CHƯƠNG XXXII
TUY NHIÊN CUỐI CÙNG TÔI CŨNG CHẤP NHẬN ý kiến của mọi người, theo đó Bắc Phi sẽ tiếp tục có chiến tranh, và vì sư đoàn rốt cuộc đã được lệnh đi Meknès, tôi rời Mérignac lúc năm giờ chiều, và đến Salanque, bên bờ Địa Trung Hải, vào lúc đêm xuống, kịp biết là có lệnh cấm tất cả máy bay ở trên sân bay cất cánh. Một chính quyền mới kiểm soát bầu trời châu Phi được mấy tiếng đồng hồ rồi, và tất cả các mệnh lệnh trước đó coi như không có. Tôi đủ hiểu mẹ để biết bà sẽ không ngần ngại để cho tôi bơi qua biển Địa Trung Hải; thế là ngay lập tức, tôi thỏa thuận với một thượng sĩ trong sư đoàn, và không cần chờ lệnh cũng như phản lệnh mới của các vị chỉ huy đáng kính, chúng tôi bay về hướng Algérie ngay sáng sớm.
Chiếc Potez của chúng tôi chạy bằng động cơ Pétrel nên không đủ khả năng bay một mạch đến Alger mà không có bình chứa bổ sung. Nó có nguy cơ ngừng bay khoảng bốn mươi phút trước khi đến bờ biển châu Phi.
Dù sao chúng tôi vẫn bay. Tôi biết rõ mình sẽ không sao cả vì một sức mạnh yêu thương lớn lao luôn dõi theo tôi, và cũng vì sở thích đối với kiệt tác, cách tiếp cận cuộc sống một cách bản năng của tôi như thể cuộc sống là một tác phẩm nghệ thuật đang trong quá trình sáng tác mà logic giấu kín nhưng bất di bất dịch rốt cuộc sẽ mãi mãi là logic của cái đẹp, luôn thúc đẩy tôi sắp xếp tương lai của mình trong trí tưởng tượng theo một sự tương ứng tuyệt đối giữa tông màu và kích thước, giữa vùng tối và ánh sáng, như thể toàn bộ số phận con người bắt nguồn từ một cảm hứng cổ điển và mang màu sắc Địa Trung Hải phi thường nào đó, chú trọng trước tiên vào tính cân bằng và hài hòa. Lối nhìn nhận sự vật như vậy, bằng cách biến công lý thành một kiểu đòi hỏi về thẩm mỹ, đã khiến cho tôi nghĩ rằng mình không thể tổn thương chừng nào mà mẹ còn sống - tôi vốn là kết thức có hậu của mẹ tôi - và cách nhìn nhận đó cũng bảo đảm cho tôi được về nhà trong khải hoàn ca. Còn thượng sĩ Delavault, dù có thể còn lâu mới tưởng tượng ra được đời sống được thiên phú kiểu gắn kết bí ẩn và tuyệt vời của một tác phẩm nghệ thuật này, anh ta cũng không ngần ngại bay trên đầu sóng ngọn gió với những động cơ quá yếu, với câu nói “rồi sẽ biết tay ông” điềm tĩnh, không cần sự cứu rỗi nào của văn chương, chỉ cần hai cái lốp để trong khoang máy bay để khi cần chúng tôi có thể làm phao cứu sinh.
May thay, sáng hôm đó trời nổi gió, và để an toàn hơn, mẹ tôi có lẽ cũng thổi góp ít nhiều, chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Maison-Blanche, tại Alger, trong thùng chứa còn đủ xăng để thoải mái bay thêm mười phút nữa.
Sau đó chúng tôi tiếp tục bay về phía Meknès nơi Trường Không quân tạm thời sơ tán và nơi chúng tôi đến kịp để được biết là không những chính quyền Bắc Phi đã chấp nhận đình chiến, mà sau khi “những kẻ đào ngũ” bay những chuyến đầu tiên đến hạ cánh tại Gibraltar, đã có lệnh phá hỏng tất cả máy bay.
Mẹ tôi bực tức vô cùng. Bà không để tôi yên phút nào hết. Bà phẫn nộ, la hét, phản đối. Tôi không tài nào trấn an mẹ tôi được. Bà hừng hực lửa trong từng tiểu cầu máu của tôi, bà phẫn nộ và nổi loạn trong từng nhịp đập trái tim tôi, khiến tôi thao thức suốt đêm, quấy rối tôi, buộc tôi phải làm cái gì đó. Tôi đưa mắt nhìn chỗ khác tránh gương mặt mẹ để thôi phải chứng kiến cái cách biểu hiện thái độ không chịu cảm thông đầy công phẫn này trước một hiện tượng hoàn toàn mới mẻ với bà, bởi đó là sự chấp nhận thất bại, như thể con người là cái gì đó có thể chiến bại. Tôi cố van xin mẹ hãy làm chủ mình, hãy để cho tôi thở, hãy kiên nhẫn, hãy tin tưởng tôi cũng vô ích, tôi thấy rõ rằng mẹ thậm chí còn không thèm nghe tôi nữa. Không phải vì khoảng cách giữa chúng tôi, tất nhiên rồi, bởi trong những giờ phút kinh khủng này, mẹ không rời xa tôi dù chỉ một chốc. Nhưng mẹ công phẫn, mẹ bị tổn thương sâu sắc bởi Bắc Phi không chịu nghe theo tiếng gọi của bà.
Tướng de Gaulle kêu gọi tiếp tục chiến đấu vào ngày mười tám tháng Sáu năm 1940. Không muốn làm cho công việc của các sử gia phức tạp thêm mà tôi chỉ mong nói rõ là mẹ tôi kêu gọi tiếp tục chiến đấu vào khoảng ngày mười lăm hay mười sáu tháng Sáu gì đó - ít nhất là hai ngày trước lời kêu gọi của tướng de Gaulle. Rất nhiều bằng chứng chứng tỏ điều này và đến nay vẫn có thể thu thập được ở chợ Buffa.
Hẳn phải có đến hai mươi người đã thuật lại cho tôi một cảnh tượng khiến tất cả hốt hoảng, cái cảnh tượng mà nhờ trời tôi không phải chứng kiến, nhưng nó luôn khiến tôi đỏ mặt tía tai vì xấu hổ mỗi lần nghĩ đến, ở đó, mẹ tôi, đứng trên một chiếc ghế dựa trước quầy rau của ông Pantaleoni, tay huơ gậy kêu gọi mọi người không chấp nhận đình chiến và tiếp tục chiến đấu tại Anh bên cạnh con trai bà, vốn là một nhà văn nổi tiếng, người đang giáng cho kẻ thù những đòn chí mạng. Tội nghiệp mẹ tôi. Tôi luôn rơm rớm nước mắt mỗi khi nghĩ rằng người mẹ khốn khổ của tôi kết thúc bài trường thoại của mình bằng cách mở túi ra khoe mọi người xung quanh một trang tuần báo trong đó có đăng một truyện ngắn của tôi. Chắc là có những kẻ cười mẹ tôi. Tôi không giận họ. Tôi chỉ giận mình vì thiếu tài năng, thiếu anh dũng, vì chỉ biết làm chính bản thân mình. Tôi không muốn dâng tặng mẹ những thứ đó.
Việc phá hỏng máy bay trên các sân bay Bắc Phi làm chúng tôi ngao ngán vô cùng. Mẹ tôi la hét, phản đối, quay sang đổ tội cho tôi, cho sự mềm yếu của tôi, phẫn nộ vì tôi ở lại theo cách đó, nằm vật trên giường gấp thay vì phản ứng kịch liệt, thay vì, chẳng hạn, đi gặp tướng Noguès để bằng vài lời thấu đáo nói cho ông ta biết tôi nghĩ về điều đó như thế nào. Tôi cố giải thích với mẹ rằng vị tướng ấy thậm chí sẽ không thèm tiếp tôi đâu, nhưng tôi đã thấy mẹ thủ cái gậy đi lên cầu thang Tòa Công sứ, và tôi biết rõ có lẽ mẹ đã tìm ra cách để được người ta nghe mình. Tôi cảm thấy mình không xứng đáng.
Chưa bao giờ sự hiện diện của mẹ tôi lại thực hơn, lại hữu hình hơn với tôi như trong những giờ phút dài dằng dặc lang thang không biết đi đâu về đâu qua khu Ả rập ở Meknès, giữa đám người Ả rập làm tôi bỡ ngỡ vô cùng bởi màu sắc, âm thanh, mùi vị của họ, như trong những giờ phút cố quên đi, dù chỉ trong chốc lát, dưới làn sóng ngoại lai bất chợt ùa vào tôi này, tiếng nói của dòng máu tôi đang liên tục kêu gọi tôi chiến đấu với một sự khoa trương không chịu đựng nổi, sự khoa trương mỗi lúc mỗi phình ra bởi những sáo ngữ quen thuộc nhất trong vốn tiết mục yêu nước cực đoan. Mẹ lợi dụng lúc tôi đang mệt mỏi tinh thần cực độ và ủ rũ vô cùng để choán lấy mọi chỗ; sự hỗn loạn sâu sắc của tôi, nhu cầu được thương yêu bảo vệ của tôi, do quá quen với sự che chở của mẹ, thói quen vốn để tôi lại với khát vọng mơ hồ được cảm thấy một tình thương yêu thiên phú đầy nữ tính nào đó đang dõi theo mình, tất cả những điều ấy khiến tôi hoàn toàn bị cuốn theo hình ảnh của mẹ tôi, hình ảnh bà không rời tôi dù chỉ một lúc; tôi tin rằng chính trong suốt những giờ phút lang thang lâu lắc đó, trong sự cô đơn giữa một đám đông lạ hoắc và sặc sỡ, những điều mạnh mẽ nhất trong con người mẹ tôi đã hoàn toàn thắng thế trước những yếu đuối và thiếu quyết đoán còn lại trong tôi, rằng hơi thở của mẹ đã chiếm lấy tôi và thay thế hơi thở của tôi, rằng mẹ đã thực sự trở thành tôi, bằng toàn bộ tính cách mạnh mẽ, bằng những tính khí thất thường, bằng sự thiếu chừng mực, bằng tính hung hãn, bằng các kiểu thái độ, bằng sở thích bi kịch của mẹ, tất cả những nét đặc sắc trong tính cách cực đoan này rốt cuộc cũng biến tôi thành một người chẳng quản phiêu lưu mạo hiểm, trong giai đoạn sau, bên cạnh các đồng đội và những vị chỉ huy của mình.
Thú thật là khi ấy tôi đã cố trốn thoát sự hiện diện uy quyền của mẹ tôi, tôi cố chạy trốn vào thế giới lúc nhúc và ô hợp của khu Ả rập; tôi lang thang trong chợ; tôi mải mê ngắm da thuộc và kim loại được gia công bằng một thứ nghệ thuật còn mới lạ với tôi, tôi cúi xuống hàng nghìn đồ vật, dưới cái nhìn chăm chăm và xa vời của các chủ quán ngồi khoanh chân trên quầy, đầu và vai dựa vào tường, ống điếu kề miệng, trong mùi hương và mùi bạc hà; tôi đi qua khu đèn đỏ, lúc ấy tôi không thể ngờ là cuộc phiêu lưu đê hèn nhất trong đời đang chờ mình ở đó; tôi ngồi ở thềm quán cà phê Ả rập và vừa hút xì gà vừa uống chè xanh để chống lại tình trạng tinh thần suy sụp thông qua cảm giác khỏe khoắn về mặt thể chất theo như thói quen cổ lỗ sĩ của mình; trong khi ấy, tôi đi đâu là mẹ tôi theo đó, và giọng nói của bà ngân vang trong tôi với sự mỉa mai cay độc. Thế đấy, du lịch đây đó một chút thì thoải mái chứ? Phải chăng là để thay đổi cách suy nghĩ? Trong khi mà nước Pháp của tổ tiên tôi đang nằm chết gí, đang bị giằng xé giữa một bên là kẻ thù độc ác và một bên là chính phủ gồm những kẻ cúi đầu? Thế đấy! Nếu con trai bà vào tuổi trưởng thành mà lại như vậy thì nhẽ ra nó nên ở lại Wilno, cần gì phải sang Pháp, thực sự trong tôi không có những gì cần thiết để làm một người Pháp.
Tôi đứng dậy và rảo bước vào một khu phố nhỏ, đi giữa những người phụ nữ che mạng, những kẻ ăn mày, những người bán hàng, những con lừa, những quân nhân, và nói thực, trong sự thay đổi liên tục của cảm giác, hình dạng và màu sắc, tôi khiêm tốn thú nhận là một vài lần gì đấy, tôi đã có thể gieo được niềm tin của mình.
Đúng vào lúc đó, tôi trải qua chuyện tình có thể nói là ngắn nhất mọi thời đại.
Vào uống trong một quán bar ở khu phố châu Âu, tôi gặp cô gái phục vụ tóc vàng và chỉ sau hai phút tôi đã tâm sự với cô một cách tự nhiên, cô tỏ ra rất xúc động trước bản serenade đầy nhiệt huyết của tôi. Mắt cô bắt đầu nhìn khắp gương mặt tôi, ngắm từng đường nét với một sự âu yếm và quan tâm khiến tôi có cảm giác bỗng nhiên nhú mầm để cuối cùng cũng trở thành một người đàn ông toàn diện. Trong khi mắt cô nhìn từ tai xuống môi tôi để rồi mộng mơ nhìn lên chân tóc tôi, ngực tôi như nở ra, tim tôi tăng phần dũng mãnh, cơ bắp tôi căng phồng như sau mười năm luyện tập và cả trái đất trở thành một cái bệ. Khi tôi cho cô biết ý định sang Anh của tôi, cô tháo khỏi cổ mình sợi dây chuyền có treo cây thánh giá nhỏ bằng vàng và chìa cho tôi. Bỗng nhiên, không thể cưỡng lại được, tôi thèm được bỏ rơi mẹ tôi, nước Pháp, nước Anh và tất cả hành trang tinh thần mà tôi đang vác nặng trên vai, để được ở bên cạnh người duy nhất hiểu rõ tôi như thế này. Cô gái phục vụ ấy là người Ba Lan đến từ nước Nga qua dãy Pamir và Iran, tôi đeo dây chuyền vào cổ rồi hỏi cưới ý trung nhân của mình. Khi đó chúng tôi đã quen nhau được mười phút. Cô chấp nhận. Cô cho tôi hay là chồng và anh trai cô đã bị giết chết trong chiến dịch Ba Lan và cô sống một mình từ đó, ngoài những lúc bắt buộc phải ngủ với người ta để có tiền nuôi thân và để xin được giấy tờ. Mặt cô lộ vẻ đau khổ và thống thiết, điều này khiến tôi càng cảm giác như mình đang giúp đỡ và bảo vệ cô, trong khi trái lại, chính tôi mới là người đang tìm cách bám lấy cái phao nữ tính đầu tiên trôi dạt trên con đường của mình. Để đối diện với cuộc sống, tôi luôn cần sự trợ lực của một nữ tính nào đó vừa dễ bị tổn thương vừa tận tụy, có phần nhu mì và biết ơn, cho tôi cảm giác cho trong khi mình nhận, cho tôi cảm giác đỡ trong khi mình dựa. Tôi tự hỏi cái nhu cầu kỳ lạ này xuất phát từ đâu. Thu mình trong áo da, bất chấp cả nóng nắng oi bức, mũ cát két đội sụp mặt, vẻ tự tin và che chở rất đàn ông, tôi gieo người vào tay cô. Thế giới đang sụp đổ xung quanh khiến chúng tôi lao vào nhau với vận tốc chóng mặt, ngang bằng vận tốc của cuộc sụp đổ kia.
Lúc ấy là hai giờ chiều, giờ nghĩ trưa, thời điểm rất thiêng liêng ở châu Phi, quán bar vắng người. Chúng tôi lên phòng của cô rồi trong nửa tiếng đồng hồ, chúng tôi ôm riết lấy nhau, chưa bao giờ có cảnh hai người đang chết đuối lại cố gắng hơn để làm chỗ dựa cho nhau. Chúng tôi quyết định lấy nhau ngay lập tức và sau đó sẽ cùng nhau sang Anh. Tôi có hẹn lúc ba giờ rưỡi với một đồng đội, anh ta đã đi gặp ông Lãnh sự Anh ở Casa để xin ông ra tay giúp đỡ. Tôi rời quán bar lúc ba giờ để đi gặp đồng đội của mình và nói với anh là chúng tôi sẽ có ba người thay vì hai như dự kiến ban đầu. Khi tôi quay lại quán bar lúc bốn giờ rưỡi, khách khứa ở đó đã đông rồi và vợ chưa cưới của tôi rất bận rộn. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra trong lúc tôi đi vắng - hẳn cô đã gặp ai đó - nhưng tôi nhận ra là giữa chúng tôi tất cả đã kết thúc. Có lẽ cô không chịu đựng nổi cảnh chia ly. Cô đang nói chuyện với một trung úy kỵ binh đẹp trai: tôi nghĩ anh ta đã bước vào đời cô trong khi cô đang chờ đợi tôi. Đó là lỗi của tôi: không bao giờ được rời người phụ nữ mình yêu, cô đơn thường xâm chiếm họ, khiến họ nghi ngờ và chán nản, và thế là xong. Có lẽ cô đã mất niềm tin ở tôi, cứ tưởng tôi không quay lại nữa, và cô quyết định làm lại cuộc đời. Tôi rất đau khổ, nhưng tôi không thể giận cô được. Tôi la cà ở đó một lúc nữa, trước cốc bia của mình, dù sao vẫn thất vọng kinh khủng, vì tôi những tưởng đã giải quyết hết các vấn đề của mình. Cô gái Ba Lan này thật sự xinh đẹp, nom như một cô gái bị bỏ rơi, không nơi nương tựa, vẻ bề ngoài đó tạo cho tôi rất nhiều cảm hứng, cử chỉ vén những lọn tóc vàng để chúng khỏi che mặt của cô cho đến giờ vẫn khiến tôi xúc động mỗi lần nghĩ tới. Tôi vốn là người rất dễ gắn bó. Tôi quan sát hai người một lúc để xem có đúng là không còn hy vọng nữa không. Nhưng không còn hy vọng. Tôi nói với cô vài lời bằng tiếng Ba Lan để cố chạm vào sợi dây yêu nước của cô, nhưng cô ngắt lời tôi và cho tôi hay rằng cô sẽ lấy anh trung úy vốn là dân di cư đó, và sẽ đến sinh sống ở Bắc Phi, rằng cô quá chán chiến tranh rồi, vả lại, chiến tranh đã kết thúc, thống chế Pétain đã cứu nước Pháp và sẽ sắp xếp mọi chuyện đâu vào đấy. Cô còn nói thêm là người Anh đã phản bội chúng tôi. Tôi buồn bã liếc mắt nhìn anh trung úy kỵ binh, thời ấy trung úy kỵ binh có mặt ở khắp nơi với chiếc áo khoác màu đỏ, rồi tôi buông xuôi. Cô bé tội nghiệp cố bám lấy bất cứ cái gì có vẻ bề ngoài vững chắc trong trận đắm tàu, cho nên tôi không thể giận cô. Tôi thanh toán chai bia rồi bỏ vào đĩa tiền boa cùng chiếc dây chuyền nhỏ có cây thánh giá bằng vàng. Người ta có thể hào hiệp, hoặc không.
Nhà bố mẹ anh bạn tôi ở Fez, thế là chúng tôi đến đó bằng xe khách. Cô em gái của anh ra mở cửa và tôi thấy, trước mặt mình, một cái phao cứu sinh khiến tôi quên ngay cái phao mình để tuột mất cách đó không lâu ở Meknès. Simone là một trong những cô gái Pháp ở Bắc Phi, làn da ngăm ngăm, cổ tay cổ chân xinh xắn và đôi mắt đa tình của họ là những đặc trưng đáng yêu và được nhiều người biết đến. Cô rất vui tính, có học thức, luôn khích lệ anh trai mình và tôi tiếp tục chiến đấu và thỉnh thoảng nhìn tôi với một vẻ nghiêm trang khiến tôi xáo động. Trong đôi mắt cô, một lần nữa, tôi cảm thấy mình là một người toàn diện, thẳng thắn, vững vàng, thế nên tôi quyết định cầu hôn cô ngay. Cô nhận lời không ngần ngại và chúng tôi hôn nhau trước ánh mắt xúc động của bố mẹ cô, chúng tổi thỏa thuận với nhau là cô sẽ đến Anh với tôi ngay khi có cơ hội đầu tiên. Sáu tuần sau, tại London, anh trai cô trao cho tôi một lá thư trong đó Simone cho tôi biết là cô đã lấy một kiến trúc sư trẻ tuổi ở Casa, đối với tôi đó là một cú trời đánh, bởi vì không những tôi cứ tưởng đã tìm được ở cô người bạn đời của mình, mà còn vì tôi đã hoàn toàn quên cô, và do vậy lá thư đó đối với tôi là một tiết lộ kép rất đau buồn về chính bản thân tôi.
Những cố gắng của chúng tôi trong việc thuyết phục ông Lãnh sự Anh cấp cho chúng tôi giấy tờ giả không có kết quả, thế là tôi quyết định chiếm một chiếc máy bay hiệu Morane-315 tại sân bay Meknès và sẽ hạ cánh xuống Gibraltar, vấn đề là phải tìm được một chiếc máy bay không hỏng hoặc tìm cho ra một thợ máy có thiện ý; thế là tôi bắt đầu lang thang trên sân bay, mắt nhìn chằm chằm từng thợ máy một hòng đọc được những gì trong lòng anh ta. Tôi lại bắt chuyện với một người, vẻ mặt tươi tỉnh và cái mũi hếch của anh ta khiến tôi khá tin tưởng, đúng lúc đó tôi thấy một chiếc Simoun hạ cánh xuống sân bay và dừng lại cách chỗ tôi đứng hai mươi bước. Một trung úy phi công ra khỏi máy bay và tiến về phía nhà để máy bay. Đó là cái nháy mắt đồng lõa và thân thiện của ông trời dành cho ý định của tôi và không đời nào tôi bỏ qua cơ hội này. Tôi toát mồ hôi lạnh, lo sợ đến thắt cả ruột: tôi không hề chắc mình có thể cho cất cánh và lái một chiếc Simoun. Trong những giờ tập lén lút, tôi chưa bao giờ vượt qua chiếc Morane và chiếc Potez-540. Nhưng tôi không thể trốn tránh: đã có người giữ tôi lại rồi. Tôi cảm thấy mẹ đang nhìn tôi với vẻ hãnh diện và khâm phục. Bỗng tôi tự hỏi là trong hoàn cảnh thất trận và bị chiếm đóng, ở Pháp có thiếu insulin không. Nếu ba ngày mà không tiêm insulin thì chắc mẹ tôi không qua khỏi. Có thể tôi sẽ thu xếp với hội Chữ thập Đỏ ở London để gửi insulin cho mẹ qua ngả Thụy Sĩ.
Tôi bước tới chiếc Simoun, trèo lên và ngồi vào buồng lái. Hình như không ai trông thấy tôi cả.
Tôi đã nhầm. Gần như khắp nơi, trong từng nhà để máy bay, hiến binh cảnh sát Không quân đã được chỉ huy bố trí để ngăn các cuộc “đào ngũ” trên không, đã có nhiều vụ như thế xảy ra với sự đồng lõa của một vài thợ máy. Cũng sáng hôm đó, một chiếc Morane-230 và một chiếc Goéland đã hạ cánh xuống trường đua ngựa Gibraltar. Tôi mới ngồi lên ghế đã thấy hai hiến binh chạy ra khỏi nhà để máy bay và lao về phía mình - một người trong số họ đang rút súng khỏi bao. Họ đã ở cách tôi ba mươi mét mà cánh quạt vẫn chưa quay. Tôi thử lần cuối cùng nhưng vô vọng, rồi nhảy khỏi máy bay. Khoảng mười anh lính đã ra khỏi nhà để máy bay và chăm chú nhìn tôi. Họ không hề có động tĩnh gì để chặn tôi lại, trong khi tôi chuồn như chạch trước đội quân đó, nhưng họ tha hồ có thời gian mà ngắm nghía mặt tôi. Do cực kỳ ngu ngốc, đặc biệt là do tác động của không khí “chiến thắng hay là chết” mà từ nhiều ngày nay tôi chìm đắm ở trong, khi nhảy từ chiếc Simoun xuống tôi đã rút súng ra, vừa cầm súng vừa chạy bạt mạng, không cần phải nói, hành động này sẽ không có lợi cho tình thế của tôi trước tòa án binh. Nhưng tôi đã quyết định là sẽ không có tòa án binh gì hết. Trong trạng thái tinh thần lúc ấy, thành thực mà nói tôi không tin mình sẽ bị bắt sống. Và vì bắn súng rất giỏi, nên tôi vẫn còn rùng mình khi nghĩ đến chuyện sẽ xảy ra nếu tôi không trốn thoát. Tuy nhiên tôi làm được như vậy không mấy khó khăn. Cuối cùng tôi đã cất súng và cho dù người ta huýt còi inh ỏi sau lưng, tôi vẫn chạy chậm lại và bình tĩnh ra khỏi trại bằng lối qua trạm gác. Trước mặt tôi là một con đường, và tôi mới ra được năm mươi mét thì một chiếc xe buýt xuất hiện. Tôi ra hiệu, kiên quyết chặn ngang đường nó đi và thế là chiếc xe dừng lại. Tôi lên xe và ngồi cạnh hai người phụ nữ đeo mạng cùng một anh đánh giày mặc áo choàng trắng. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Trong tình thế nguy khốn nhưng tôi không mảy may lo lắng. Trái lại, một cảm giác hưng phấn thực sự đang xâm chiếm lấy tôi. Cuối cùng tôi cũng đã đoạn tuyệt hoàn toàn với tình trạng đình chiến, cuối cùng tôi cũng đã trở thành một người không chịu khuất phục, một con người cứng rắn, một con người đích thực và một kẻ xăm mình, chiến tranh vừa tiếp tục, không có chuyện lùi bước nữa. Tôi cảm thấy trên mặt mình ánh mắt ngưỡng mộ của mẹ tôi và không thể ngăn mình mỉm cười với vẻ hơi trịch thượng, thậm chí là cười ra tiếng. Chúa thứ lỗi cho tôi, đến giờ tôi hãy còn tin là mình đã nói với mẹ một câu gì đó hơi kiêu căng, đại loại như “mẹ hãy đợi đấy, mọi việc chỉ mới bắt đầu thôi, rồi mẹ sẽ thấy”. Ngồi trong chiếc xe buýt bẩn thỉu, giữa những con mụ đeo mạng và những gã mặc áo choàng buanu trắng, tôi khoanh tay lại và rốt cuộc cũng cảm thấy mình đúng tầm với những gì người khác trông chờ ở mình. Tôi châm một điếu xì gà để đẩy tinh thần bất khuất của mình đến cùng - người ta cấm hút thuốc trong xe buýt - và hai mẹ con tôi ở đó một lúc, vừa hút thuốc vừa lặng lẽ chúc tụng nhau. Tôi không hề biết mình sẽ làm gì, nhưng nom tôi dữ tợn đến mức mà khi thoáng thấy mình trong gương chiếu hậu, tôi phát sợ tới nỗi làm rơi cả điếu xì gà khỏi miệng.
Tôi chỉ tiếc đứt ruột là đã để chiếc áo vest da ở chỗ trú quân, không có nó tôi cảm thấy khá đơn độc. Tôi khó mà chịu nổi nỗi cô đơn nên đã gắn bó sâu sắc với chiếc áo da của mình. Như tôi đã nói, tôi là người rất dễ gắn bó. Đó là điểm tối duy nhất trên bức tranh. Tôi cố bám lấy điếu xì gà, nhưng xì gà thì cũng chỉ cháy được một lúc mà điếu xì gà của tôi lại có vẻ như cháy cực nhanh trong không khí khô nóng của châu Phi, và chẳng mấy chốc sẽ để tôi ở lại một mình.
Tôi vừa hút xì gà vừa lên kế hoạch. Các đội tuần tra quân đội chắc chắn sẽ lùng sục khắp thành phố để tìm ra tôi, như vậy bằng mọi giá tôi phải tránh những nơi mà bộ quân phục của mình hơi nổi trội trên phông nền bản xứ. Tôi nghĩ cách tốt nhất là trốn vài ngày rồi sau đó đi Casa và tìm cách lên một chiếc tàu thủy nào đấy sắp khởi hành. Người ta bảo quân đội Ba Lan đang sơ tán qua Anh với sự đồng ý của chính phủ và tàu thủy Anh đến đón họ ở các cảng. Trước tiên, tôi phải để người ta quên tôi đi chút đã. Tôi quyết định bốn mươi tám tiếng đồng hồ đầu tiên mình sẽ ở lại bousbir, khu đèn đỏ, ở đó, lạc giữa làn sóng đông nghịt những quân nhân đủ mọi thành phần tới để thư giãn, tôi có nhiều cơ may không bị ai nhận ra. Mẹ tôi hơi lo lắng về sự lựa chọn nơi trốn của tôi, nhưng tôi trấn an mẹ ngay. Thế là tôi xuống xe buýt ở khu phố Ả rập rồi đi về phía khu đèn đỏ.