vui thích. Dù sao thì anh phi công to béo đó cũng cứ để tôi nói một cách từ tốn. Đầu tiên, tôi phải nịnh anh ta đã - đó hẳn là kiểu người thích cảm thấy mình quan trọng - và rồi, việc tôi đặt tay lên ngực bay bổng trong tình yêu tổ quốc chắc là không làm anh ta phật ý mà còn giúp anh ta tiêu hóa tốt hơn. Thỉnh thoảng tôi ngừng nói, chờ đợi phản ứng của anh ta - nhưng vì anh ta không nói gì mà chỉ tiếp tục lấy một chiếc bánh mì kẹp nhân khác, nên tôi tiếp tục bài ứng khẩu trữ tình của mình, một khúc ca thực sự mà nếu Déroulède nghe thấy cũng không phải không tâm đắc. Có một lúc, khi tôi nói đến đoạn đại loại như “chết cho tổ quốc là số phận đẹp nhất, khát khao đáng trọng nhất”, anh ta phác một cử chỉ rất khó nhận thấy, biểu lộ sự đồng tình, rồi anh ta ngừng nhai, chăm chú lấy móng tay cố gỡ một miếng giăm bông giắt răng. Lúc tôi ngừng một lát để lấy hơi, anh ta nhìn tôi hình như có vẻ hơi trách móc và chờ đợi, đó rõ ràng là người quyết tâm giúp tôi nỗ lực hết mình. Khi cuối cùng tôi không ca nữa, không còn lời nào nữa - và tôi im lặng, khi thấy xong xuôi cả rồi và không còn gì có thể khai thác được từ tôi, anh ta quay mặt đi, lấy một chiếc bánh mì kẹp nhân khác rồi ngước mắt lên trời xem có gì hay ho không. Anh ta không cất nổi lấy một lời. Tôi không bao giờ biết liệu anh ta là một người Normandie vô cùng thận trọng hay một kẻ thô lỗ đáng sợ không hề có chút xúc cảm nào, một kẻ hoàn toàn ngu dốt hay là một người rất kiên quyết, một người biết chính xác mình sẽ làm gì nhưng không chịu thổ lộ quyết định của mình cho ai khác, một kẻ hoàn toàn bị thời cuộc làm cho rối trí, không thể có phản ứng nào khác ngoài việc đánh chén, hay một anh nông dân to béo không còn gì trên đời ngoài con bò sữa và quyết chí ở bên con vật này đến cùng, bất chấp bão táp, phong ba. Đôi mắt hay háy của anh ta nhìn tôi không chút cảm xúc trong khi tôi đặt tay lên ngực ca ngợi vẻ đẹp của mẹ tổ quốc, ca ngợi ý chí tiếp tục chiến đấu kiên cường của chúng tôi, ca ngợi danh dự, lòng dũng cảm và ngày mai vinh quang. Nói về bò thì anh ta quả là một người vĩ đại. Mỗi khi đọc được ở đâu đó và biết là có con bò nào đấy đã đoạt giải nhất ở đại hội nông dân, tôi thường nghĩ đến anh ta. Tôi bỏ đi khi anh ta chuẩn bị ăn chiếc bánh mì kẹp nhân cuối cùng.
Chính tôi cũng không ăn gì từ hôm trước đó. Ở nhà ăn hạ sĩ quan, từ khi quân đội tan rã đến nay, chế độ ăn uống được quan tâm một cách đặc biệt. Chúng tôi được ăn những món ăn Pháp thực sự, xứng đáng với truyền thống ẩm thực tuyệt vời của chúng tôi, người ta muốn khích lệ tinh thần và làm dịu những nghi ngờ của chúng tôi bằng cách gợi nhắc chúng tôi những giá trị bền lâu ấy. Nhưng tôi không dám rời sân bay, sợ bỏ lỡ cơ hội xuất phát nào đó. Tôi rất khát và đặc biệt biết ơn một phi đoàn Potez-63 ngồi trên nền xi măng, dưới bóng một cánh máy bay, đã cho tôi một ly rượu vang đỏ. Có thể vì hơi phê phê nên tôi đã thả mình theo một trong những bài diễn văn đầy cảm hứng. Tôi nói về nước Anh, con tàu sân bay của chiến thắng, tôi gợi nhắc đến Guynemer, Jeanne d‘Arc và Bayard, tôi khoa chân múa tay, tôi đặt tay lên ngực, tôi giơ cao nắm đấm, tôi mang một vẻ đầy cảm hứng. Tôi thực sự tin là chính giọng nói của mẹ tôi đã xâm chiếm giọng nói của tôi, bởi vì, càng nói, bản thân tôi lại càng ngạc nhiên về số lượng sáo ngữ đáng kinh ngạc mà mình đã sử dụng, về những điều tôi có thể phát ngôn mà không hề cảm thấy ngượng nghịu, tôi có phẫn nộ trước sự khiếm nhã của mình cũng vô ích thôi, do một hiện tượng kỳ lạ mà tôi không hề kiểm soát được và có lẽ một phần là vì mệt nhọc và say rượu, nhưng đặc biệt là vì tính cách và ý chí của mẹ tôi bao giờ cũng mạnh mẽ hơn tôi, tôi tiếp tục nói và nói nhiều hơn, nói bằng điệu bộ cử chỉ và nói bằng cả tấm lòng. Thậm chí tôi còn tin là lúc đó giọng mình thay đổi, một giọng Nga đặc sệt được cất lên rõ mồn một trong khi mẹ tôi nói về “tổ quốc bất diệt” và về việc hy sinh đời mình cho “nước Pháp, nước Pháp, mãi mãi là nước Pháp” trước một nhóm hạ sĩ quan tỏ ra đặc biệt quan tâm. Thỉnh thoảng, khi tôi yếu sức, họ đẩy chai rượu về phía tôi và thế là tôi lại lao vào một trường thoại mới, đến nỗi mà mẹ tôi, lợi dụng trạng thái của tôi, đã thực sự thể hiện hết mình, qua những cảnh tượng gợi cảm hứng nhất trong vốn tiết mục yêu nước của bà. Cuối cùng, ba hạ sĩ quan tỏ ra thương hại tôi và cho tôi ăn trứng luộc, bánh mì cùng xúc xích, điều đó giúp tôi phần nào tỉnh rượu, giúp tôi lấy lại sức, buộc người phụ nữ Nga đang hưng phấn tự cho phép mình dạy chúng tôi những bài học về tình yêu tổ quốc phải im lặng và trả bà về chỗ của mình. Ba hạ sĩ quan tiếp tục cho tôi ăn mận khô nhưng từ chối sang Anh, theo họ, Bắc Phi, dưới sự chỉ huy của tướng Noguès, sẽ tiếp tục cuộc chiến và họ muốn sang Maroc ngay khi máy bay được tiếp nhiên liệu, họ quyết tâm làm được điều đó, dù phải nổ súng chiếm xe chở xăng dầu.
Rất nhiều cuộc ẩu đả đã xảy ra quanh xe chở xăng dầu nên chiếc xe này chỉ di chuyển với sự canh gác của những người Senegal cầm súng gắn lưỡi lê ngồi trên két xăng.
Máu đông bịt kín mũi khiến tôi rất khó thở. Tôi chỉ có một ước muốn: nằm nghỉ trên bãi cỏ và cứ nằm ngửa trên đó mà không cử động. Mặc dù vậy, sức sống của mẹ tôi, ý chí phi thường của bà đã đẩy tôi tiến lên phía trước, và trên thực tế, người đi lang thang từ máy bay này sang máy bay khác không phải là tôi, mà là một người phụ nữ già nua đầy quyết tâm, mặc quần áo màu xám, tay chống gậy, miệng ngậm điếu thuốc Gauloise, quyết chí sang Anh để tiếp tục chiến đấu.